Tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang: ... Ebook Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 17470 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, công tác quy lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước và đã đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài, việc thực hiện đúng phương án quy hoạch đóng vai trò quyết định tính khả thi và hiệu quả của phương án quy hoạch sử dụng đất. Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải phù hợp với yêu cầu thực tế phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Việc sử dụng đất phải triệt để tiết kiệm, tránh lãng phí quỹ đất, phân bổ hợp lý quỹ đất cho nhu cầu sử dụng khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt ưu tiên đất đai cho nhiệm vụ phát triển nông nghiệp.
Tuy nhiên, quá trình triển khai lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn nhiều hạn chế bất cập. Việc tổ chức thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo”. Nhiều phương án quy hoạch chưa dự báo được hết tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong kỳ quy hoạch, việc bố trí quỹ đất cho các thành phần kinh tế không sát với với nhu cầu thực tế, dẫn đến qúa trình thực hiện phải điều chỉnh bổ sung nhiều lần; đặc biệt ở những địa phương có điều kiện thuận lợi về giao thông, gần các trung tâm kinh tế lớn, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh. (công nghiệp, dịch vụ phát triển).
Huyện Việt Yên được tỉnh Bắc Giang chọn là địa bàn phát triển các khu công nghiệp, dịch vụ tập trung của tỉnh, với tính chất như vậy nên cơ cấu đất đai của huyện trong những năm qua có nhiều biến động. Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để nhường đất cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, nhiều hộ nông dân không còn đất để canh tác. Với mục tiêu giúp địa phương nhìn nhận đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001- 2010, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và những tồn tại bất cập trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2007; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của phương án quy hoạch sử dụng đất; khắc phục những nội dung sử dụng đất bất hợp lý, đề xuất, kiến nghị điều chỉnh những nội dung của phương án quy hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến động trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2001 – 2010; tìm ra những yếu tố tích cực, những hạn chế bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện phương án quy hoạch.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án quy hoạch sử dụng đất. Đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của huyện.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học, lý luận của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Đất đai là một vùng lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất, mảnh đất, miếng đất . . .) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính, thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, điạ chất, thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá tính . . .) tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch – đây là quá trình nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm phân định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định [11].
Về bản chất: Đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là mối quan hệ đất đai) và tổ chức sử dụng đất như “tư liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội [16]. Như vậy, Quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng thời ba tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó cần hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu . . .
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, hiệu quả, khoa học thông qua việc phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng và định hướng tổ chức sử dụng đất cho các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức và người sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái bền vững [4].
Theo FAO [19]: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội nhằm lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn tài nguyên cho tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu của con người và điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ năng sử dụng đất”.
Phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt là căn cứ để bố trí sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt là chuyển diện tích trồng lúa có hiệu quả cao sang các mục đích phi nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây lâu năm. Như vậy, mục đích của quy hoạch sử dụng đất nhằm tạo ra những điều kiện về tổ chức lãnh thổ, thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để Nhà nước thống nhất quản lý đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nó được xây dựng trên định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển đô thị, yêu cầu bảo vệ môi trường, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh; Hiện trạng quỹ đất và nhu cầu sử dụng; Định mức sử dụng đất, tiến bộ khoa học kỹ thuật; Kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ trước. Những năm gần đây, quy hoạch đã góp phần không nhỏ tạo ra kết quả đáng khích lệ, giúp khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tiềm năng, nguồn lực về đất, mở rộng diện tích đất canh tác, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn lương thực [13].
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, kết hợp với bảo vệ đất và môi trường [10].
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; làm cơ sở tiến hành cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá – xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội và hậu quả khó lường về tình hình bất ổn chính trị, an ninh quốc phòng ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường [4].
2.1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp thành quan trọng của của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất: [4]
* Tính lịch sử - xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch sử dụng đất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương thức sản xuất xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất). Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh mối quan hệ giữa người với đất đai – là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế . . .) cũng như quan hệ giữa người với người (xác nhận bằng văn bằng về sở hữu và quyền sử dụng đất giữa người với chủ sử dụng đất – GCN QSDĐ). Quy hoạch sử dụng đất thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về pháp lý (là phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai: phân chia, tập trung đất đai để mua, bán, phát canh thu tô . . . ) Ở nước ta, quy hoạch sử dụng đất phục vụ nhu cầu sử dụng đất và quyền lợi của xã hội; góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn; nhằm sử dụng, bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất đã góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau.
* Tính tổng hợp: Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất thể hiện ở hai mặt: Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ tài nguyên đất đai cho nhu cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch sử dụng đất đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi trường sinh thái . . Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; Điều hoà các mâu thuẫn về đất đai của các ngành, lĩnh vực; xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân bổ sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
* Tính dài hạn: Thể hiện ở việc xác định nhu cầu sử dụng đất để phát triển kinh tế - xã hội lâu dài.
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, đô thị hoá công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp . . .), từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm, 5 năm và lâu hơn nữa.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế - xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong thời gian dài (cùng với phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và sử dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử dụng đất thường từ trên 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn.
* Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô: Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất của các ngành như:
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng đất trong vùng;
- Cân đối nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bổ đất đai trong vùng;
- Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất đai trong vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của phương hướng sử dụng đất.
Do khoảng thời gian dự báo là tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định.
* Tính chính sách: Quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân, phát triển ổn định kế hoạch kinh tế - xã hội; Tuân thủ các quy định, chỉ tiêu khống chế về dân số và môi trường sinh thái.
* Tính khả biến: Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất chỉ là một trong những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp cho việc phát triển kinh tế trong thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến của quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc “quy hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện . . .” với chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
2.1.2. Những nguyên tắc của quy hoạch sử dụng đất.
Với những áp lực và thực trạng sử dụng đất đai hiện nay cho thấy nguồn tài nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới gia tăng. Do đó, đòi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử dụng đất đai và loại đất đai để đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và an toàn lương thực, đồng thời cũng bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi trường sống. Quy hoạch sử dụng đất đai là nền tảng cho quá trình này, thông qua quy hoạch sử dụng đất, Nhà nước thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu về sử dụng đất cho các ngành, các đơn vị, cá nhân sử dụng đất và điều chỉnh các mối quan hệ đất đai. Như vậy quy hoạch sử dụng đất thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh mối quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt được xây dựng dựa trên những nguyên tắc sau:
Một là, Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai
Nguyên tắc này là cơ sở của mọi hoạt động và biện pháp liên quan tới quyền sử dụng đất, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động quy hoạch sử dụng đất. Nó không chỉ mang tính ý nghĩa kinh tế, mà còn là một vấn đề chính trị quan trọng, bởi vì tài nguyên đất đã được quốc hữu hoá là đối tượng sở hữu Nhà nước, đồng thời là căn cứ quan trọng để phát triển sức sản xuất, để củng cố và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nông nghiệp.
Luật pháp nhà nước tuyệt đối nghiêm cấm việc sử dụng đất không đúng mục đích, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm quyền sử dụng đất và tính ổn định của mỗi đơn vị sử dụng đất, đó là cơ sở quan trọng nhất để phát triển sản xuất. Theo quy định tại điều 5 của Luật đất đai năm 2003: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Quyền quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước được thể hiện theo luật pháp và thể hiện ở nhiều mặt như đại diện chủ quyền quốc gia về lãnh thổ; quyền giao đất sử dụng ổn định lâu dài cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân; quyền cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thuê đất; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; quyền xác định khung giá đất; quyền giám sát, xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai. Để thực hiện quyền quản lý tập trung, thống nhất của mình, Nhà nước phải nắm và sử dụng tốt các công cụ quản lý cơ bản về quy hoạch sử dụng đất, công cụ tài chính, pháp luật và các chính sách kinh tế khác.
Quy hoạch sử dụng đất còn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các hành vi xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất. Khi quy hoạch sử dụng đất, người ta đã thiết lập nên đường ranh giới giữa các đơn vị sử dụng đất, giữa sản xuất nông nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử dụng đất với nhau, tức là đã xác định phạm vi quyền lợi của mỗi chủ sử dụng đất. Nhà nước cho phép các chủ sử dụng đất có các quyền về sử dụng đất, quyền sử dụng đất của các chủ sử dụng được xác nhận bằng các văn bản pháp luật và được luật pháp Nhà nước bảo hộ. Mọi thay đổi trong cơ cấu đơn vị sử dụng đất phải được phản ánh kịp thời trong các tài liệu thích hợp.
Hai là, sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện tồn tại cơ bản, gắn liền với hoạt động của con người, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà nước, có vai trò quan trọng với con người. Đất đai có một đặc điểm rất quan trọng là nếu được sử dụng đúng mục đích và hợp lý thì chất lượng ngày càng tốt lên. Tính chất đặc biệt này của đất đòi hỏi chúng ta phải hết sức chú ý trong việc sử dụng đất. Trong điều kiện diện tích đất đai có hạn, trong khi dân số không ngừng tăng nhanh, gây áp lực lớn đối với việc sử dụng đất đai. Điều này đòi hỏi việc sử dụng đất phải tiết kiệm và hiệu quả. Sử dụng đất tiết kiệm nghĩa là phải bố trí hài hoà giữa nhu cầu sử dụng đất của các ngành, hạn chế tối đa việc chuyển đất canh tác có hiệu quả cao sang sử dụng và các mục đích phi nông nghiệp, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu nông sản cho toàn xã hội và nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời cân đối quỹ đất thích hợp với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao chất lượng đất và mở rộng diện tích.
Một trong những vấn đề bảo vệ đất quan trọng nhất là ngăn ngừa và dập tắt các quá trình xói mòn do gió và nước gây nên. Đặc biệt đối với nước ta với đặc điểm địa hình đồi núi chiếm tới 3/4 lãnh thổ, lại nằm ở vùng nhiệt đới, mưa nhiều và tập trung, nhiệt độ không khí cao, các quá trình khoáng hoá diễn ra mạnh trong đất nên dễ bị rửa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và chất dinh dưỡng dẫn đến suy thoái; quan trọng hơn nữa trong thời gian qua do nạn chặt phá, đốt rừng diễn ra bừa bãi, sử dụng đất không bền vững làm cho nhiều vùng đất bị thoái hoá ngày càng nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản xuất và xu hướng hoang mạc hoá ngày càng tăng. Những điều này có tác hại rất lớn đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nếu chúng ta không có biện pháp chống xói mòn một cách có hệ thống thì hậu quả ngày càng lớn. Xói mòn sẽ làm mất đi lớp đất mặt mầu mỡ nhất. Khi tổ chức các biện pháp chống xói mòn cần tính đến các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn của từng vùng. Tổ hợp các biện pháp chống xói mòn sẽ được giải quyết trong một đồ án quy hoạch có luận chứng khoa học.
Nhưng trong lĩnh vực bảo vệ đất, quy hoạch sử dụng đất không chỉ làm nhiệm vụ chống xói mòn, mà còn phải chống các quá trình ô nhiễm đất, bảo vệ các yếu tố của môi trường thiên nhiên.
Ô nhiễm môi trường là vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội. Đất có thể bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, nước thải ra từ các nhà máy và nước thải sinh hoạt từ các đô thị lớn, ô nhiễm bởi các chất phóng xạ, bởi việc sử dụng quá mức các hoá chất bảo vệ thực vật độc hại và lạm dụng phân hoá học. Trong các phương án quy hoạch sử dụng đất cần dự kiến các biện pháp chống ô nhiễm một cách có hiệu quả.
Để tránh lãng phí, khi cấp đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, trong các phương án quy hoạch sử dụng đất phải bố trí hợp lý các công trình nhà ở và phục vụ sản xuất theo tinh thần tiết kiệm đất.
Ba là, tổ chức phân bổ quỹ đất cho các ngành đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Khi phân bổ quỹ đất cho các ngành, cần bảo đảm nguyên tắc tổ chức sử dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung và từng ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp.
Sự phát triển của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thuỷ điện, dầu khí . . . đều đòi hỏi phải có đất. Việc bố trí các xí nghiệp công nghiệp, các tuyến giao thông vận tải, các khu khai thác khoáng sản và công trình xây dựng lớn thường được dự kiến trước trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân dài hạn, với tiêu chí: những khoanh đất giao cho các nhu cầu phi nông nghiệp nên lấy từ đất chưa sử dụng hoặc đất sử dụng kém hiệu quả trong nông nghiệp.
Khi giao đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, hầu như bao giờ cũng làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất của đơn vị bị mất đất. Do đó, khi xây dựng dự án giao đất cần lưu ý để hoạt động sản xuất của các cơ sở đó không bị hoặc ít bị ảnh hưởng nhất. Trong trường hợp, nếu việc giao đất cho nhu cầu phi nông nghiệp làm cho cơ cấu sử dụng đất bị thay đổi nhiều, tổ chức lãnh thổ bên trong bị đảo lộn thì phải quy hoạch lại toàn bộ hoặc một phần hoặc từng bộ phận cho đơn vị sử dụng đất đó.
Khi đánh giá về mặt kinh tế những hậu quả do việc giao đất gây ra. Chủ sử dụng đất bị mất đất có quyền đòi hỏi chủ được giao đất phải bồi thường toàn bộ những khoản thiệt hại do việc thu hồi đất và giao đất gây ra và cả những chi phí để quy hoạch lại. Việc bồi thường những khoản chi phí trên cho chủ bị mất đất là nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ được giao đất.
Bốn là, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ hợp lý.
Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo kế hoạch chung của Nhà nước, của ngành và của từng đơn vị sử dụng đất cụ thể. Trên cơ sở đó có thể áp dụng các hình thức quản lý kinh tế tiên tiến, ứng dụng các công nghệ mới, các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả sử dụng đất và sử dụng lao động.
Quy hoạch sử dụng đất phải nhằm mục đích tạo ra những điều kiện về tổ chức lãnh thổ thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà nước giao. Khi quy hoạch sử dụng đất, người ta dự kiến phương hướng sử dụng đất trong một thời gian dài.
Quy hoạch sử dụng đất phải có sự kết hợp hài hoà nhu cầu sử dụng đất của các ngành, tổ chức lãnh thổ hợp lý mới giúp cho việc phát triển các ngành cân đối theo chỉ tiêu và nhu cầu sử dụng đất đã định.
Năm là, phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ.
Mỗi vùng, mỗi đơn vị sử dụng đất đều có những điểm khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nên phương án quy hoạch xây dựng phù hợp cho từng vùng cũng khác nhau. Nếu không thì không thể tổ chức sử dụng hợp lý đất đai.
Điều kiện tự nhiên là các yếu tố về khí hậu, điều kiện đất đai (địa hình, thổ nhưỡng), khí hậu, ánh sáng, nguồn nước và các điều kiện khác đây là các yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc nhất đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn việc sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.[2]
Trong số các điều kiện kinh tế - xã hội phải kể đến các yếu tố như chế độ xã hội, dân số, lao động, chính sách đất đai, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải . . . Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên thiên nhiên đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.
2.1.3. Một số lý luận về sử dụng đất hợp lý
2.1.3.1. Đất đai và chức năng của đất đai
Định nghĩa đất đai theo Brinkman và Smyth (1976), về mặt địa lý mà nói đất đai “là một vùng đất chuyên biệt trên bề mặt của trái đất có những đặc tính mang tính ổn định, hay có chu kỳ dự đoán được trong khu vực sinh khí quyển theo chiều thẳng từ trên xuống dưới, trong đó bao gồm: không khí, đất và lớp địa chất, nước, quần thể thực vật và động vật và kết quả của những hoạt động bởi con người trong việc sử dụng đất đai ở quá khứ, hiện tại và trong tương lai”.
Đến năm 1993, trong Hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de janerio, Brazinl, (1993) [32], đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng được xác định đất đai là: “diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó, bao gồm: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sông, suối, đầm lầy), các lớp trầm tích sát bề mặt, cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước, hay hệ thống thoát nước, đường xá, nhà cửa . . .)
Như vậy, đất đai có thể gồm: Khí hậu, Đất, Nước, Địa hình/địa chất, Thực vật, Động vật, Vị trí, Diện tích, Kết quả hoạt động của con người. [12]
Theo định nghĩa về đất đai của Luật đất đai năm (2003) [8] thì: “Đất là tài sản quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời cũng là sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của hệ sinh thái tự nhiên và hệ sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân.”
Theo FAO (1995), các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và tồn tại của xã hội loài người được thể hiện qua các mặt như sau: sản xuất, môi trường sống, điều chỉnh khí hậu, cân bằng sinh thái, tồn trữ và cung cấp nguồn nước, dự trữ (nguyên liệu, khoáng sản trong lòng đất); không gian sự sống, bảo tồn, lịch sử; vật mang sự sống; phân vị lãnh thổ. Như vậy, có thể khái quát. Đất đai là điều kiện chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động (cho môi trường để tác động như: xây dựng nhà xưởng, bố trí máy móc, làm đất . . .), vừa là phương tiện lao động (cho công nhân nơi đứng, dùng để gieo trồng, nuôi gia súc . . .). Như vậy, đất không phải là đối tượng của từng cá thể mà chúng ta đang sử dụng coi là của mình, không chỉ thuộc về chúng ta. Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy trong sử dụng đất cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau (Tổng cục Địa chính 1996).
Nhu cầu tăng trưởng kinh tế xã hội phát triển mạnh, cùng với sự bùng nổ dân số đã làm cho mối quan hệ giữa con người và đất ngày càng căng thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường đất, một số chức năng nào đó của đất bị yếu đi. Vấn đề sử dụng đất đai ngày càng trở nên quan trọng và mang tính toàn cầu. Với sự phát triển không ngừng của sức sản xuất, chức năng của đất đai cần được nâng cao theo hướng đa dạng nhiều tầng nấc, để truyền lại cho các thế hệ mai sau. [12]
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã hội loài người theo Lê Quang Trí [12], được thể hiện ở các mặt sau:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là nền tảng cho hệ thống hỗ trợ sự sống, thông qua việc sản xuất sinh khối để cung cấp lương thực, thực phẩm chăn nuôi, sợi, dầu, gỗ và các vật liệu sinh vật sống khác cho con người sử dụng, một cách trực tiếp hay thông qua các vật nuôi như nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt thuỷ sản vùng ven biển.
- Chức năng về môi trường sống: Đất đai là nền tảng của đa dạng hoá sinh vật trong đất thông qua việc cung cấp môi trường sống cho sinh vật và nơi dự trữ nguồn gen cho thực vật, động vật, và vi sinh vật, ở trên và bên dưới bề mặt đất.
- Chức năng điều hoà khí hậu: Đất đai và sử dụng đất đai là nguồn và nơi chứa khí ga từ nhà kính hay hình thành một sự cân bằng năng lượng toàn cầu giữa phản chiếu, hấp thu hay chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời và của chu kỳ thuỷ văn của toàn cầu.
- Chức năng trữ nước: Đất đai điều hoà sự tồn trữ và lưu thông của nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm, và những ảnh hưởng của chất lượng nước.
- Chức năng tồn trữ: đất đai là kho chứa các vật liệu và chất khoáng thô cho việc sử dụng của con người.
- Chức năng kiểm soát chất thải và ô nhiếm: Đất đai có khả năng hấp thụ, lọc, đệm và chuyển đổi những thành phần nguy hại.
- Chức năng không gian sống: Đất đai cung cấp nền tảng tự nhiên cho việc xây dựng khu dân cư, nhà máy và các hoạt động xã hội như thể thao, nghỉ ngơi.
- Chức năng bảo tồn di tích lịch sử: Đất đai là nơi chứa đựng và bảo vệ các chứng tích lịch sử văn hoá của loài người, và nguồn thông tin về các điều kiện khí hậu và những sử dụng đất đai trong quá khứ.
- Chức năng nối liền không gian: Đất đai cung cấp không gian cho sự vận chuyển của con người, đầu tư và sản xuất, và cho sự di chuyển của thực vật, động vật giữa những vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên.
Sự thích hợp của đất cho nhiều chức năng trên thể hiện rất khác nhau ở mọi nơi trên thế giới. Các khu vực cảnh quan là khu vực tài nguyên thiên nhiên, có động thái riêng của chúng. Nhưng con người lại có rất nhiều tác động ảnh hưởng đến động thái này (kể cả không gian và thời gian). Có thể cải thiện chất lượng của đất cho một hoặc nhiều chức năng, nói chung đất đã và đang bị các hoạt động của con người gây thoái hoá.
Mức độ suy thoái đất đai có thể tiếp tục xảy ra hay cũng có thể gia tăng thêm dưới điều kiện ảnh hưởng của con người trong việc thay đổi khí hậu toàn cầu. Sự suy thoái đất có thể được kiểm soát, cải thiện tốt lên hay ngay cả dự trữ cho các loại hình sử dụng khác nhau một cách rộng rãi, nếu như các chức năng phải được chú ý, các mong ước điều lợi trước mắt ngắn hạn được thau thế bằng các mong ước lợi nhuận lâu dài và bền vững ở các cấp từ toàn cầu cho đến quốc gia và địa phương [12].
Sự suy thoái Đất đai đã và đang trầm trọng hơn ở những nơi sử dụng đất đai không có quy hoạch, hay những lý do khác về pháp chế và tài chính làm cho các quyết định sử dụng đất đai sai hay chỉ có quy hoạch một chiều từ Trung ương xuống mà không có tham khảo ý kiến thực tế của địa phương đưa đến việc khai thác quá độ nguồn tài._. nguyên. Hậu quả của các hành động này là làm cho một số lớn người dân địa phương ngày càng gặp khó khăn trong cuộc sống và đồng thời cũng phá huỷ dần hệ sinh thái có giá trị. Như thế, những phương pháp hạn hẹp cần phải được thay thế bằng một kỹ thuật mới trong quy hoạch và quản lý nguồn tài nguyên đất đai, đó là tổng hợp hay tổng thể và đặt người sử dụng đất đai là trung tâm. Điều này sẽ bảo đảm chất lượng lâu dài của đất đai cho con người sử dụng, hạn chế hay có những giải pháp cho các mẫu chuẩn về mặt xã hội liên quan đến sử dụng đất đai và bảo vệ hệ sinh thái có các giá trị đa dạng sinh học cao [12].
2.1.3.2. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết) đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (vị trí, hình thể, quy mô, diện tích và yêu cầu về chất lượng nhất định) thì không một ngành nào, một xí nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và hoạt động được. Nói khác đi – không có đất sẽ không có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con người.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành phi nông nghiệp:
Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai thác khoáng sản). Quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong ngành nông nghiệp – lâm nghiệp:
Đất giữ vai trò tích cực trong quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất, cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự tác động trong quá trình sản xuất) và là công cụ hay phương tiện hoạt động (sử dụng đất để trồng trọt, chăn nuôi . . . ). Quá trình sản xuất nông – lâm nghiệp luôn liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên trong đất.
Lợi ích của việc sử dụng đất rất đa dạng, song có thể chia thành ba nhóm lợi ích cơ bản sau:
+ Sử dụng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thoả mãn nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người;
+ Dùng đất làm cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động;
+ Cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng thụ tinh thần.
2.1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Mục tiêu của việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất là phát huy tối đa tiềm năng đất đai nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và sự phát triển bền vững. Vì vậy, phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi các điều kiện quy luật sinh thái tự nhiên vừa bị chi phối bởi các điều kiện quy luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Theo nghiên cứu của Viện điều tra quy hoạch đất đai [16]: có ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất:
- Nhân tố điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian cần chú ý đến việc thích ứng với các điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái của đất cũng như của các yếu tố bao quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, bức xạ, độ ẩm, yếu tố địa hình, thổ nhưỡng, xói mòn . . . để xác định yếu tố hạn chế hay tích cực cho việc sử dụng đất. Trong điều kiện tự nhiên khí hậu là yếu tố hàng đầu tác động đến việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai và các yếu tố khác.
+ Yếu tố khí hậu: Khí hậu là một thành phần rất quan trọng của hệ sinh thái đồng ruộng. Nó cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá trình tạo thành chất hữu cơ, mang lại năng suất cho cây trồng. Tổng tích ôn nhiều hay ít, nhiệt độ bình quân cao thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian, sự sai khác giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp, sai khác về độ ẩm trong ngày, giữa các mùa trong năm hay các khu vực khác nhau . . . trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự nhiên và thực vật thuỷ sinh . . . Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu dài hay ngắn cũng có tác dụng nhất định tới sinh trưởng, phát triển và quang hợp của cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng cho việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc và thuỷ sản . . .
+ Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn . . . thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, ảnh hưởng tới sản xuất và phân bổ các ngành nông, lâm nghiệp.
Địa hình là yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau. Ở vùng đồi núi, địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đối với ngành phi nông nghiệp, địa hình quyết định những thuận lợi hay khó khăn của việc thi công công trình hay khả năng lưu thông hàng hoá, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng và quy mô sản xuất.
Đặc thù của điều kiện tự nhiên mang tính khu vực, Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất đai. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ các quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt lợi ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Nhân tố kinh tế xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội bao gồm các yếu tố: Điều kiện dân số và lao động, điều kiện vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất xã hội, trình độ quản lý và tổ chức sản xuất, Sự phát triển của khoa học và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, chế độ kinh tế, xã hội.
Các điều kiện tự nhiên của đất đai là cơ sở cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất; còn phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Việc sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kỹ thuật và mức độ đáp ứng của chúng . . .; quyết định bởi nhu cầu thị trường.
Trên thực tế điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thì ít có sự khác biệt nhưng hiệu quả sử dụng đất thì có sự khác biệt lớn, nguyên nhân chủ yếu là do các điều kiện kinh tế, xã hội: vốn, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng . . . quyết định; với điều kiện tự nhiên đồng nhất nhưng vùng nào có kinh tế phát triển, vốn đầu tư lớn, nhận thức và trình độ của người lao động cao thì sử dụng có hiệu quả.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng đất khác nhau. Khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì hiệu quả sử dụng đất cũng được nâng lên. Nhờ có thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến mà chúng ta có những nghiên cứu về lai tạo giống cây trồng cho năng suất cao, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, chế tạo ra máy móc, công cụ sản xuất theo công nghệ tiên tiến. . . tạo điều kiện nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
Từ những lý luận trên cho thấy, các điều kiện kinh tế - xã hội có tác động không nhỏ tới sử dụng đất đai, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sử dụng đất hiệu quả của con người. Vì vậy, khi lựa chọn phương án sử dụng đất, ngoài việc dựa vào quy luật tự nhiên thì các yếu tố kinh tế - xã hội cũng không kém phần quan trọng.
- Nhân tố không gian:
Trong thực tế, đất đai là điều kiện không gian đảm bảo hoạt động của bất kỳ ngành sản xuất nào (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, khai thác khoáng sản . . .). Tính không gian của đất đai bao gồm: vị trí địa lý, địa hình, hình dạng, diện tích. Đất đai phải khai thác tại chỗ nên sự thừa thãi của nơi này không thể sử dụng để đáp ứng sự thiếu đất ở địa phương khác. Do đó, không gian là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất.
Sự bất biến của tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mỏ rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo nâng cao năng lực của đất đai.
Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng, nhà xưởng, giao thông . . . mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và giá trị kinh tế cao.
Như vậy nhân tố không gian ảnh hưởng tới quá trình sử dụng đất, nó sẽ gián tiếp quyết định hiệu quả sử dụng đất.
2.1.3.4. Các xu thế phát triển sử dụng đất:
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ nhu cầu thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên đất, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới lợi ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với ý nghĩa là nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất thể hiện ở các mặt sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất;
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất;
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất;
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
Hiện nay, các xu thế sử dụng đất được phát triển theo các hướng sau:
* Sử dụng đất theo chiều rộng và tập trung:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử biến đổi của quá trình sử dụng đất. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có nước và cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ sản xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử dụng cũng như ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng. Tuy nhiên, trình độ sử dụng đất còn rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng tăng cao, các ngành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng, phạm vi sử dụng đất được mở rộng.
Cùng với việc phát triển đất theo không gian, trong điều kiện gia tăng nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực thì đất canh tác cũng như đất sử dụng cho các mục đích khác được sử dụng theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích ít nhưng hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh thâm canh cao, để nâng cao sức sản xuất của một đơn vị diện tích, đòi hỏi phải liên tục nâng cao mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công tác quản lý.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp và chuyên môn hoá
Khoa học kỹ thuật và kinh tế - xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình thức quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp hoá và chuyên môn hoá cơ cấu sử dụng đất.
Khi kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối vơi đất đai. Khi mức sống còn thấp, việc sử dụng đất chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn, áo mặc và chỗ ở. Khi đời sống nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, vấn đề sử dụng đất ngoài việc sản xuất vật chất còn phải thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hoá, thể thao và môi trường . . . đã làm cho cơ cấu sử dụng đất trở nên phức tạp hơn.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự nhiên của con người, áp dụng các biện pháp thâm canh, cải tạo và nâng cao sức sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Khi nền kinh tế khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt đất đai, nông nghiệp độc canh, trồng cỏ, khai thác khoáng sản còn hạn chế, xây dựng chủ yếu chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển, . . . đã làm cho nội dung sử dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ cho lợi ích con người.
Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hoá, dẫn đến sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hoá. Do đất đai có đặc tính khu vực rất mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt, phương hướng và biện pháp sử dụng đất của các vùng cũng rất khác nhau. Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt sản lượng và hiệu quả kinh tế cao rất cần có sự phân công và chuyên môn hóa theo khu vực. Cùng với việc đầu tư trang thiết bị và ứng dụng công nghệ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nảy sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hoá sử dụng đất khác nhau về hình thức và quy mô.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng xã hội hoá và công hữu hoá.
Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một sản phẩm và hỗ trợ bổ sung lẫn nhau đã hình thành nên sự phân công hợp tác mang tính xã hội hoá sản xuất, cũng như xã hội hoá việc sử dụng đất đai.
Đất đai là cơ sở vật chất và là công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn tại.. Vì vậy, việc chuyên môn hoá theo yêu cầu xã hội hoá sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội. Ngay cả ở xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân, những vùng đất đai hướng dụng cộng đồng như: nguồn nước, núi rừng, khoáng sản, sông ngòi, mặt hồ, biển cả, hải cảng, danh lam thắng cảnh, động thực vật quý hiếm . . . vẫn có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến hành công quản, kinh doanh . . . của Nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.
Xã hội hoá sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, xã hội hoá sử dụng đất và công hữu hoá là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hoá sản xuất cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hoá và công hữu hoá sử dụng đất.
2.1.3.5. Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường
Những năm gần đây, sự bùng nổ dân số cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã kéo theo nhu cầu của con người ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu trên, con người đã áp dụng những thành tựu, tiến bộ khoa học và sử dụng đất nhằm khai thác triệt để, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm và các điều kiện tồn tại và phát triển của loài người. Điều này đòi hỏi việc sử dụng đất phải đảm bảo như một thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo hiệu quả sử dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường.
Trong quá trình sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiên kinh tế, những mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau.
Trong sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất của các hộ dân là nhằm làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, họ luôn cố gắng tìm ra phương thức canh tác, chăm sóc để nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất: năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng; đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào các khâu chăm sóc, canh tác, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật . . . nên hệ số sử dụng đất và năng suất cây trồng không ngừng tăng lên.
Bên cạnh những tín hiệu đáng mừng về chỉ số kinh tế, nền nông nghiệp nước ta đang phải đối mặt với những thử thách về xã hội và môi trường. Do diện tích rừng bị chặt phá, đốt nương làm rãy nhưng thiếu các biện pháp kiểm soát xói mòn dẫn đến suy thoái độ phì. Đồng thời, do đầu tư phân bón, kỹ thuật không hợp lý và khai thác nước ngầm quá mức . . . gây ra những hậu quả xấu về môi trường, ô nhiễm đất, ảnh hưởng đến việc sử dụng đất bền vững và gặp khó khăn trong vấn đề kiểm soát sâu bệnh, mất các nguồn gen quý, một số động vật, thực vật quý hiếm bị tuyệt chủng.
Quá trình đô thị hoá, công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi một quỹ đất rất lớn để đáp ứng cho các nhu cầu này. Rất nhiều diện tích đất chuyên trồng lúa, đất có ưu thế sản xuất nông nghiệp đã được sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất đã làm mất đi ngày càng nhiều đất mầu mỡ trồng cây lương thực. Một bộ phân không nhỏ nông dân đã không còn đất để canh tác, gây ra thất nghiệp và các tệ nạn xã hội gia tăng, môi trường bị ô nhiễm do các chất thải đô thị, công nghiệp. Do vậy, quá trình sử dụng đất luôn phải đảm bảo hài hoà ba mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường. Có như vậy sử dụng đất mới đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, và bền vững.
2.2. Tình hình quy hoạch và thực hiện quy hoạch ở nước ngoài
Quy hoạch sử dụng đất luôn có vị trí quan trọng trong thực hiện công tác quản lý đất đai của mỗi quốc gia và được tiến hành từ nhiều năm trước đây. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà phương pháp và quan điểm quy hoạch sử dụng đất có đặc thù khác nhau và quá trình thực hiện cũng vậy.
Ở các quốc gia phát triển như Đức, Mỹ quy hoạch sử dụng đất luôn gắn liền với việc giải quyết các yêu cầu về môi trường, đảm bảo sử dụng đất hiệu quả bền vững. Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất tại các nước này có tính khả thi cao. Những nguyên tắc về sử dụng đất được thông qua ở thành phố NewYork từ năm 1916 đến những năm 30 và hầu hết các Bang của nước Mỹ tuân thủ theo nguyên tắc này. Đến những năm 70, các Bang ngày gặp phải một số vấn đề về môi trường và sự bảo tồn các di tích lịch sử nên đòi hỏi phải có những nguyên tắc và tầm nhìn xa hơn. Từ đòi hỏi trên, Luật đất đai mới của Mỹ đã hình thành hệ thống quy hoạch sử dụng đất mới.[21]
Ở Đức, điển hình là thành phố Berlin [20], hệ thống quy hoạch sử dụng đất đã được xây dựng từ rất sớm. Chỉ vài năm sau khi có sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước, năm 1994, hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng với bản đồ tỉ lệ 1:50.000. Sau đó, việc điều chỉnh và cập nhật những biến động đất đai cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và mục tiêu của Chính phủ được tiến hành thường xuyên. Do đó, hệ thống quy hoạch sử dụng đất ở thành phố Berlin nói riêng, của Đức nói chung có hiệu quả cao, đảm bảo sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm và bền vững, tạo đà cho sự phát triển nền kinh tế.
Ở Pháp, quy hoạch sử dụng đất được xây dựng theo hình thức mô hình hoá nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng tài nguyên, môi trường và lao động, áp dụng bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc sản xuất hợp lý, thúc đẩy nền kinh tế phát triển [7].
Ở Campuchia, do nền kinh tế kém phát triển, có xuất phát diểm thấp, tình hình chính trị rối loạn, nhiều nhà khoa học đã bị giết, nên trước những năm 2000, công tác quản lý đất đai chưa được quan tâm, chưa hình thành được hệ thống Luật đất đai và quy hoạch sử dụng đất. Đến năm 2000, Bộ quy hoạch đất đai và xây dựng đã hoàn thiện Luật đất đai, nhưng công tác quy hoạch sử dụng đất còn gặp niều khó khăn, kế hoạch sử dụng đất ở từng địa phương không rõ ràng nên sử dụng đất kém hiệu quả và làm suy thoái đất. Mặc dù vậy, nhờ có sự cố gắng tìm hiểu, học hỏi, nghiên cứu công tác quản lý, sử dụng đất đai của các nhà khoa học nên Campuchia đã xây dựng được hệ thống Luật đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đồng bộ [7].
Nhìn chung, hệ thống pháp luật đất đai ở các nước phát triển tương đối hoàn thiện nên công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch sử dụng đất được triển khai tốt, sử dụng đảm bảo hiệu quả 3 mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Ở các nước kém phát triển, do thiếu kinh phí, thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn, nên hệ thống Luật đất đai không đồng bộ, hệ thống quy hoạch sử dụng đất có hiệu quả không cao, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
2.3. Tình hình quy hoạch sử dụng đất ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ năm 1994 Chính phủ đã đã triển khai xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm 2010. Năm 1997, Quốc hội có Nghị quyết số: 01/1997/QH9 về quy hoạch sử dụng đất cả nước 5 năm 1996 – 2000 và được Quốc hội khoá XI phê duyệt tại kỳ họp thứ 5.
Hiện nay, quy hoạch sử dụng đất nước ta được triển khai theo lãnh thổ hành chính ở 4 cấp (Quốc gia, tỉnh, huyện, xã) và thực hiện theo các quy định tại Luật đất đai năm 2003.
Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh: Đến nay có 60/64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc lập quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện: có 450/668 đơn vị hành chính cấp huyện, chiếm 66,57 % hoàn thành quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị của hầu hết các tỉnh, thành phố chưa lập quy hoạch đô thị.
Quy hoạch sử dụng đất cấp xã: có 5878/10761 đơn vị hành chính cấp xã hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2006 – 2010.
Như vậy, công tác quy hoạch sử dụng đất của nước ta mới được triển khai cơ bản hoàn thành ở mức khái quát, mang tính định hướng (quy hoạch sử dụng đất cả nước, cấp tỉnh và cấp huyện), còn thiếu rất nhiều quy hoạch sử dụng đất cấp xã, còn tới 45% đơn vị cấp xã chưa có quy hoạch [1].
Việc lập quy hoạch sử dụng đất đã góp phần xác định cơ cấu sử dụng đất hợp lý và tiến hành thực hiện theo căn cứ, trình tự mà các văn bản hiện hành có liên quan đến Luật đất đai quy định. Điều này đã làm tăng hiệu lực và ngày càng hiệu quả cao trong quản lý, sử dụng đất đai phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng trong quá trình phát triển của đất nước, góp phần làm thay đổi cuộc sống nhân dân.
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước [3]: nhờ có quy hoạch và chính sách hợp lý để khuyến khích việc khai hoang, phục hoá, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ và phát triển rừng nên diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp đã tăng lên đáng kể, mỗi năm đưa gần 500 nghìn ha đất trống, đồi núi trọc vào sử dụng và năng suất tăng từ 31,9 tạ/ha lên 42,5 tạ/ha (năm 2000).
Đồng thời chủ trương giao đất nông nghiệp ổn định cùng các chính sách đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, làm cho nông dân năng động hơn, bố trí hợp lý cây trồng, vật nuôi, khôi phục và phát triển vườn cây ăn trái, cây công nghiệp có giá trị cao, phát triển nuôi trồng thuỷ sản tạo hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp, hạn chế được chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác.
Theo TS Nguyễn Quang Học [5]: “Quy hoạch sử dụng đất đã góp phần tăng cường hiệu lực và ngày càng có hiệu quả cao trong quản lý sử dụng đất, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trong quá trình phát triển của đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. . . đã góp phần thay đổi diện mạo nông nghiệp, nông thôn, đất đai được sử dụng phát triển công nghiệp theo hướng hàng hoá. Đất nông thôn được cải tạo, chỉnh trang phát triển theo hướng đô thị hoá. Đất có mục đích công cộng được quy hoạch đồng bộ với kết cấu hạ tầng phát triển đã góp phần tăng khả năng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân . . .”
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức triển khai công tác Quy hoạch sử dụng đất ở nước ta cho thấy còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ; Quy hoạch chồng chéo giữa địa phương và Trung ương, thu hồi nhưng không sử dụng hoặc sử dụng quá chậm, đặc biệt với các dự án khu công nghiệp, khu đô thị mới. Diện tích đất thực tế đã sử dụng xây dựng nhà xưởng so với diện tích đã giao, cho thuê tại các KCN chiếm tỷ lệ thấp, so với diện tích quy hoạch đã thu hồi còn thấp hơn nữa.
Theo số liệu của Ban quản lý các KCN [18], cả nước có 12 KCN, KCX (với tổng diện tích gần 2.000 ha) được thành lập từ năm 1998 trở về trước, nhưng tỷ lệ lấp đầy vẫn chưa đạt được 50%. Tuy nhiên, nhiều địa phương vẫn tiếp tục lập mới các KCN mà không quan tâm đến khả năng thu hút các nhà đầu tư, việc chọn điạ điểm xây dựng các KCN chưa tuân theo nguyên tắc triêt để tiết kiệm đất sản xuất nông nghiệp, ở nhiều nơi có quá nhiều KCN, nhiều địa phương sử dụng diện tích đất chuyên trồng lúa, đất có ưu thế sản xuất nông nghiệp để xây dựng KCN, KCX đã làm mất đi ngày càng nhiều đất mầu mỡ trồng cây lương thực.
Chất lượng quy hoạch sử dụng đất ở nước ta còn thấp, sự phối hợp giữa quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội và quy hoạch phát triển các ngành, địa phương chưa đồng bộ. Quy hoạch sử dụng đất chủ yếu dừng lại ở việc giải quyết, sắp xếp quỹ dất theo mục đích sử dụng, chưa căn cứ vào tiềm năng đất, chưa thực sự tính toán đầy đủ tới mục tiêu, hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Vấn đề này dẫn đến thực trạng sản xuất nông nghiệp còn manh mún, rừng tiếp tục bị tàn phá, diện tích đất trống đồi núi trọc, đất bị xói mòn còn lớn. Đặc biệt là sử dụng đất tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp, đô thị, công trình hạ tầng ở tình trạng vừa thừa, vừa thiếu quỹ đất, nhiều nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả gây lãng phí quỹ đất.
2.4. Tình hình quy hoạch sử dụng đất và thực hiện quy hoạch tỉnh Bắc Giang
Quy hoạch sử dụng đất là nội dung được các cấp chính quyền ở tỉnh Bắc Giang rất quan tâm. Bắc Giang là một trong số ít các tỉnh trong cả nước đã hoàn thành công tác lập quy hoạch sử dụng đất cho cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã đến năm 2010. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu lực công tác quản lý Nhà nước về đất đai của tỉnh. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được duyệt là phương tiện để các cấp chính quyền định hướng việc sử dụng đất đai, làm tăng lợi ích cộng đồng. Nhờ có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Bắc Giang đã kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào các mục đích khác; chủ động trong việc khai hoang mở rộng diện tích đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai góp phần giúp cho các điạ phương đánh giá chính xác tiềm năng đất đai của mình.
Tuy nhiên, thực tế triển khai công tác thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất tại địa phương cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế. Nhiều cấp uỷ đảng chính quyền, còn xem nhẹ vai trò của công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất coi đây là nhiệm vụ của riêng ngành Tài nguyên – Môi trường. Một số địa phương khi xây dựng kế hoạch sử dụng đất đai chưa tổ chức tốt việc đăng ký kế hoạch sử dụng đất đai ở các cấp, các ngành nên nhiều dự án có nhu cầu sử dụng đất không đăng ký, hoặc có dự án đã đăng ký nhưng không khả thi do nguồn vốn thiếu, do chưa điều tra xử lý tốt nguồn thông tin . . . Vì vậy tính khả thi của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa cao, nội dung quy hoạch chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, chưa tính toán đầy đủ về hiệu quả kinh tế và môi trường trong sử dụng đất nên hiệu quả sử dụng không cao.
Công tác phối hợp giữa các ngành trong việc lập, thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai chưa chặt chẽ, đồng bộ, còn chồng chéo giữa các quy hoạch ngành và giữa quy hoạch sử dụng đất đai với quy hoạch xây dựng đô thị. Trong khi quy hoạch sử dụng đất đai phải căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch các ngành như nông – lâm nghiệp, xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp . . . do vậy việc cập nhật thông tin, tài liệu, số liệu điều chỉnh để bổ sung vào phương án quy hoạch sử dụng đất không đạt kết quả như yêu cầu.
Từ tình hình thực tế phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu sử dụng đất của các thành phần kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong thời kỳ mới, năm 2006 UBND tỉnh Bắc Giang đã lập phương án điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Giang đến năm 2010, và đã được Chính phủ phê duyệt tại Nghị quyết số: 33/2007/NQ-CP ngày 02 tháng 07 năm 2007. Nội dung cơ bản của phương án này là:
- Quan điểm khai thác sử dụng đất đai
Khai thác sử dụng dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững: Khai thác sử dụng đất có hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và bảo vệ tài nguyên môi trường phục vụ lâu dài cho nhu cầu của con người.
Khai thác triệt để, hợp lý, sử dụng tiết kiệm quỹ đất đai, chuyển đổi mục đích sử dụng đất kịp thời và điều chỉnh những bất hợp lý trong sử dụng đất đai đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Định hướng sử dụng quỹ đất đai
+ Đất phát triển nông nghiệp: Trên quan điểm khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả quỹ đất nông nghiệp, đến 2010 khai thác hết phần đất có khả năng sản xuất nông nghiệp đưa vào sản xuất, đưa tổng diện tích đất nông nghiệp lên 115 ngàn ha, trong đó giảm 2.500 ha diện tích cây hàng năm chuyển mục đích khác, khai thác có hiệu quả diện tích cây hàng năm còn lại; khai thác có hiệu quả diện tích đất đồi, tăng diện tích cây lâu năm, chuyển đổi diện tích vườn tạp, đất cấy lúa 1 vụ không ăn chắc; tăng diện tích chăn thả đáp ứng nhu cầu chăn nuôi đại gia súc. Tăng diện tích mặt nước nông nghiệp để nuôi, thả cá và phát triển thuỷ sản đảm bảo nguồn thực phẩm và cân bằng sinh thái.
+ Đất phát triển lâm nghiệp: Sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái, tiếp tục trồng, chăm sóc, bảo vệ và khoanh nuôi tái sinh rừng; phủ xanh toàn bộ diện tích đất trống có khả năng lâm nghiệp; quản lý, bảo vệ tốt các khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; chuyển một số diện tích rừng và đất lâm nghiệp sang đất chuyên dùng (khu du lịch).
+ Đất chuyên dùng: Song song với phát triển kinh tế, các vấn đề xã hộicũng phát triển mạnh, vì vậy đất chuyên dùng cũng tăng nhanh. Dự kiến đến năm 2010 đất xây dựng sẽ tăng khoảng 4.000ha phục vụ phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường; xây dựng các công sở, các công trình phúc lợi công cộng, các công trình dịch vụ, thể thao, vui chơi giải trí ... Đất giao thông, thuỷ lợi tăng khoảng 5% ...
+ Đất ở: Với xu thế đô thị hoá mạnh như hiện nay, sẽ có di cư cơ học từ nông thôn ra các đô thị trong tỉnh. Các thị trấn cũ được mở rộng thêm, đồng thời xây dựng mới một số._.ạn mà tỉnh Bắc Giang, huyện Việt Yên cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, thực hiện nhiều chương trình nhằm tăng cường phát triển mạnh các ngành sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương này, nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích nhằm thu hút các nhà đầu tư đến làm ăn, kinh doanh trên địa bàn, khuyến khích sản xuất trong tỉnh và huyện phát triển đã được ban hành và tổ chức thực hiện. Chính vì vậy, nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu, cụm công nghiệp đã hình thành, nhiều công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư nâng cấp hoặc xây dựng mới. Do đó, trong giai đoạn này diện tích đất nông nghiệp đã giảm khá nhanh để nhường đất cho các mục đích phi nông nghiệp.
* Đất nông nghiệp, chỉ trong 2 năm (2005- 2007) đã giảm 388,92 ha, từ chỗ chiếm 64,8 % tổng diện tích tự nhiên vào năm 2005 đến năm 2007 chỉ còn chiếm 62,5 % tổng diện tích tự nhiên, trong tương lai hầu như không còn khả năng mở rộng. Trong giai đoạn thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất của huyện đến năm 2010 (2001- 2007), ngành nông nghiệp có nhiều chuyển biến tốt, một số địa phương đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa, đồng thời cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi có những bước chuyển biến tích cực làm cho năng xuất, sản lượng cây trồng vật nuôi được tăng lên. Đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung như: sản xuất lạc ở xã Minh Đức, Thượng Lan, Việt Tiến; rau mầu thực phẩm ở xã Quảng Minh, Trung Sơn, Tự Lạn, Nghĩa Trung, lúa hàng hóa ở Vân Trung, Quang Châu, Hồng Thái, rau chế biến ở xã Việt Tiến, Bích Sơn; thủy sản ở Nghĩa Trung, Tự Lạn, Hương Mai, chăn nuôi trâu bò ở Quảng Minh, Ninh Sơn; trên địa bàn huyện đã hình thành các vùng cá thâm canh cao như: xã nghĩa Trung, Tự Lạn, Việt Tiến, Thượng Lan. Chính những điều này đã góp phần làm giúp ngành nông nghiệp mặc dù bị giảm về diện tích nhưng giá trị sản xuất vẫn ổn định.
Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực phương án quy hoạch đối với các chỉ tiêu sử dụng đất nông nghiệp vẫn còn một số hạn chế, bất cập đó là: Công tác quy hoạch đồng ruộng thành các vùng sản xuất tập trung còn rất hạn chế, cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, hiệu quả kinh tế không cao; công tác quản lý, chỉ đạo chuyển đổi những chân ruộng 1 vụ không ăn chắc sang nuôi trồng thủy sản còn chưa làm chặt chẽ nên manh mún và gây ảnh hưởng đến sản xuất. Ở nhiều địa phương nhân dân tự ý đào ao, thả cá ở những chân ruộng trũng trong khi chưa có quy hoạch dẫn đến ách tắc dòng chảy, gây ngập úng cục bộ vào mùa mưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất. Việc chuyển đổi diện tích đất trồng lúa ở vị trí cao thường bị hạn hán và một số diện tích đồi gò sang trồng cây ăn quả và cây lâu năm mặc dù đã được quan tâm song quá trình triển khai thực hiện kết quả đạt thấp do ngành nông nghiệp chưa đưa ra hệ thống cơ cấu cây trồng phù hợp. Cơ chế, chính sách, vốn đầu tư ưu đãi trong quá trình thực hiện chuyển đổi còn thiếu. Việc phát triển các vùng chuyên canh rau, cây công nghiệp ngắn ngày, cây dược liệu thực hiện đạt kết quả chưa cao.
Đất nông nghiệp bị thu hồi để phát triển công nghiệp và các mục đích phi nông nghiệp khác tập trung ở một số xã phía Đông huyện (Hoàng Ninh, Vân Trung, Quang Châu), diện tích đất để chuyển sang phát triển công nghiệp lại chủ yếu là đất trồng lúa (khoảng 500 ha), khu vực này trước đây vốn được coi là vựa lúa của huyện. Đã gây khó khăn không nhỏ cho việc bố trí cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp, ổn định đời sống nhân dân sau khi nhường đất cho các mục đích phi nông nghiệp, số lao động bị ảnh hưởng do việc chuyển đất sang phát triển công nghiệp lớn, đa phần là lao động phổ thông chưa qua đào tạo dẫn đến thất nghiệp và tệ nạn xã hội gia tăng. Đây là thử thách lớn đối với các cấp chính quyền địa phương trong việc bố trí hài hòa giữa yêu cầu phát triển công nghiệp với việc cơ cấu tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp đảm bảo đời sống nhân dân và sinh thái môi trường.
Để khắc phục có hiệu quả những hạn chế nêu trên theo tôi cần thực hiện tốt các nội dung sau:
- Đối với công tác lập quy hoạch: Cần có sự điều tra đánh giá cụ thể, chính xác về tiềm năng đất đai, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, điều kiện xã hội, tập quán canh tác của vùng quy hoạch từ đó đưa ra những tiêu trí và chiến lược phát triển phù hợp; Phương án quy hoạch ngoài chỉ tiêu về diện tích, cơ cấu đất đai cần quan tâm đến việc phân bổ không gian của các vùng sản xuất; từ đó có định hướng quy hoạch phát triển đồng ruộng cho phù hợp. Việc thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất thường liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành vì vậy cần có quy chế quản lý quy hoạch để đảm bảo quy hoạch được thực hiện đồng bộ, thống nhất.
- Đối với công tác tổ chức thực hiện quy hoạch: Việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất thường liên quan đến nhiều cấp, ngành ở nhiều lĩnh vực vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế quản lý và tổ chức thực hiện chặt chẽ trong nhiều năm. Để làm được điều này trên cơ sở phương án quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt UBND huyện cần xây dựng các chương trương trình, mục tiêu phát triển cụ thể, giao cho các cấp các ngành thực hiện.
* Đất phi nông nghiệp: trong 7 năm (2001 – 2007) diện tích đất phi nông nghiệp tăng nhanh, nhiều công trình công cộng, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng và nâng cấp nhằm phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Tuy nhiên, nhiều hạng mục công trình thực hiện không có trong phương án quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt, đặc biệt là các công trình phục phát triển sản xuất công nghiệp và phát triển khu dân cư đô thị.
Thực tế diễn biến trong 7 năm qua cho thấy, đất khu công nghiệp nếu xét về diện tích thì chỉ có 17,8 % đã thực hiện là phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất được quyệt, diện tích thực hiện đến năm 2007 vượt trên 300% so với quy hoạch được duyệt, như: khu công nghiệp Quang Châu 420 ha, Khu công nghiệp Vân Trung 227 ha… Nếu xét về chỉ tiêu không gian thì toàn bộ diện tích đã phát triển các khu công nghiệp không phù hợp với phương án quy hoạch được duyệt. Diện tích đất khu công nghiệp tăng nhanh do sự điều chỉnh quy hoạch sủ dụng đất và quy hoạch phát triển ngành công nghiệp của tỉnh, theo đó Việt Yên được chọn là địa điểm để phát triển các khu công nghiệp tập trung của tỉnh với quy mô vừa và lớn (Khu công nghiệp Đình Trám – 120 ha, Khu công nghiệp Quang Châu – 420 ha, Khu công nghiệp Vân Trung – 410 ha ).
Đất ở đô thị diện tích năm 2007 vượt so với chỉ tiêu quy hoạch đất ở đô thị đến năm 2010 là 79,89 ha, bằng 199%. Diện tích đất ở đô thị đã thực hiện vượt xa so với phương quy hoạch được duyệt là do trong phương án đã chưa dự báo chính xác quy mô của đô thị thành lập mới (thị trấn Nếnh), đồng thời cũng không dự báo được tốc độ đô thị hóa do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra nhanh.
Quá trình thực hiện phương án quy hoạch cũng ghi nhận những kết quả tích cực trong việc chuyển diện tích đất chưa sử dụng sang sử dụng vào các mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp và các mục đích phi nông nghiệp khác. Song, chưa đạt được kết quả như phương án quy hoạch, đến năm 2007 diện tích này thực hiện mới đạt 80,4% so với chỉ tiêu quy hoạch đã được duyệt.
Tóm lại trong quá trình tổ chức thực hiện phương án quy hoạch được duyệt bên cạnh những mặt đã làm được còn nhiều hạn chế bất cập cần khắc phục, có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, tuy nhiên theo tôi tập trung ở một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Phương án quy hoạch sử dụng đất còn thiếu những dự báo có tính khả thi, nhiều chỉ tiêu dự báo trong phương án quy hoạch không sát với thực tế, mang tính chung chung không chỉ rõ hạng mục công trình, gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Việc bố trí quỹ đất cho các ngành chưa mang lại hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ hai: Việc tổ chức thực hiện phương án của chính quyền địa phương mặc dù có cố gắng song còn nhiều bất cập. Nhận thức của các cấp lãnh đạo cũng như đội ngũ cán bộ chuyên môn về việc thực hiện phương án quy hoạch chưa cao. Qua phân tích ở trên chúng ta thấy, có rất nhiều hạng mục công trình, đặc biệt là các công trình phát triển công nghiệp đã được triển khai thực hiện tự phát, theo kiểu kêu gọi đầu tư bằng mọi giá (địa điểm xây dựng theo nguyện vọng của nhà đầu tư), ác khu, cụm công nghiệp chủ yếu nằm hai bên đường QL 11A mới, diện tích để phụ vụ cho phát triển các khu công nghiệp toàn bộ là đất chuyên trồng lúa (500 ha). Chế tài xử lý đối với cán bộ, địa phương thực hiện sai quy hoạch gần như không có. Việc trình, phê duyệt điều chỉnh bổ sung quy hoạch quá dễ dàng, điều này có thể sẽ dẫn tới phá vỡ không gian quy hoạch chung của phương án quy hoạch đầu kỳ đã được duyệt.
Thứ ba: Công tác giám sát, quản lý việc tổ chức thực hiện phương án quy hoạch bị buông lỏng, có khi chồng chéo giữa các ngành với chính quyền các địa phương. Dẫn đến mặc dù khu công nghiệp chưa được lấp đầy đã tiếp tục đầu tư khu công nghiệp mới để chờ nhà đầu tư, làm cho khả năng lấp đầy ngày càng thấp. Đã có những khu đất được thu hồi để phát triển khu công nghiệp bị bỏ hoang nhiều năm nay do không có nhà đầu tư gây lãng phí quỹ đất và bức xúc trong nhân dân.
Thứ tư: Công tác bồi thường GPMB gặp nhiều khó khăn, do đơn giá bồi thường thấp, lao động sau khi bị thu hồi đất không được bố trí giải quyết công ăn việc làm kịp thời. Điều này dẫn đến hậu quả là tiến độ đầu tư xây dựng các công trình kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp.
Thứ năm: Do sự thay đổi của quy hoạch sử dụng đất cấp trên.và quy hoạch phát triển các ngành.
4.3.4. Các giải pháp tổ chức thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất
Để thực hiện có hiệu quả phương án quy hoạch sử dụng đất trong những năm còn lại của kỳ quy hoạch, cần triển khai một cách đầy đủ, kịp thời, có hiệu quả nhiều giải pháp, trong đó thực hiện tốt một số giải pháp chính sau:
4.3.4.1. Giải pháp về kinh tế
- Có chính sách ưu đãi trong đầu tư đối với những hạng mục công trình có khả năng thực hiện dưới hình thức xã hội hoá (khu đất dịch vụ để giúp người dân có đất bị thu hồi chuyển đổi nghề nghiệp, khu nhà ở cho công nhân, chợ đầu mối, các trục giao thông chính, hạ tầng các khu công nghiệp và vùng phụ cận… ở các xã Hoàng Ninh, Hồng Thái, Tăng Tiến). Cần thực hiện lập quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 đối với các phân khu chức năng phục vụ các khu công nghiệp, các trung tâm hành chính xã, lập quy hoạch đồng ruộng để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa... tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia. Chú trọng tìm kiếm và mời gọi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Thực hiện chính sách đổi đất tạo vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, thông qua các biện pháp : Chuyển đổi vị trí của các trụ sở cơ quan hành chính có lợi thế, tiềm năng về kinh doanh dịch vụ và thương mại, phát triển đô thị; Khai thác hiệu quả về mặt vị trí thuận lợi, về dịch vụ thương mại, công nghiệp, các khu dân cư đô thị…đối với khu vực ven trục giao thông, các trung tâm hành chính xã, thị trấn và các chợ đầu mối.
- Xây dựng các phương án đầu tư bằng nhiều hình thức để người dân, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cùng thực hiện.
- Về vốn đầu tư, ngoài nguồn vốn từ ngân sách, cần tuyên truyền vận động nhân dân hiến đất để xây dựng các công trình, dự án phục vụ cho mục đích công cộng, dân sinh và an ninh quốc phòng như : Giáo dục, y tế, giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng…trên cơ sở phát huy truyền thống, tích cực của quần chúng nhân dân. Đồng thời, phải có biện pháp ưu đãi thiết thực đối với nhân dân khi hiến đất; có kế hoạch bố trí vốn từ ngân sách Nhà nước để chỉnh lý biến động đất đai, đăng ký và cấp giấy chứng nhận... huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thông qua chính sách khuyến khích đầu tư.
- Tăng cường đầu tư cho việc ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong công tác quản lý đất đai trước mắt cần tập trung đầu tư xây dựng hệ thống bản đồ địa chính chính quy, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc lập và quản lý hồ sơ địa chính ở các cấp.
4.3.4.2. Giải pháp về cơ chế chính sách
Quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch tổng hợp có liên quan đến các ngành các cấp, vì vậy các ngành, các cấp cần nâng cao trách nhiệm khi xây dựng, thẩm định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để khi tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch của ngành mình, cấp mình đạt hiệu quả cao. Các thông tin của các chương trình, dự án liên quan đến đất đai phải chính xác, hợp pháp và cần được cung cấp kịp thời đến Phòng Tài nguyên và Môi trường thì công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mới đạt hiệu quả cao.
Tiếp tục thực hiện tốt việc công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật, công bố công khai toàn bộ tài liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn, phòng Tài nguyên và Môi trường trong suốt kỳ quy hoạch để mọi người dân và các đối tượng sử dụng đất được biết và thực hiện.
Chỉ đạo thực hiện tốt các nội dung quản lý của nhà nước về đất đai của tất cả các xã, ngành trong huyện. Triển khai thực hiện và giám sát việc quản lý sử dụng quỹ đất đai theo phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (đã được phê duyệt); đưa các chỉ tiêu kế hoạch sử dụng đất hàng năm vào hệ thống chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện.
UBND huyện chỉ đạo các ngành tiếp tục tìm các giải pháp cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để thực hiện đồng bộ, kịp thời các điều khoản của Luật đất đai, các chủ trương chính sách của Nhà nước.
4.3.4.3. Giải pháp về quản lý, hành chính
- Có chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư phù hợp và đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền khi thực hiện dự án thu hồi, bồi thường đất đai để người dân thuộc đối tượng thu hồi đất đồng tình thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi đất giải phóng mặt bằng. Tăng cường hỗ trợ đào tạo nghề, định hướng chuyển đổi nghề nghiệp nhằm ổn định đời sống và tạo việc làm cho các hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi.
- Xây dựng các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, các hiệp hội cung ứng giống cây trồng, hiệp hội sản xuất chuyên canh cây ăn quả, lúa xuất khẩu... Qua đó tạo điều kiện cho người dân đầu tư phát triển, đồng thời cũng góp phần nâng cao tính khả thi của quy hoạch.
- Cải tiến quy trình thực hiện thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, hiệu quả cho các thủ tục: chuyển mục đích sử dụng đất, thuê đất, giao cấp đất, thẩm định các dự án sử dụng đất… Quy định về chế độ thông tin, công bố quy hoạch đảm bảo được tính minh bạch trong việc công khai quy hoạch kế hoạch để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia vào việc thực hiện các mục tiêu trong kế hoạch.
- Tăng cường việc kiểm tra tình hình thực hiện quy hoạch kế hoạch sử dụng đất, kiểm tra tình hình sử dụng đất công ở các xã, thị trấn. Có biện pháp xử lý cụ thể đối với các trường hợp cố tình chậm triển khai thực hiện hoặc sử dụng đất sai mục đích khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Khai thác sử dụng đất đi đôi với việc bảo vệ môi trường, chú trọng xử lý chất thải ở các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu dân cư đảm bảo chất thải phải được xử lý trước khi thải ra môi trường, tránh gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường. Đi đôi với khai thác sử dụng đất cần chú ý đến việc đầu tư nâng cao độ phì đất, tái tạo lại cảnh quan, lớp che phủ bề mặt đất khai thác khoáng sản sau khai thác..., nhằm giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường đất đai, không khí, nguồn nước để sử dụng đất bền vững.
4.3.4.4. Giải pháp về kỹ thuật:
- Rà soát danh mục các công trình dự án mang tính trọng điểm có ý nghĩa là đòn bẩy phát triển kinh tế xã hội của huyện đã được đăng ký trong kỳ kế hoạch để tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết và xem xét thực hiện việc khảo sát đo đạc, cắm mốc và đền bù thu hồi đất theo từng dự án, công trình, nhằm khắc phục tình trạng triển khai chậm do ách tắc bởi công tác bồi thường giải phóng mặt bằng như : dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 37, dự án xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp tập trung của huyện, dự án xây dựng khu nhà ở cho cán bộ và công nhân các khu công nghiệp tại xã Hoàng Ninh, dự án xây dựng khu công nghiệp đô thị của tập đoàn Hồng Hải tại xã Vân Trung . . .
- Rà soát danh mục các công trình, phân loại cụ thể từng mục đích sử dụng đất trong kỳ kế hoạch, xác định cụ thể đối tượng đầu tư nhằm chủ động trong việc mời gọi vốn đầu tư. Trong đó, cần lưu ý đến mục tiêu thực hiện việc đầu tư theo hình thức xã hội hoá đối với những công trình mang tính chất đòn bẩy như : Công trình giao thông, Trung tâm chợ và phố chợ.
- Giao trách nhiệm cho ngành Tài nguyên và Môi trường thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên môn về công tác quản lý và thực hiện quy hoạch đối với cán bộ cấp cơ sở và UBND các xã, thị trấn để nâng cao năng lực quản lý. Đồng thời giúp cán bộ cơ sở có nhận thức chính xác hơn về mục đích và vai trò của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong quản lý đất đai và nên hiểu quy hoạch, kế hoạch là một công cụ quản lý Nhà nước.
- Trên cơ sở đánh giá về mặt lợi thế của từng khu vực, từng dự án, UBND huyện căn cứ vào mục tiêu quy hoạch kế hoạch để xây dựng các dự án phát triển sản xuất chi tiết như : Dự án phát triển vùng cây ăn quả, dự án phát triển vùng rau màu thực phẩm, dự án phát triển vùng nuôi trồng thủy sản, dự án phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, Chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn và đào tạo nghề cho người lao động.
- Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực: cung ứng giống trong nông nghiệp, thâm canh cây trồng-vật nuôi, áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong việc cải tạo đất, nghiên cứu đưa ra hệ thống canh tác điển hình như luân canh lúa-màu, lúa kết hợp thủy sản, sử dụng phân hữu cơ, phân vi lượng,…
- Đối với sản xuất tiểu thủ công nghiệp cần nghiên cứu có kế hoạch đầu tư phát triển các mô hình làng nghề truyền thống, hình thành các hợp tác xã để củng cố thương hiệu riêng cho các sản phẩm mang tính đặc thù của huyện (Gốm Thổ Hà, Rượu Làng Vân, mây tre đan Tăng Tiến…).
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
- Huyện Việt Yên nằm giữa hai thành phố Bắc Giang và Bắc Ninh, có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế - xã hội, với nhiều tuyến giao thông quan trọng chạy qua như Quốc lộ 1A, Quốc lộ 37, Tỉnh lộ 298, tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, tuyến đường thủy Sông Cầu. Là huyện có địa hình tương đối bằng phẳng, đồi núi chủ yếu là đồi thấp rất phù hợp cho phát triển sản xuất nông nghiệp với hệ thống cây trồng đa dạng và các mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung theo mô hình trang trại.
- Cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển biến mạnh, tỉ trọng công nghiệp xây dựng trong cơ cấu kinh tế tăng nhanh (từ 18,58 % năm 2000 lên 45,6 % vào năm 2007). Hệ thống cơ sở hạ tầng được trú trọng đầu tư, nâng cấp và dần hoàn thiện tạo điều kiện cho kinh tế phát triển.
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đến năm 2010 huyện Việt Yên đã thực hiện được 7 năm (2001 – 2007), trong đó đã hoàn thành kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu (2001 – 2005) và hai năm đầu (2005 -2007) của kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối. Phương án quy hoạch sử dụng đất được tổ chức thực hiện trong điều kiện nền kinh tế của huyện Việt Yên có bước tăng trưởng mạnh, tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng trong cơ cấu kinh tế tăng nhanh, tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp có xu hướng giảm. Điều này đã dẫn đến diện tích đất nông nghiệp giảm nhanh trong hai năm đầu của kỳ kế hoạch sử dụng đất cuối (2005 – 2007) và không có khả năng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Trong khi đó đất phi nông nghiệp tăng nhanh, do phải đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là diện tích đất dành cho phát triển công nghiệp, xây dựng củng cố cơ sở hạ tầng và chỉnh trang phát triển đô thị. Nhiều hạng mục công trình đã được thực hiện không có trong phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010.
- Đất nông nghiệp năm 2007 có diện tích là 10728,27 ha, giảm 388,92 ha so với năm 2005 và còn có khả năng tiếp tục giảm do nhu cầu sử dụng của các ngành phi nông nghiệp còn cao, diện tích đất chưa sử dụng còn lại ít và hầu như không còn khả năng khai thác để đưa vào phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn 7 năm (2001- 2007) thực hiện phương án quy hoạch trong nội bộ đất nông nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng trang trại, tập trung đã được hình thành; nhiều diện tích đất ở các chân ruộng trũng đã được chuyển sang nuôi trồng thủy sản mang lại giá trị kinh tế cao. Chính vì vậy nên mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm song giá trị sản xuất ngành nông nghiệp vẫn tăng.
- Diện tích đất phi nông nghiệp tăng nhanh, đến năm 2007 đạt 5514,22 ha bằng 98% so với quy hoạch đến năm 2010, tăng hơn so với năm 2000 là 608,39 ha, các hạng mục công trình đã triển khai thực hiện cơ bản phù hợp với phương án quy hoạch đã được duyệt. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu thực hiện đến năm 2007 vượt xa nhiều lần so với các chỉ tiêu trong phương án quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 như đất khu công nghiệp vượt 4,5 lần, đất ở đô thị vượt 3,0 lần. Nhiều hạng mục công trình đã được thực hiện không có trong phương án quy hoạch sử dụng đất được duyệt đặc biệt là các khu công nghiệp. Bên cạnh những chỉ tiêu đã thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu trong phương án quy hoạch nêu trên thì cũng còn một số chỉ tiêu đã thực hiện đến năm 2007 chưa đạt so với kế hoạch đề ra và khó có khả năng hoàn thành vào năm 2010; đó là chỉ tiêu về đất ở nông thôn, theo phương án quy hoạch đến năm 2010 có diện tích là 1899,06 ha, tuy nhiên đến năm 2007 thực hiện mới chỉ đạt 1769,53 ha; đất cho mục đích giáo dục, theo quy hoạch đến năm 2010 diện tích đất này là 77,68 ha đến năm 2007 thực hiện mới chỉ đạt 67,54 ha chiếm 86,7 %, việc chỉ tiêu đất giáo dục đạt thấp là do dự báo trong phương án quy hoạch về số học sinh không sát với thực tế và khó khăn về vốn đầu tư của các địa phương.
Trong giai đoạn 7 năm (2001 – 2007) thực hiện phương án quy hoạch được duyệt cũng ghi nhận sự nỗ lực, cố gắng của các cấp chính quyền và nhân dân huyện Việt Yên trong việc tăng cường khai hoang, cải tạo đưa trên 700 ha đất chưa sử dụng vào sử dụng phục vụ phát triển sản xuất các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và một số ngành sản xuất phi nông nghiệp.
5.2. Kiến nghị
Để công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đi vào nề nếp, đúng pháp luật, đảm bảo tính thống nhất quản lý sử dụng đất đai, tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ nhân dân trong sử dụng đất, kiến nghị:
- Công khai rộng rãi phương án quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trong nhân dân, tạo điều kiện để người dân được tham gia đóng góp cho quy hoạch và thực hiện.
- Công khai quy hoạch, chỉ đạo các ngành, địa phương lên kế hoạch và xây dựng giải pháp triển khai thực hiện quy hoạch trong lĩnh vực và trên địa bàn mình quản lý.
- Giám sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch. Khi phát sinh các yếu tố, cần xem xét thống nhất và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Đình Bồng (2002), “Quỹ đất quốc gia, hiện trạng và dự báo sử dụng”, Khoa học đất, số 16, tháng 8.
Nguyễn Đình Bồng (2006), “Một số vấn đề về quy hoạch sử dụng đất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Khoa học đất, số 17, tháng 1.
Bộ Tài nguyên Môi trường (2004), quy hoạch sử dụng đất cả nước đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước, Hà Nội.
Võ Tử Can (2001), “Phương pháp luận cơ bản về quy hoạch sử dụng đất đai”, chương trình hợp tác Việt Nam – Thụy Điển về đổi mới hệ thống Địa chính, Viện điều tra quy hoạch.
Nguyễn Quang Học (2006), “Nâng cao hiệu quả quy hoạch sử dụng đất”, Tài nguyên và môi trường, số 11 (37), tháng 11.
Huyện Ủy Việt Yên (2000) Nghị quyết Đại hội đảng bộ huyện lần thứ XIX về phát triển các chương trình kinh tế - xã hội”, Bắc Giang.
Kao, Madilen, 2001, Nghiên cứu một số phương pháp quy hoạch sử dụng đất cấp cơ sở ở một số nước trên thế giới, Việt Nam và khả năng áp dụng và Cămpuchia, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I Hà Nội.
Luật đất đai (2003), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
Đoàn Công Quỳ, Nguyễn Thị Vòng, Vũ Thị Bình, Nguyễn Quang Học (2004), giáo trình quy hoạch sử dụng đất, NXB Nông nghiệp.
Đoàn Công Quỳ (2001), “Đánh giá đất đai phục vụ quy hoạch sử dụng đất nông – lâm nghiệp huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên”, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Lê Đình Thắng, Trần Tú Cường (2007)”Quy hoạch sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường” Tài nguyên và Môi trường, số 10 (48), tháng 10.
Lê Quang Trí (2005), “Giáo trình quy hoạch sử dụng đất”, Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thị Tố Uyên (2007), Thực trạng và giải pháp từng bước thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2010 trên địa bà huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
UBND huyện Việt Yên (2008), ”Báo cáo kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2007”, Bắc Giang.
UBND huyện Việt Yên (2000), ”Báo cáo tổng hợp quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 – 2010”, Bắc Giang.
Viện Điều tra quy hoạch, Tổng cục Địa chính (1998), Cơ sở lý luận khoa học của quy hoạch sử dụng đất đai, Hà Nội.
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (1988), Nông nghiệp sinh thái, NXB nông nghiệp.
Cao Như Ý (2006), Những suy nghĩ về quy hoạch, sử dụng đất các khu công nghiệp, http.//www.vnn.vn/bandocviet/2006.
Tài liệu tiếng Anh
FAO (1993), Guideline for Land use planning. Rome, page 1.
Land use planning for Berlin. Keeping up with Change, Summary 2001, en.shtml.
Land use plainning of law: an overview, use/
UN, 1994. Global climate change International Symposium for environment Rio De Jannio, Brazil.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
---------------
TRẦN VĂN HẢI
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT HUYỆN VIỆT YÊN - TỈNH BẮC GIANG
LUÂN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành : Quản lý đất đai
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ VÒNG
HÀ NỘI - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong Luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Trần Văn Hải
LỜI CÁM ƠN
Trong thời gian thực hiện Luận văn này tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo từ các thầy cô giáo, sự ủng hộ giúp đỡ của người thân, bạn bè đồng nghiệp. Nhân dịp này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Vòng, giảng viên khoa Tài nguyên và Môi trường – Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã trực tiếp giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự góp ý chân thành của các thầy, cô giáo khoa Tài nguyên và Môi trường, Khoa sau Đại học – trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn, sự nhiệt tình giúp đỡ của các cơ quan, ban ngành của huyện Việt Yên mà trực tiếp là Phòng Tài nguyên – Môi trường, Phòng Nông nghiệp, Phòng thống kê và phòng kinh tế huyện đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình bạn bè, đồng nghiệp đã khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn.
Một lần nữa xin cảm ơn!
Tác giả luận văn
Trần Văn Hải
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục sơ đồ, biểu đồ vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Ký hiệu
Các chữ viết tắt
1
FAO
Food Aricultural Organization (Tổ chức nông lương quốc tế)
2
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3
KCN
Khu công nghiệp
4
KCX
Khu chế xuất
5
UBND
Ủy ban nhân dân
6
GTSX
Giá trị sản xuất
7
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
8
HTX
Hợp tác xã
9
MNCD
Mặt nước chuyên dùng
10
TP
Thành phố
11
TT
Thị trấn
12
MR
Mở rộng
13
QL
Quốc lộ
14
TL
Tỉnh lộ
15
TTCN
Tiểu thủ công nghiệp
16
TBKT
Tiến bộ khoa học kỹ thuật
17
GPMB
Giải phóng mặt bằng
18
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
19
SX
Sản xuất
20
NC
Nâng cấp
21
THCS
Trung học cơ sở
22
QH
Quy hoạch
23
VLXD
Vật liệu xây dựng
24
KH
Kế hoạch
25
STT
Số thứ tự
26
HTX
Hợp tác xã
27
CQ
Cơ quan
28
KD
Kinh doanh
29
HN
Hàng năm
30
CD
Chuyên dùng
Danh môc b¶ng
STT
Tên bảng
Trang
4.1. Quy mô và cơ cấu các loại đất 42
4.2. Hiện trạng sử dụng đất huyện Việt Yên năm 2007 60
4.3 Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp huyện Việt Yên năm 2007 64
4.4. Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp huyện Việt Yên năm 2007 66
4.5. So sánh diện tích theo kế hoạch sử dụng đất và diện tích đã thực hiện đến năm 2005 71
4.6. So sánh diện tích đất nông nghiệp năm 2005 với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên đến năm 2010 82
4.7. So sánh diện tích đất nông nghiệp năm 2007 với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên đến năm 2010 82
4.8. So sánh diện tích đất phi nông nghiệp năm 2005 với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 89
4.9. So sánh diện tích đất phi nông nghiệp năm 2007 với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 90
4.10. So sánh diện tích đất chưa sử dụng năm 2007 với kế hoạch sử dụng đất và quy hoạch đến năm 2010 91
4.11. Danh mục các công trình sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp đã thực hiện trong giai đoạn 2001 - 2007 96
4.12. Danh mục các công trình giao thông đã thực hiện trong giai đoạn 2001 – 2007 98
4.13. Danh mục các công giáo dục đào tạo đã thực hiện trong giai đoạn 2001 - 2007 100
danh môc biÓu ®å
STT
Tên biểu đồ
Trang
4.1. Cơ cấu kinh tế huyện Việt Yên năm 2007 44
4.2. Sự biến động cơ cấu kinh tế huyện Việt Yên trong 7 năm (2001 – 2007) 45
4.3. Cơ cấu đất đai năm 2007 của huyện Việt Yên 60
4.4. So sánh việc thực hiện các chỉ tiêu sử dụng đất với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất 70
4.5. Giá trị sản xuất các ngành giai đoạn 2001 – 2005 (giá cố định 1994) 74
4.6. Hiệu quả kinh tế một số loại cây trồng và vật nuôi huyện Viêt yên năm 2007 75
4.7. Giá trị công nghiệp xây dựng giai đoạn 2005 – 2005 76
4.8. So sánh việc thực hiện các chỉ tiêu sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất 81
4.9. So sánh việc thực hiện chỉ tiêu sử dụng đất phi nông nghiệp với kế hoạch và quy hoạch sử dụng đất 88
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL005.doc