Tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1998-2010 huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang: ... Ebook Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1998-2010 huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6482 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1998-2010 huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG
ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT GIAI ĐOẠN 1998 - 2010 HUYỆN YÊN DŨNG TỈNH BẮC GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60.62.16
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN CÔNG QUỲ
HÀ NỘI - 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Nguyễn Thị Bích Hồng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được bản luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy Đoàn Công Quỳ, sự quan tâm tạo điều kiện của Phòng Tài nguyên - Môi trường, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Thống kê huyện Yên Dũng, Ban chủ nhiệm Khoa Đất và Môi trường, Bộ môn Quy hoạch sử dụng đất, Dự án P.H.E và các thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp.
Tự đáy lòng mình, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu đó./.
Hà nội, Ngày tháng năm 2008
Nguyễn Thị Bích Hồng
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục ký hiệu viết tắt v
Danh mục bảng vi
Danh mục bản đồ, biều đồ vii
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
UBND Uỷ ban nhân dân
TN & MT Tài nguyên và môi trường
KT-XH Kinh tế xã hội
SDĐ Sử dụng đất
QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
CSD Chưa sử dụng
DT Diện tích
QH Quy hoạch
DANH MỤC BẢNG
1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2007 huyện Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang 96
2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2007 huyện Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang 96
3. Hiện trạng sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2007 huyện Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang 96
4. So sánh các chỉ tiêu sử dụng đất năm 1998 - 2007 96
5. Phân tích nguyên nhân biến động diện tích đất nông nghiệp 96
6. Phân tích nguyên nhân biến động diện tích đất ở 96
7. Phân tích nguyên nhân biến động diện tích đất chuyên dùng 96
8. Phân tích nguyên nhân biến động diện tích đất sông suối và mặt nước chuyên dùng 96
9. Phân tích nguyên nhân biến động diện tích đất chưa sử dụng 96
10 . So sánh biến động diện tích đất nông nghiệp giai đoạn 1998 - 2007 96
11 . So sánh biến động diện tích đất phi nông nghiệp giai đoạn 1998 - 2007 96
12. So sánh biến động diện tích đất chưa sử dụng giai đoạn 1998 - 2007 96
13. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu SDĐ trong QHSDĐ huyện Yên Dũng - tỉnh Bắc Giang 95
14. Thực hiện các chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1998 - 2010 98
DANH MỤC BẢN ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Diện tích, cơ cấu sử dụng đất năm 2007 96
Biểu đồ 4.2. So sánh diện tích sử dụng đất 1998 - 2007 96
Biểu đồ 4.3. So sánh biến động diện tích đất giai đoạn 1998 - 2010 96
Bản đồ hiện trạng sử dụng đất huyện Yên Dũng năm 1998
Bản đồ hiện trạng sử dụng đất huyện Yên Dũng năm 2007
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là bộ phận hợp thành của môi trường sống, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là địa bàn phân bố khu dân cư và tổ chức các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng. [29]
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992, Tại chương 2, điều 17 quy định:”Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Tại điều 18 quy định:”Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích và có hiệu quả”. [19]
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nội dung quan trọng của quản lý Nhà nước về đất đai. Trong thời gian qua, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, được triển khai rộng khắp trên phạm vi cả nước và đã đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp thứ 5, khoá IX. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh đã triển khai ở 64/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đã hoàn thành tại 411 huyện, quận, thị xã, thành phố - chiếm 62% tổng số đơn vị cấp huyện. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã đã triển khai và hoàn thành tại 5.878 xã, phường, thị trấn - chiếm 55% tổng số đơn vị cấp xã. [12].
Huyện Yên Dũng đã xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thời kỳ 1998-2010 được UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt tại Quyết định số 857/QĐ-CT ngày 31/7/2000, [7]. Đó là căn cứ quan trọng để huyện triển khai thực hiện các chương trình phát triển KT-XH của huyện. Tuy nhiên, quá trình triển khai và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn bộc lộ một số tồn tại nhất định. Đặc biệt sau khi quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt và đưa vào thực hiện, tình hình theo dõi, giám sát việc thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo” hoặc không điều chỉnh kịp những biến động về sử dụng đất trong quá trình thực hiện quy hoạch tại địa phương.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nghiên cứu đề tài “Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1998-2010 huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” là một vấn đề quan trọng và cần thiết nhằm kiểm tra tình hình sử dụng đất thực tế trên địa bàn huyện, kiến nghị điều chỉnh kịp thời những nội dung sử dụng đất bất hợp lý, không phù hợp với phương án quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, hoặc góp ý kiến điều chỉnh nội dung của phương án quy hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến động trong phát triển KT-XH của địa phương.
1.2 Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1 Mục đích
Phân tích những biến động trong sử dụng đất đai huyện Yên Dũng (giai đoạn 1998 - 2007), đánh giá tình hình sử dụng đất thực tế theo quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Dũng đến năm 2010, đề xuất điều chỉnh những bất hợp lý trong sử dụng đất, phục vụ chương trình phát triển KT-XH trên địa bàn huyện.
1.2.2 Yêu cầu
+ Đánh giá chính xác thực trạng sử dụng các loại đất trên địa bàn huyện Yên Dũng về số lượng, chất lượng, phân bố loại hình sử dụng, hiệu quả sử dụng đất, xu thế biến động các loại đất, mức độ đáp ứng nhu cầu đất đai cho quá trình phát triển KT-XH của huyện.
+ Đề xuất điều chỉnh những bất hợp lý trong sử dụng đất đối với từng loại hình sử dụng đất cụ thể: Đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng theo phương án quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học cho việc sử dụng hợp lý đất đai
2.1.1 Đất đai và các chức năng của đất đai
Luật Đất đai năm 1993 xác định “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng”. Mặt khác, “Đất đai” về mặt thuật ngữ khoa học có thể hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sông suối, đầm lầy...), các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa...) ” [21].
Như vậy, “Đất đai” là một khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng (gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất), theo chiều nằm ngang - trên mặt đất (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm thực vật cùng với các thành phần khác) giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người.
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã hội loài người được thể hiện theo các mặt sau:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là cơ sở cho rất nhiều hệ thống hỗ trợ cuộc sống của con người hoặc trực tiếp hoặc thông qua chăn nuôi và thông qua việc sản xuất ra sinh khối, đất đai cung cấp thực phẩm, cỏ khô, sợi, nhiên liệu, củi gỗ và các chất liệu sinh khối khác cho việc sử dụng của con người.
- Chức năng môi trường sinh thái: Đất là cơ sở của tính đa dạng sinh học trên trái đất vì nó cung cấp môi trường sống cho sinh vật và bảo vệ nguồn gien cho các thực vật, động vật, vi sinh vật sống trên và dưới mặt đất.
- Chức năng điều tiết khí hậu: Đất và việc sử dụng nó là nguồn, nơi xẩy ra hiệu ứng nhà kính và là một yếu tố quyết định đối với việc cân bằng năng lượng toàn cầu - phản xạ, hấp thụ, chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời và tuần hoàn nước trên trái đất.
- Chức năng dự trữ và cung cấp nước: Đất điều chỉnh việc dự trữ dòng chảy của tài nguyên nước mặt, nước ngầm và ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước.
- Chức năng dự trữ: Đất là nơi dự trữ khoáng sản và vật liệu thô cho việc sử dụng của con người.
- Chức năng kiểm soát ô nhiễm và chất thải: Đất có chức năng tiếp nhận, làm sạch, môi trường đệm và chuyển đổi các hợp chất nguy hiểm.
- Chức năng không gian sự sống: Đất cung cấp cơ sở vật chất cho việc định cư của con người, cho các nhà máy và hoạt động xã hội như thể thao, giải trí ...
- Chức năng lưu truyền và kế thừa: Đất là vật trung gian để lưu giữ, bảo vệ các bằng chứng lịch sử, văn hóa của loài người; là nguồn thông tin về các điều kiện thời tiết và việc sử dụng đất trước đây.
- Chức năng không gian tiếp nối: Đất cung cấp không gian cho sự dịch chuyển của con người, cho việc đầu tư, sản xuất và cho sự di chuyển của thực vật, động vật giữa các vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên.
Sự thích hợp của đất cho nhiều chức năng trên thể hiện rất khác nhau ở mọi nơi trên thế giới. Các khu vực cảnh quan là khu vực tài nguyên thiên nhiên, có động thái riêng của chúng. Nhưng con người lại có rất nhiều tác động ảnh hưởng đến động thái này (cả về không gian và thời gian). Có thể cải thiện chất lượng của đất cho một hoặc nhiều chức năng (ví dụ thông qua phương thức kiểm soát xói mòn), nhưng nói chung đất đã hoặc đang bị các hoạt động của con người gây thoái hoá.
2.1.2. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết) đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (có vị trí, hình thể, quy mô diện tích và yêu cầu về chất lượng nhất định) thì không một ngành nào, xí nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và hoạt động được. Nói khác đi - không có đất sẽ không có sản xuất (đối với mọi ngành) cũng như không có sự tồn tại của chính con người.
2.1.2.1 Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành phi nông nghiệp
Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai thác khoáng sản) . Quá trình sản xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lượng thảm thực vật và các tính chất tự nhiên có sẵn trong đất.
2.1.2.2. Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành nông nghiệp:
Đất đai giữ vai trò tích cực trong quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất, cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác động trong quá trình sản xuất như cày bừa, xới xáo...) và công cụ hay phương tiện lao động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi...). Quá trình sản xuất nông nghiệp luôn liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất.
Lợi ích của việc sử dụng đất rất đa dạng, song có thể chia thành 3 nhóm lợi ích cơ bản sau:
- Sử dụng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thoả mãn nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người;
- Dùng đất làm cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động;
- Đất cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng thụ tinh thần.
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế - xã hội, khi mức sống con người còn thấp, các lợi ích chủ yếu của đất đai thể hiện tập trung ở sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp. Khi cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, lợi ích của đất từng bước được mở rộng, việc sử dụng đất cũng phức tạp hơn, vừa là căn cứ cho sản xuất nông - lâm nghiệp vừa là không gian và địa bàn cho sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều này có nghĩa, đất đai đã cung cấp cho con người tư liệu vật chất để sinh tồn và phát triển, cũng như cung cấp điều kiện cần thiết về hưởng thụ và đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của nhân loại.
2.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất
2.1.3.1. Nhân tố điều kiện tự nhiên
Khi sử dụng đất đai, ngoài bề mặt không gian (diện tích trồng trọt, mặt bằng xây dựng...), cần lưu ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất (nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất). Trong số các điều kiện tự nhiên, khí hậu là yếu tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng ) và các yếu tố khác.
- Yếu tố khí hậu: Các yếu tố khí hậu ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và điều kiện sinh hoạt của con người. Tổng tích ôn nhiều ít, nhiệt độ bình quân cao thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian, sự sai khác giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp, sai khác về độ ẩm trong ngày, giữa các mùa trong năm hay các khu vực khác nhau ... trực tiếp ảnh hưởng đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự nhiên và thực vật thuỷ sinh ... Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu sáng dài hay ngắn cũng có tác dụng nhất định đối với sinh trưởng, phát triển và quang hợp của cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất, cũng như khả năng đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc và thuỷ sản ...
- Điều kiện đất đai (địa hình và thổ nhưỡng): Sự sai khác giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn... thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng tới sản xuất và phân bố các ngành nông, lâm nghiệp, hình thành sự phân dị địa giới theo chiều thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đối với đất phi nông nghiệp, địa hình phức tạp sẽ ảnh hưởng tới giá trị công trình, gây khó khăn cho thi công. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng cao hay thấp. Độ dầy tầng đất và tính chất đất có ảnh hưởng lớn đối với sinh trưởng của cây trồng.
Đặc thù của điều kiện tự nhiên mang tính khu vực. Vị trí địa lý của vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử dụng đất đai. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt hiệu ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.
2.1.3.2. Nhân tố điều kiện kinh tế - xã hội
Điều kiện kinh tế - xã hội bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin và quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, yêu cầu quốc phòng, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bố sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất ...
Điều kiện kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai. Thực vậy, phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều kiện tự nhiên của đất đai cho phép xác định khả năng thích ứng về phương thức sử dụng đất. Còn sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con người và các điều kiện KT-XH, kỹ thuật hiện có; Quyết định bởi tính hợp lý, tính khả thi về kinh tế kỹ thuật và mức độ đáp ứng của chúng ...; Quyết định bởi nhu cầu của thị trường.
Trong một vùng hoặc trên phạm vi một nước, điều kiện vật chất tự nhiên của đất đai thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng với điều kiện KT-XH khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất đai được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những hiệu quả KT-XH rất cao; ngược lại có nơi bị bỏ hoang hoá hoặc khai thác với hiệu quả rất thấp ... Có thể nhận thấy, điều kiện tự nhiên của đất đai chỉ là một tồn tại khách quan, khai thác và sử dụng đất đai quyết định vẫn là do con người. Cho dù điều kiện tự nhiên có nhiều lợi thế, nhưng các điều kiện xã hội, kinh tế, kỹ thuật không tương ứng, thì ưu thế tài nguyên cũng khó có thể trở thành sức sản xuất hiện thực, cũng như chuyển hoá thành ưu thế kinh tế. Ngược lại, khi điều kiện kinh tế kỹ thuật được ứng dụng vào khai thác và sử dụng đất, sẽ phát huy mạnh mẽ tiềm lực sản xuất của đất, đồng thời góp phần cải tạo môi trường tự nhiên, biến điều kiện tự nhiên từ bất lợi thành có lợi cho phát triển KT-XH.
Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ KT-XH khác nhau đã tác động đến việc quản lý của xã hội về sử dụng đất đai, khống chế phương thức và hiệu quả sử dụng đất. Trình độ phát triển xã hội và kinh tế khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng đất khác nhau. Nền kinh tế và các ngành càng phát triển, yêu cầu về đất đai sẽ càng lớn, lực lượng vật chất dành cho việc sử dụng đất càng được tăng cường, năng lực sử dụng đất của con người sẽ được nâng cao.
Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế đến việc sử dụng đất được đánh giá bằng hiệu quả sử dụng đất. Thực trạng sử dụng đất liên quan đến lợi ích kinh tế của người sở hữu, sử dụng và kinh doanh đất đai. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất được dùng cho xây dựng cơ sở hạ tầng đều dựa trên nguyên tắc hạch toán kinh tế, thông qua việc tính toán hiệu quả kinh doanh sản xuất. Tuy nhiên, nếu có chính sách ưu đãi sẽ tạo điều kiện cải thiện và hạn chế việc sử dụng theo kiểu bóc lột đất đai. Mặt khác, sự quan tâm quá mức đến lợi nhuận tối đa cũng dẫn đến tình trạng đất đai bị sử dụng không hợp lý, thậm chí huỷ hoại đất đai.
Thí dụ, việc gia tăng đô thị hoá và phát triển các khu công nghiệp là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự tiến bộ, phồn vinh của xã hội, có thể đem lại lợi ích rất lớn cho những người kinh doanh bất động sản, chủ đất, các nhà công nghiệp, chủ doanh nghiệp ... Nhưng sự phân bố đất đai không hợp lý, thiếu lý trí, không chú ý đến việc xử lý nước thải, khí thải và chất thải đô thị, công nghiệp sẽ làm mất đi vĩnh viễn một diện tích lớn đất canh tác, cùng với việc gây ô nhiễm đất đai, nguồn nước, bầu khí quyển, huỷ hoại chất lượng môi trường cũng như những hậu quả khôn lường khác.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, các yếu tố điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội tạo ra nhiều tổ hợp ảnh hưởng đến việc sử dụng đất đai. Tuy nhiên mỗi yếu tố giữ vị trí và có tác động khác nhau. Trong đó, điều kiện tự nhiên là yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và sâu sắc, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp; Điều kiện kinh tế sẽ kiềm chế tác dụng của con người trong việc sử dụng đất; Điều kiện xã hội tạo ra những khả năng khác nhau cho các yếu tố kinh tế và tự nhiên tác động tới việc sử dụng đất. Vì vậy, cần phải dựa vào quy luật tự nhiên và quy luật KT-XH để nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên, KT-XH trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu sử dụng với ưu thế tài nguyên của đất đai để đạt tới cơ cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.
2.1.3.3. Nhân tố không gian
Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất và phi vật chất (như các ngành nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng, xây dựng, mọi hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội) đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt bằng. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự nhiên ban phát cho xã hội loài người. Vì vậy, không gian trở thành một trong những nhân tố hạn chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất.
Không gian mà đất đai cung cấp có đặc tính vĩnh cửu, cố định vị trí khi sử dụng và số lượng không thể vượt phạm vi quy mô hiện có. Do vị trí và không gian của đất đai không bị mất đi và cũng không tăng thêm trong quá trình sử dụng, nên phần nào đã giới hạn sức tải nhân khẩu và số lượng người lao động, có nghĩa tác dụng hạn chế của không gian đất đai sẽ thường xuyên xẩy ra khi dân số và KT-XH luôn phát triển.
Sự bất biến của tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng đất, mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội nhằm đảm bảo nâng cao lực tải của đất đai.
Khả năng không chuyển dịch của đất đai dẫn đến việc phân bố về số lượng và chất lượng đất đai mang tính khu vực rất chặt chẽ. Cùng với mật độ dân số của các khu vực khác nhau, tỷ lệ cơ cấu và lượng đầu tư sẽ có sự khác biệt rất rõ rệt. Tài nguyên đất đai có hạn, lại giới hạn về không gian, đây là nhân tố hạn chế lớn nhất đối với việc sử dụng đất ở nước ta. Vì vậy, cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả kết hợp bảo vệ tài nguyên đất và môi trường.
Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng công trình, nhà xưởng, giao thông... mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và giá trị kinh tế rất cao.
2.1.4. Các xu thế phát triển sử dụng đất
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng hợp lý nhất tài nguyên đất, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với ý nghĩa là nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất được thể hiện theo 4 mặt sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian sử dụng đất;
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất;
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng đất;
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
Hiện nay, xu thế sử dụng đất được phát triển theo các hướng sau:
2.1.4.1. Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung
Lịch sử phát triển của xã hội loài người chính là lịch sử biến đổi của quá trình sử dụng đất. Khi con người còn sống bằng phương thức săn bắn và hái lượm, chủ yếu dựa vào sự ban phát của tự nhiên và thích ứng với tự nhiên để tồn tại, vấn đề sử dụng đất hầu như không tồn tại. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những vùng đất có nước và đồng cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt với những công cụ sản xuất thô sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, năng lực sử dụng và ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia tăng.
Tuy nhiên trình độ sử dụng đất vẫn còn rất thấp, phạm vi sử dụng cũng rất hạn chế, mang tính kinh doanh thô, đất khai phá nhiều nhưng thu nhập rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân số và phát triển của kinh tế, kỹ thuật, văn hoá và khoa học, quy mô, phạm vi và chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân ngày càng cao, các ngành nghề cũng phát triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng dần, phạm vi sử dụng đất càng mở rộng (từ cục bộ một vùng đã phát triển trên phạm vi cả thế giới, thậm chí cả ở những vùng đất trước đây không thể sử dụng được).
Cùng với việc phát triển sử dụng đất theo không gian, trình độ tập trung cũng sâu hơn nhiều. Đất canh tác cũng như đất sử dụng theo các mục đích khác đều được phát triển theo hướng kinh doanh tập trung, với diện tích đất ít nhưng hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên, thời kỳ quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh thâm canh cao trong sử dụng đất là một nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Để nâng cao sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích, đòi hỏi phải liên tục nâng mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và công tác quản lý. ở những khu vực khác nhau của một vùng hoặc một quốc gia, có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật cũng như các điều kiện đặc thù, do đó phải áp dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều phương thức sử dụng đất tuỳ từng thời điểm khác nhau.
2.1.4.2. Sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp hoá và chuyên môn hoá
Khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình thức quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp hoá và chuyên môn hoá cơ cấu sử dụng đất.
Thực tế cho thấy, khi kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu cao hơn đối với đất đai. ở thời kỳ mức sống còn thấp, việc sử dụng đất chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thường nhật của cuộc sống là đủ cơm ăn, áo mặc và chỗ ở. Khi đời sống đã nâng cao, chuyển sang giai đoạn hưởng thụ, vấn đề sử dụng đất ngoài việc sản xuất vật chất phải thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hoá, thể thao và môi trường trong sạch... đã làm cho cơ cấu sử dụng đất trở nên phức tạp hơn.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự nhiên của con người, áp dụng các biện pháp bồi bổ và cải tạo sẽ nâng cao sức sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Trước đây, việc sử dụng đất rất hạn chế do kinh tế và khoa học kỹ thuật còn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt của đất đai, nông nghiệp thì độc canh, đất lâm nghiệp, đồng cỏ, mặt nước ít được khai thác, khai thác khoáng sản còn hạn chế, xây dựng chủ yếu là chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát triển... đã làm cho nội dung sử dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và sản phẩm của đất đai để phục vụ lợi ích con người.
Hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hoá, dẫn đến sự phân công trong sử dụng đất theo hướng chuyên môn hóa. Do đất đai có đặc tính khu vực rất mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ rệt, phương hướng và biện pháp sử dụng đất của các vùng cũng rất khác nhau. Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt được sản lượng và hiệu quả kinh tế cao nhất cần có sự phân công và chuyên môn hoá theo khu vực. Cùng với việc đầu tư, trang bị và ứng dụng các công cụ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại sẽ nẩy sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn và tập trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chuyên môn hoá sử dụng đất khác nhau về hình thức và quy mô.
2.1.4.3. Sử dụng đất phát triển theo hướng xã hội hoá và công hữu hoá
Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và xã hội dẫn tới việc xã hội hóa sản xuất. Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một loại sản phẩm và hỗ trợ bổ sung lẫn nhau đã hình thành nên sự phân công hợp tác mang tính xã hội hoá sản xuất, cũng như xã hội hốa việc sử dụng đất đai.
Đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh sống và xã hội tồn tại. Vì vậy, việc chuyên môn hoá theo yêu cầu xã hội hóa sản xuất phải đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội. Ngay cả ở xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân, những vùng đất đai hướng dụng cộng đồng như: nguồn nước, núi rừng, khoáng sản, sông ngòi, mặt hồ, biển cả, hải cảng, danh lam thắng cảnh, động thực vật quý hiếm... vẫn cần có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến hành công quản, kinh doanh... của Nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.
Xã hội hóa sử dụng đất là sản phẩm tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển xã hội hóa sản xuất. Vì vậy, xã hội hóa sử dụng đất và công hữu hóa là xu thế tất yếu. Muốn kinh tế phát triển và thúc đẩy xã hội hóa sản xuất cao hơn, cần phải thực hiện xã hội hóa và công hữu hóa sử dụng đất.
2.1.5. Sử dụng đất và các mục đích kinh tế, xã hội, môi trường
Trong thời kỳ cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, việc sử dụng đất luôn hướng tới mục tiêu kinh tế, nhằm đạt được lợi nhuận tối đa trên một đơn vị diện tích đất nhất định (xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, chuồng trại chăn nuôi quy mô lớn...). Bên cạnh đó, một phần diện tích đất không nhỏ được sử dụng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, ăn ở cũng như thỏa mãn đời sống tinh thần của con người (xây dựng nhà cửa, hệ thống giao thông, các công trình dịch vụ thể dục thể thao, văn hoá xã hội, mở mang phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn...).
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng đất, các mục đích sử dụng đất nêu trên luôn nẩy sinh mâu thuẫn làm cho mối quan hệ giữa người và đất ngày càng căng thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (sai lầm có ý thức hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng (các thảm hoạ sinh thái như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, trượt lở đất... liên tục xẩy ra với quy mô ngày càng lớn và mức độ ngày càng nghiêm trọng), làm cho một số chức năng của đất bị yếu đi.
Để thoả mãn nhu cầu của con người cả về 3 lợi ích kinh tế- xã hội- môi trường nhất thiết phải giải quyết những xung đột này để sử dụng đất có hiệu quả. Việc sử dụng đất như một thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo ra hiệu quả sử dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và nâng cao môi trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà được các mục tiêu kinh tế - xã ._.hội và môi trường.
Những xung đột giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường rất đa dạng:
- Đất sản xuất nông nghiệp đối lập với quá trình đô thị hoá.
- Phát triển thủy lợi đối lập với việc phân chia các nguồn tài nguyên nước cho đô thị và phát triển công nghiệp.
- Phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển đối lập với việc bảo vệ hệ sinh thái ven biển.
- Quyền lợi của người bản địa và những người di cư.
- Bảo vệ các giá trị sinh thái đối lập với nhu cầu về thực phẩm hoặc nông sản khác.
- Các chủ sử dụng đất nhỏ mâu thuẫn với việc canh tác quy mô lớn ...
2.1.5.1. Sử dụng đất và mục tiêu kinh tế
Sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau.
Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất của mình luôn đặt ra mục tiêu làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, nếu thấy việc đó không có lợi họ có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc nếu việc canh tác không có lợi họ có thể bán phần đất của họ cho người nông dân khác, những người mà sản xuất nông nghiệp đem lại lợi nhuận cao hơn hoặc họ cũng có thể thay đổi mục đích sử dụng đất của mình kể cả việc bán đất sét cho nhà máy gạch, bán cát dưới dạng vật liệu xây dựng hoặc sử dụng đất làm khu vui chơi giải trí cho khách du lịch ...
Trong khi đó cộng đồng (xã, huyện, tỉnh, cả nước) luôn có những mối quan tâm kinh tế lâu dài trong sử dụng đất, trước hết đó là đảm bảo các mục tiêu kinh tế lâu dài và cần thiết cho cả cộng đồng, đó là vấn đề an toàn lương thực; Có đất để mở mang đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu cụm công nghiệp, bảo vệ môi trường và các khu vui chơi giải trí .v.v...
Như vậy các mối quan tâm kinh tế nhất thời của người sử dụng đất cụ thể mâu thuẫn với mối quan tâm lâu dài của cả cộng đồng.
Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế được xem là hợp lý không có nghĩa là thoả mãn được nguyện vọng của từng chủ sử dụng đất và toàn thể cộng đồng, mà là quá trình xem xét cân nhắc để sử dụng đất hài hoà về mặt lợi ích của toàn thể cộng đồng và các chủ sử dụng đất cụ thể. Trong vấn đề này bao giờ cũng đặt ưu tiên cho việc sử dụng đất lâu dài và mối quan tâm chung của toàn thể cộng đồng.
2.1.5.2. Sử dụng đất và mục tiêu xã hội
Sử dụng đất trước tiên liên quan đến những người sống trên mảnh đất đó, họ có những nhu cầu thiết yếu của mình và đó là mục tiêu xã hội rõ rệt của bất cứ một Nhà nước nào nhằm tạo ra hay duy trì các điều kiện mà nó có tác dụng giúp thoả mãn những nhu cầu thiết yếu này. Việc tạo ra công ăn việc làm trong quá trình phát triển bền vững là một phương pháp hữu hiệu nhằm cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu (xã hội, kinh tế và môi trường). Những nhu cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công cộng hoặc các phương tiện phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập,... ngoài ra còn tạo ra một ý thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai của họ.
Công bằng xã hội là rất cần thiết cho mọi người. Trong sử dụng đất các Chính phủ thường có những dự án ưu đãi cho nhóm người nghèo trong xã hội.
Việc làm giảm tình trạng căng thẳng giữa những nhóm dân số cũng là một mục tiêu xã hội của Chính phủ (mâu thuẫn giữa dân bản địa, dân di cư...).
Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ về việc sử dụng đất. Đó là việc sử dụng đất của các thế hệ hiện tại không nghĩ đến lợi ích của các thế hệ con cháu. Do đó đã có khuyến cáo: “Đất không thể là đối tượng của từng cá thể! Đất mà chúng ta đang sử dụng, tự coi là của mình, không chỉ thuộc về chúng ta! Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy, trong sử dụng cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau”.
2.1.5.3. Sử dụng đất và mục tiêu môi trường
Đối với bất kỳ vùng đất nào trong sử dụng đất đai gắn với mục tiêu môi trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu chung và mục tiêu riêng. Chính phủ các nước đều đưa ra các tiêu chuẩn và mục tiêu về môi trường.
Việc nhìn nhận “môi trường” không chỉ có nghĩa là một hệ thống các tiêu chuẩn về hoá học. Đất nước, phong cảnh thiên nhiên ... là các tài sản có giá trị. Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có hiệu quả nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu KT-XH.
2.2. Khái quát chung về quy hoạch sử dụng đất
2.2.1. Những căn cứ pháp lý của quy hoạch sử dụng đất
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ sang Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp đã và đang gây áp lực ngày càng lớn đối với đất đai.
Kinh nghiệm thực tiễn cùng với đổi mới tư duy và nhận thức đã trả lại cho đất đai giá trị đích thực và vốn có của nó (là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì thay thế được). Việc sử dụng hợp lý đất đai liên quan chặt chẽ tới mọi hoạt động của từng ngành và từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất và sự sống còn của từng người dân cũng như vận mệnh của cả Quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta luôn coi đây là vấn đề rất bức xúc, cần được quan tâm hàng đầu.
Ý chí của toàn Đảng, toàn dân về vấn đề đất đai đã được thể hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật. những văn bản này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giúp giải quyết về mặt nguyên tắc những vấn đề đặt ra:
- Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập quy hoạch sử dụng đất?
- Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất?
- Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất?
2.2.1.1. Sự cần thiết về mặt pháp lý phải lập quy hoạch sử dụng đất
- Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân”, “Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả” (chương II, điều 18 Hiến pháp 1992);
- Điều 1 Luật Đất đai năm 1993 sửa đổi, bổ sung cũng nêu rõ: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”;
- Điều 13 Luật Đất đai xác định một trong những nội dung quản lý Nhà nước về đất đai là “Quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử dụng đất”;
- Điều 19 Luật Đất đai khẳng định ”Căn cứ để quyết định giao đất, cho thuê đất là Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”; [22]
- Nghị quyết số 01/1997/QH9 Quốc hội khoá 9, kỳ họp thứ 11 (tháng 4/1997) về kế hoạch sử dụng đất cả nước năm 2000 và đẩy mạnh công tác quy hoạch sử dụng đất các cấp trong cả nước...
- Luật Đất đai năm 2003 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua gồm 10 điều quy định các nội dung về Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai (mục 2 - từ điều 21 đến điều 30).
- Nghị Định số 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành luật đất đai 2003.
Như vậy, để sử dụng và quản lý đất đai (thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc biệt) một cách tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả nhất thiết phải làm quy hoạch.
2.2.1.2. Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất
Điều 25 Luật Đất đai năm 2003 quy định rõ trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo các cấp lãnh thổ hành chính. [22]
1. Chính phủ tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong địa phương mình (quy hoạch theo lãnh thổ hành chính - trừ trường hợp các đơn vị hành chính cấp dưới thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị). Trình Hội đồng nhân dân thông qua trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được trình đồng thời với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.1.3. Thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
1. Quốc hội quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do Chính phủ trình.
2. Chính phủ xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp.
4. Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị.
2.2.2. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại quy hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, mọi quan điểm đều dựa trên những căn cứ hoặc cơ sở chung như sau: Nhiệm vụ đặt ra đối với quy hoạch; số lượng và thành phần đối tượng nằm trong quy hoạch; Phạm vi lãnh thổ quy hoạch (cấp vị lãnh thổ hành chính) cũng như nội dung và phương pháp quy hoạch. Thông thường hệ thống quy hoạch sử dụng đất được phân loại theo nhiều cấp vị khác nhau (như loại hình, dạng, hình thức quy hoạch...) nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể về sử dụng đất đai (như điều chỉnh quan hệ đất đai hay tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất) từ tổng thể đến thiết kế chi tiết.
Đối với Việt Nam, Luật Đất đai năm 2003 (điều 25) quy định: quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo lãnh thổ hành chính
1. Quy hoạch tổng thể sử dụng đất cả nước;
2. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;
3. Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện;
4. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã.
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích tự nhiên của lãnh thổ. Tuỳ thuộc vào cấp vị lãnh thổ hành chính, quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ sẽ có nội dung cụ thể, chi tiết khác nhau và được thực hiện theo nguyên tắc: từ trên xuống, từ dưới lên, từ toàn cục đến bộ phận, từ cái chung đến cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước.
Mục đích chung của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính bao gồm: Đáp ứng nhu cầu đất đai (tiết kiệm, khoa học, hợp lý và có hiệu quả) cho hiện tại và tương lai để phát triển các ngành kinh tế quốc dân: Cụ thể hoá một bước quy hoạch sử dụng đất của các ngành và đơn vị hành chính cấp cao hơn; Làm căn cứ, cơ sở để các ngành (cùng cấp) và các đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử dụng đất của ngành và địa phương mình; Làm cơ sở để lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm (căn cứ để giao cấp đất, thu hồi đất theo thẩm quyền được quy định trong Luật Đất đai); Phục vụ cho công tác thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai.
Khác với Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 không quy định cụ thể quy hoạch sử dụng đất theo các ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp, khu dân cư nông thôn, đô thị, chuyên dùng). Quy hoạch sử dụng đất của các ngành này đều nằm trong quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính. Riêng quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được quy định cụ thể tại điều 30:
- Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh trình Chính phủ xét duyệt.
- Chính phủ quy định cụ thể việc lập, xét duyệt, điều chỉnh, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên có thể hiểu mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ và quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Trước tiên, Nhà nước căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và hệ thống thông tin tư liệu về điều kiện đất đai hiện có để xây dựng quy hoạch tổng thể sử dụng các loại đất. Các ngành chức năng căn cứ vào quy hoạch tổng thể sử dụng đất đai để xây dựng quy hoạch sử dụng đất cụ thể cho từng ngành phù hợp với yêu cầu và nội dung sử dụng đất của ngành. Như vậy, quy hoạch tổng thể đất đai phải đi trước và có tính định hướng cho quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Nói khác đi, quy hoạch ngành là một bộ phận cấu thành trong quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ.
Trong nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất theo ngành bao gồm quy hoạch sử dụng đất các vùng sản xuất chuyên môn hoá và quy hoạch sử dụng đất các xí nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất cho các vùng chuyên môn hoá - sản xuất hàng hoá có thể nằm gọn trong cấp vị lãnh thổ hoặc không trọn vẹn ở một đơn vị hành chính. Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, ngoài sản phẩm chuyên môn hóa phải kết hợp phát triển tổng hợp để sử dụng đầy đủ và hợp lý đất đai. QHSDĐ của xí nghiệp là hệ thống biện pháp về tổ chức, kinh tế và kỹ thuật nhằm bố trí, sắp xếp, sử dụng các loại đất như tư liệu sản xuất một cách hợp lý để tạo ra nhiều nông sản hàng hoá, đem lại nguồn thu nhập lớn. Nội dung quy hoạch đất đai của xí nghiệp rất đa dạng và phong phú, bao gồm: QH ranh giới địa lý; QH khu trung tâm; QH đất trồng trọt; QH thuỷ lợi; QH giao thông ... QH sử dụng đất của xí nghiệp có thể tiến hành trong các vùng sản xuất chuyên môn hóa hoặc có thể độc lập ở ngoài vùng.
Việc hình thành đồng bộ thị trường bất động sản cùng với các thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường vốn... đã trở thành một yêu cầu cấp bách, cần thể hiện trong công tác kế hoạch hoá việc sử dụng đất. Trong thời gian gần đây, thị trường bất động sản (đặc biệt là đất đai và nhà ở) rất sôi động, lại mang tính tự phát đã làm nẩy sinh nhiều tiêu cực (mua, bán, đầu cơ, trục lợi đất đai). Để khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong quản lý và sử dụng đất cần phải lập lại trật tự, kỷ cương, tổ chức và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản: Xác định đúng giá trị của từng loại đất, để sử dụng có hiệu quả, duy trì và phát triển quỹ đất, bảo đảm lợi ích của toàn dân; Chăm lo giải quyết nhà ở cho nhân dân, nhất là ở vùng đô thị, phát triển các doanh nghiệp Nhà nước xây dựng và kinh doanh nhà ở, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xây dựng và kinh doanh nhà theo sự hướng dẫn và quản lý của Nhà nước.
Kế hoạch sử dụng đất phải gắn với kế hoạch phát triển KT-XH, dựa trên mục đích chung vì lợi ích lâu dài phát triển KT-XH nhằm thoả mãn nhu cầu của nhân dân về tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý điểm khác biệt: Kế hoạch sử dụng đất chú trọng phát triển hình thức không gian; kế hoạch phát triển KT-XH chú trọng phát triển hình thức thời gian, nhưng nội dung lại được triển khai với hình thức không gian nhất định. Kế hoạch phát triển KT-XH là tiền đề của kế hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất là sự tiếp tục của kế hoạch phát triển KT-XH nhằm bố trí không gian thống nhất đối với các hạng mục liên quan đến đất đai (xây dựng, khai hoang, chuyển mục đích sử dụng đất...) trong thời kỳ kế hoạch.
Thời hạn lập kế hoạch sử dụng đất thường thống nhất với thời hạn lập kế hoạch phát triển KT-XH của các ngành, các cấp lãnh thổ hành chính và được thực hiện trong thời gian 5 năm.
2.2.3. Nhiệm vụ và nội dung của quy hoạch sử dụng đất
Đối với mỗi quốc gia, cũng như từng vùng trong một nước, nhiệm vụ và nội dung quy hoạch sử dụng đất ở các giai đoạn lịch sử khác nhau là rất khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung của quy hoạch sử dụng đất bao gồm:
1. Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai;
2. Đề xuất phương hướng, mục tiêu, trọng điểm và các nhiệm vụ cơ bản về sử dụng đất trong kỳ quy hoạch;
3. Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;
4. Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án;
5. Xác định các biện pháp khai thác, sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi trường;
6. Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của quy hoạch sử dụng đất là: Phân phối hợp lý đất đai cho nhu cầu phát triển KT-XH; Hình thành hệ thống cơ cấu sử dụng đất phù hợp với cơ cấu kinh tế; Khai thác tiềm năng đất đai và sử dụng đất đúng mục đích; Hình thành, phân bố hợp lý các tổ hợp không gian sử dụng đất nhằm đạt hiệu quả tổng hoà giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.
Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống quy hoạch nhiều cấp. Ngoài lợi ích chung của cả nước, mỗi vùng, mỗi địa phương tự quyết định những lợi ích cục bộ của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất, khi xây dựng và triển khai quy hoạch sử dụng đất phải tuân thủ các thể chế hành chính hiện hành của Nhà nước.
Hệ thống quản lý hành chính của nước ta được phân chia thành 4 cấp: toàn quốc, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp, quy hoạch sử dụng đất có nội dung và ý nghĩa khác nhau. Quy hoạch của cấp trên là cơ sở và chỗ dựa cho quy hoạch sử dụng đất của cấp dưới; quy hoạch của cấp dưới là phần tiếp theo, cụ thể hóa quy hoạch của cấp trên và là căn cứ để điều chỉnh các quy hoạch vĩ mô.
2.3. Tình hình nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất trong nước và nước ngoài
2.3.1. Tình hình nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất trong nước
2.3.1.1. Kết quả lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp
2.3.1.1.1. Công tác lập quy hoạch sử dụng đất:
a. Quy hoạch sử dụng đất cả nước
Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 11 đã thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai cả nước đến năm 2010 (Nghị quyết số 01/1997/QH9 về kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước 5 năm, từ năm 1996 - 2000) và giao trách nhiệm cho các ngành, các tỉnh, thành phố lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của ngành mình, địa phương mình trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Năm 2000 Chính phủ đã chỉ đạo Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường) xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và Kế hoạch sử dụng đất đến năm 2005 của cả nước trình Quốc hội khoá XI. Đến nay, Báo cáo này đã hoàn chỉnh để phù hợp với Luật Đất đai năm 2003 và đã được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 tại kỳ họp thứ 5, khoá XI. [9]
Đối với đất quốc phòng, an ninh: Chính phủ đã chỉ đạo Bộ TN và MT phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành rà soát quy hoạch sử dụng đất đối với tất cả các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, đến nay đã hoàn thành trên phạm vi cả nước.
b. Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh
Đến nay đã có 60/64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành việc lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010. [12]
c. Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện
Cả nước hiện có 411/668 đơn vị hành chính cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 (chiếm 62%), có 119 đơn vị đang triển khai việc lập quy hoạch sử dụng đất (chiếm 18%); còn lại 138 đơn vị cấp huyện chưa triển khai công tác lập quy hoạch sử dụng đất (chiếm 20%). Đánh giá chung, công tác quy hoạch sử dụng đất cấp huyện còn chậm, chưa có sự chuyển biến tích cực (80% số đơn vị cấp huyện đã và đang lập quy hoạch sử dụng đất), trong đó chủ yếu mới lập quy hoạch sử dụng đất của các huyện, còn quy hoạch sử dụng đất đô thị của hầu hết các tỉnh, thành phố chưa được lập. (TS Nguyễn Đình Bồng)
d. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã
Cả nước hiện có 5.878/10.761 xã, phường, thị trấn đã hoàn thành lập quy hoạch sử dụng đất (chiếm 55% tổng số đơn vị cấp xã), 1.204 đơn vị đang triển khai (chiếm 11% tổng số đơn vị cấp xã), còn 3.679 đơn vị cấp xã chưa triển khai (chiếm 34%). Tính chung mới có 66% số đơn vị cấp xã đã và đang lập quy hoạch sử dụng đất. Như vậy, có thể thấy rằng tiến độ lập quy hoạch sử dụng đất cấp xã vẫn còn rất chậm, số đơn vị hành chính cấp xã chưa triển khai còn nhiều. (TS Nguyễn Đình Bồng)
2.3.1.1.2. Công tác lập kế hoạch sử dụng đất
a. Cấp tỉnh
Thực hiện Luật Đất đai và hướng dẫn của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường), UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm và kế hoạch sử dụng đất 5 năm trình Chính phủ xét duyệt làm căn cứ cho việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất ở địa phương. Kết quả lập kế hoạch sử dụng đất đai hàng năm của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được thực hiện từ năm 1995 đến nay đã đi vào nề nếp: Năm 1995 có 30/53 tỉnh; Năm 1996 có 51/53 tỉnh, thành phố; Năm 1997 đã có 57/61 tỉnh, thành phố; Năm 1998 có 60/61 tỉnh, thành phố; Năm 1999 có 61/61 tỉnh, thành phố lập kế hoạch sử dụng đất; Từ năm 2000 đến năm 2006 việc lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm đã đi vào ổn định với 64/64 tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch sử dụng đất được Chính phủ phê duyệt.
b. Cấp huyện, xã
Trước năm 2001, UBND các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo việc lập kế hoạch sử dụng đất ở cấp huyện và cấp xã, tuy nhiên đa số tại các địa phương lập kế hoạch sử dụng đất chỉ mới được thực hiện ở cấp huyện. Từ năm 2004, các địa phương đã nghiêm túc thực hiện Nghị định số 181/2004/NĐ-CP và Thông tư 30/2004/TT-BTNMT. Cấp huyện và cấp xã đều đã và đang lập kế hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai quy định.
2.3.1.2. Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật đất đai
Trong những năm gần đây công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được các địa phương quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của các cấp đã dần đi vào nề nếp, quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, bảo đảm tính thống nhất, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, hạn chế được chuyển đất lúa nước, đất lâm nghiệp có rừng sang mục đích khác.
Kết quả thực hiện QHSDĐ ở nước ta trong giai đoạn từ 1994 đến nay đã cơ bản hoàn thành QHSDĐ cả nước, QHSDĐ cấp tỉnh, đã góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai, phục vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh trong quá trình công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước.
QHSDĐ theo cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất, phân công lao động, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, hiện đại hoá nông thôn, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đồng thời đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo và nông sản khác như: Cà phê, Cao su, Điều, Tiêu…và thuỷ sản như Tôm, Cá; diện tích đất rừng tự nhiên được khôi phục cùng diện tích trồng mới tăng đã nâng độ che phủ đất từ 28% năm 1990 lên 32% năm 1995, 35% năm 2000 và 44% năm 2005. [11].
QHSDĐ đã góp phần tạo lập quỹ đất để phát triển cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển Giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, hàng không), các ngành Công nghiệp, Xây dựng, Dịch vụ, Văn hoá, Khoa học kỹ thuật, Giáo dục, Y tế, Thể dục thể thao…
QHSDĐ đã góp phần tạo lập quỹ đất để thu hút đầu tư góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên công tác thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp hiện còn một số tồn tại:
- Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai các cấp, nhất là cấp huyện, cấp xã còn chậm, đến nay vẫn còn 16% số đơn vị hành chính cấp huyện và 30% số đơn vị hành chính cấp xã chưa lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thiếu đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất đai với chiến lược phát triển của các ngành nên ảnh hưởng nhiều đến quản lý đất đai.
- QHSDĐ ở nước ta mới thực hiện chủ yếu ở mức độ khái quát, mang tính định hướng (QHSDĐ cả nước, QHSDĐ cấp tỉnh và gần 60% QHSDĐ cấp huyện); còn thiếu quy hoạch chi tiết (QHSDĐ cấp xã mới đạt 55%); [11].
- Chất lượng và tính hiệu quả QHSDĐ được đánh giá thấp thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau: Tính định hướng của quy hoạch còn hạn chế, dự báo không sát với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội; tính đồng bộ của quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng đô thị, công nghiệp, giao thông vận tải…yếu, dẫn đến tình trạng chồng lấn, dư thừa hoặc thiếu hụt quỹ đất dẫn đến phá vỡ quy hoạch; tính khả thi của QHSDĐ là hạn chế do những khó khăn về tài chính, đền bù, giải toả, tái định cư dẫn đến tình trạng quy hoạch treo, dự án treo.
- QHSDĐ chưa kiểm soát được quá trình chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, đặc biệt đối với đất trồng lúa, không xác định rõ phạm vi diện tích đất lúa nước cần được bảo vệ nghiêm ngặt, bất khả xâm phạm; trong giai đoạn 2000-2005 bình quân mỗi năm cả nước giảm 60.000 ha đất lúa. [11].
- QHSDĐ chưa gắn chặt chẽ với quy hoạch bảo vệ môi trường (ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, xử lý ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học), không đảm bảo quỹ đất dự trữ phát triển đô thị, công nghiệp, hành lang giao thông, các vùng đệm giữa đô thị và nông thôn, giữa khu công nghiệp với khu dân cư, thương mại, dịch vụ, du lịch; không bố trí đày đủ quỹ đất cho hệ thống thu gom, xử lý chất thải (rác thả, đặc biệt rác thải độc hại), nước thải (công nghiệp, bệnh viện, sinh hoạt)…Ô nhiễm môi trường đang trở thành vẫn đề bức xúc trên phạm vi cả nước đến từng địa phương.
- Hệ thống QHSDĐ còn thiên về sắp xếp các loại đất cho mục tiêu quản lý hành chính, chưa tính toán đầy đủ về hiệu quả kinh tế và môi trường trong SDĐ, chưa có khả năng bảo vệ và cải thiện môi trường sống, chưa đảm bảo phát huy cao nhất sức sản xuất của đất đai, phương án bảo đảm an ninh lương thực chưa được thể hiện rõ nét. Một số bản đồ quy hoạch được duyệt mới chỉ được thể hiện trên nền địa hình nên tính khả thi không cao, các tính toán chưa đầy đủ chi tiết.
- Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong việc lập, thẩm định QHSDĐ chưa chặt chẽ. Việc quản lý thực hiện quy hoạch sử dụng đất chưa được các địa phương chú trọng và còn bị buông lỏng. Việc phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa rõ ràng, còn chồng chéo giữa các ngành, hoặc chồng chéo trong quản lý quy hoạch đô thị giữa ngành Địa chính, Xây dựng và Văn phòng Kiến trúc sư trưởng; chưa có các biện pháp, chế tài để kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Thời gian xem xét, thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phụ thuộc vào thời điểm họp Hội đồng nhân dân các cấp, do vậy cũng tác động làm chậm tiến độ triển khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
2.3.2. Thực tiễn công tác quy hoạch sử dụng đất của một số nước trên thế giới
2.3.2.1. Công tác quy hoạch sử dụng đất của Đài Loan
Trong vài thập kỷ trở lại đây, cũng như bất kỳ thành phố nào khác, quá trình đô thị hoá và bùng nổ kinh tế đang diễn ra hết sức sôi động như thành phố Cao Hùng (thành phố phía Nam của Đài Loan) đã phải đối mặt với áp lực tăng dân số đô thị nhanh chóng, làm thay đổi mạnh mẽ cả về quy mô lẫn diện mạo của thành phố. [28].
Trong tiến trình đô thị hoá nhanh chóng, chính quyền thành phố đã dựa trên kế hoạch, thực thi một cách tích cực dự án tổng thể nâng cấp đất đô thị với tên gọi là : “Củng cố đất đô thị”, theo đó, trước khi xây dựng ổn định, vững chắc, những mảnh đất nhỏ nào có hình dạng không đều và không có giá trị kinh tế sẽ được chuyển sang dạng vuông vắn, có đường giao thông thuận tiện cho việc sử dụng tối ưu và cho các mục đích xây dựng thông qua việc điều chỉnh lại ranh giới cũ bằng cách hợp nhất, chuyển đổi và phân chia lại các mảnh đất.
Chương trình củng cố đất đô thị này đã giành được thắng lợi hoàn toàn mà không cần có bất kỳ một sự trợ giúp tài chính nào từ phía chính quyền. Nó có thể cung cấp những cơ sở vật chất công cộng cũng như cải thiện một cách hiệu quả chất lượng môi trường đô thị, thu hút mọi người vào các hoạt động khác nhau để bố trí hợp lý đất nông nghiệp.
Do vậy, thành phố Cao Hùng đã được xây dựng với quy mô và diện mạo của một thành phố lớn với một cảng quốc tế mà không có bất kỳ một sự trợ giúp nào của chính quyền, điều này dường như chưa hề diễn ra ở các thành phố lớn khác phát triển theo hướng truyền thống của Đài Loan.
Cho đến nay, vùng được xây dựng củng cố ở Cao Hùng đã trở thành nơi có diện tích lớn nhất ở khu vực Đài Loan và là một mô hình kiểu mẫu cho quá trình củng cố đất đô thị. Chính vì vậy, thành phố Cao Hùng đã được gọi đúng với nghĩa của nó “Thành phố của quá trình củng cố đất đô thị”. Hiện nay, chính quyền thành phố Cao Hùng đang khuyến khích các chủ sử dụng đất tự tiến hành củng cố đất đô thị cho các vùng cần thiết, dựa trên các chức năng cơ bản của quá trình củng cố đất đô thị là:
1. Tăng cường sự hợp tác chặt chẽ giữa sử dụng đất đô thị và thi hành quy hoạch thành phố để thúc đẩy việc xây dựng và phát triển thành phố.
2. Loại bỏ những mảnh đất có hình dạng chắp vá và không đều (làm tăng giá trị sử dụng đất).
3. Giảm bớt những khó khăn (tăng cường thuận lợi) trong việc giành đất cho các cơ sở vật chất công cộng.
4. Những cơ sở hạ tầng công cộng có liên quan mật thiết tới đời sống hàng ngày như: đường xá, cống rãnh, chợ, công viên địa phương... cần phải được xây dựng trước.
5. Sử dụng nguồn tài chính ở huyện để hoàn thành việc phát triển huyện.
6. Tận dụng đất đền bù (đất được lấy từ các chủ sử dụng đất để bù vào những chi phí xây dựng) cho các dự án xây dựng nhà ở quốc gia.
Đến nay, toàn bộ quá trình củng cố đất đô thị của thành phố Cao Hùng đã trải qua 52 giai đoạn, trong đó có 36 giai đoạn đã hoàn thành, còn lại 16 giai đoạn vẫn đang được tiếp tục triển khai thực hiện. Trong tổng số 52 giai đoạn củng cố đất đô thị, các chủ sử dụng đất tự thực hiện 15 giai đoạn, còn 37 giai đoạn do chính quyền thành phố thực hiện.
2.3.2.2. Công tác quy hoạch sử dụng đất của Thuỵ Điển
Thuỵ Điển là một nước rộng lớn, xét theo khía cạnh khu vực địa lý, rộng khoảng 450.000 km2 (39.000 km2 hồ, 411.000 km2 đất), đứng thứ 5 ở châu Âu. Đây là đất nước có chiều dài rất lớn; khoảng cách từ điểm cực Nam đến điểm cực Bắc vào khoảng 1600 km. [32].
Tại Thuỵ Điển, phần lớn đất đai thuộc sở hữu tư nhân. Nhưng việc phát triển đất đai lại không phải là vấn đề mang tính cá nhân mà là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Vì vậy các quy định mang tính pháp lý liên quan đến việc phát triển đất đai luôn đặt ra một yêu cầu là phải có sự cân bằng giữa lợi ích riêng và lợi ích chung.
Theo hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về quy hoạch của Thuỵ Điển nói riêng, các địa phương toàn quyền giám sát việc phát triển, không cần là phải chủ sở hữu phần đất được quy hoạch, không cần quan tâm đến việc đất đó thuộc về ai. Tuy nhiên điều đó chỉ đúng trên lý thuyết, còn trên thực tế quyền sở hữu đất đai có thể ảnh hưởng cả đến quy hoạch và việc thực hiện quy hoạch, trong giai đoạn quy hoạch có thể điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với quyền sở hữu.
Khi chuẩn bị quy hoạch chi tiết, các địa phương phải cố gắng điều chỉnh thuận lợi và bất lợi của quy hoạch giữa các chủ sở hữu. Tuy nhiên kết quả kinh tế thường không công._.4,68
44,06
9,40
149,81
35,29
193,87
41,38
3.1
Đất bằng chưa sử dụng
285,74
338,82
274,28
53,08
18,58
64,54
19,05
11,46
4,01
3.2
Đất đồi núi chưa sử dụng
182,81
85,67
97,14
53,14
85,67
100,00
182,81
100,00
3.3
Núi đá không có rừng cây
0,40
0,40
0,40
+ Đất cỏ dùng vào chăn nuôi: Theo quy hoạch đến năm 2010, trên toàn huyện chưa có diện tích này, song trong 9 năm đầu thực hiện phát triển được 41,36 ha. Điều này chứng tỏ về quy hoạch phát triển đồng cỏ chăn nuôi của huyện là cần thiết, phải có sự điều chỉnh diện tích đất đồng cỏ trong tương lai.
+ Đất trồng cây hàng năm khác: Quy hoạch năm 2010 là 281,89 ha, diện tích thực hiện không theo quy hoạch đề ra. Do chuyển đổi cơ cấu cây trồng ngày càng nhiều. Vì vậy trong 3 năm còn lại 2008-2010 cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế của địa phương.
- Đất trồng cây lâu năm: So với quy hoạch năm 2010, diện tích thực hiện năm 2007 là tương đối phù hợp, hầu hết các loại đất trong đất trồng cây lâu năm đều tăng lên theo chiều thuận với quy hoạch đề ra. Tuy nhiên cần lưu ý mức độ tăng chậm của đất trồng cây ăn quả, như vậy phần kế hoạch phải thực hiện trong 3 năm còn lại 2008 - 2010 sẽ rất lớn phải đạt được 521,25 ha năm 2010.
* Đất lâm nghiệp: Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, diện tích rừng phòng hộ sẽ giảm gần 47 ha, còn đất rừng sản xuất và đất rừng đặc dụng vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên diện tích thực hiện năm 2007, quá trình giảm sút diễn ra ở rừng phòng hộ. Đặc biệt sự giảm sút diện tích rừng phòng hộ như đã phân tích ở phần trên là tín hiệu đáng lo ngại đối với sự an toàn và tuổi thọ của một số công trình thuỷ lợi trên địa bàn huyện cũng như trong tỉnh.
- Đất có rừng trồng: Diện tích đến năm 2010 sẽ đạt 1565,11 ha, tăng thêm so với năm 1998 xấp xỉ 123,00 ha, trung bình một năm phải trồng được 14 ha. Song diện tích đất có rừng trồng đến năm 2007 vượt mức quy hoạch đề ra đạt 1598,38 ha, tăng thêm 156,08 ha trong vòng 9 năm, bình quân một năm trồng được trên 17 ha.
Ngoài việc phát triển rừng trồng sản xuất với quy mô lớn phải đặc biệt lưu ý đến việc duy trì và phát triển rừng trồng phòng hộ và rừng trồng đặc dụng tại địa phương, bởi các loại đất này đang có xu hướng sa sút nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng (diện tích rừng trồng phòng hộ năm 2007 giảm 46,97 ha so với năm hiện trạng 1998).
* Đất nuôi trồng thuỷ sản: So với quy hoạch năm 2010, diện tích thực hiện năm 2007 đã phát triển mạnh. Tuy nhiên trong 3 năm còn lại của quy hoạch còn khối lượng khá lớn mới hoàn thành quy hoạch đề ra.
* Đất nông nghiệp khác: Quy hoạch năm 2010 diện tích sẽ là 53,88 ha, trong giai đoạn 9 năm 1998-2007 chưa thực hiện được. Vì vậy cần phải điều chỉnh để quy hoạch có tính khả thi
Như vậy, xét về tổng thể, diện tích đất nông nghiệp năm 2007 đạt 102,41% quy hoạch đề ra năm 2010. Tuy nhiên như đã phân tích đối với từng loại đất thì cần có những điều chỉnh cụ thể nhằm đạt được quy hoạch, cũng như có sự nghiên cứu để điều chỉnh quy hoạch cho sát với khả năng thực thi và tình hình thực tế của địa phương.
b. Đất phi nông nghiệp:
* Đất ở:
Tổng diện tích đất ở năm 1998 là 1782,96 ha. Dự báo nhu cầu đất ở đến năm 2010 sẽ tăng thêm 276,03 ha, đạt diện tích 2058,99 ha, trong đó có ha 171,20 đất ở đô thị và 1887,79 ha đất ở nông thôn. Đáp ứng nhu cầu dân số tăng lên theo dự báo đến năm 2010 là 172.606 người, tương ứng 41.273 hộ. Tuy nhiên trên thực tế, đến năm 2007 diện tích đất ở của huyện đã là 1968,67 ha, tăng so với năm 1998 là 185,71 ha , trong đó đất ở đô thị mới có 75,12 ha và 110,59 ha đất ở nông thôn. Như vậy cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất ở giai đoạn 3 năm (2008-2010) nhằm đáp ứng nhu cầu tăng dân số ngày càng cao của huyện.
* Đất chuyên dùng:
- Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp: Quy hoạch đề ra đến năm 2010 có diện tích là 19,32 ha, thực hiện được 96,79%
- Đất quốc phòng, an ninh: Theo quy hoạch đề ra đến năm 2010, diện tích chỉ tăng thêm 36,51 ha, tuy nhiên trên thực tế, nhu cầu quy hoạch dành cho đất quốc phòng an ninh của Bộ Quốc phòng đã vượt chỉ tiêu quy hoạch ban đầu (năm 2007 tăng thêm 40,51 ha so với năm 1998), nên cần điều chỉnh chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp quy hoạch sử dụng đất do Bộ Quốc phòng lập và đã được xét duyệt.
- Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp:
+ Đất khu công nghiệp: Năm 2007 đã thực hiện được 125,00 ha, tăng 86,72 ha và đạt 31,25% mức quy hoạch đề ra đến năm 2010. Nhưng trên thực tế của địa phương các nhà đầu tư đang lập dự án xin xây dựng trên khu công nghiệp lớn và nhỏ ngày càng nhiều, vì vậy nhu cầu về đất khu công nghiệp ngày càng tăng. Do đó đến năm 2010 cần điều chỉnh loại đất này để phù hợp với thực tế của địa phương. Đây là nhiệm vụ tương đối nặng nề, cần sự đầu tư rất lớn và tập trung trong mọi lĩnh vực về con người, nguồn kinh phí, quỹ đất đủ phục vụ cho việc giải phóng mặt bằng, sự điều hành và chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến địa phương.
+ Đất cơ sở sản xuất, kinh doanh: Tăng lên đều đặn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn huyện, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã đề ra.
+ Đất cho hoạt động khoáng sản: Loại đất này dự kiến quy hoạch năm 2010 là 69,00 ha, trong 9 năm (1998-2007) chưa thực hiện được theo đúng quy hoạch. Do đó trong giai đoạn 3 năm còn lại cần điều chỉnh để quy hoạch có tính khả thi.
+ Đất sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ: Diện tích thực hiện năm 2007 đã đạt mức quy hoạch đề ra năm 2010, trong giai đoạn 3 năm tiếp theo (2008 - 2010), cần tăng cường mạnh mẽ mới có thể hoàn thành chỉ tiêu quy hoạch.
- Đất có mục đích công cộng:
+ Đất giao thông: Cũng tăng lên theo chiều thuận, tuy nhiên diện tích thực hiện được trong vòng 9 năm đầu đạt 107,73% quy hoạch đề ra. Do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện, vì vậy trong giai đoạn 3 năm tiếp theo (2008 - 2010), cần phải điều chỉnh để phù hợp với thực tế.
+ Đất thuỷ lợi: Đây là loại đất tăng lớn nhất trong 9 năm thực hiện quy hoạch (346,45 ha), đạt 112,29% kế hoạch, để phục vụ việc giành đất mặt bằng xây dựng và cải tạo các công trình kênh, mương thuỷ lợi.
+ Đất để chuyền dẫn năng lượng, truyền thông: Diện tích thực hiện đến năm 2007 đạt mức quy hoạch đề ra đến năm 2010, phục vụ tốt cho nhu cầu năng lượng, truyền thông trên địa bàn huyện.
+ Đất cơ sở y tế: Tăng lên theo chiều thuận so với quy hoạch đề ra, tuy nhiên thực hiện được trong vòng 9 tương đối ít. Do đó trong giai đoạn 3 năm tiếp theo (2008-2010), cần tăng cường đầu tư và chỉ đạo mạnh mẽ mới có thể hoàn thành chỉ tiêu quy hoạch.
+ Đất cơ sở giáo dục, đào tạo: Diện tích thực hiện được là 61,83 ha, đạt 81,13% quy hoạch.
+ Đất cơ sở thể dục, thể thao: Diện tích thực hiện đến năm 2007 là 22,14 ha, đạt 30,90% quy hoạch. Trong 3 năm (2008-2010) cần điều chỉnh để có tính khả thi.
+ Đất chợ: Diện tích thực hiện đến năm 2007 là 7,32 ha, đạt 37,84% quy hoạch đề ra.
+ Đất có di tích, danh thắng: Là loại đất có diện tích hiện trạng (năm 2007) nhỏ trong loại đất chuyên dùng, song lại khẳng định một vị trí không nhỏ trong đời sống tinh thần và nhân văn của nhân dân trên địa bàn huyện. Đảm bảo được nhu cầu tôn tạo, tu bổ, bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước xếp hạng.
+ Đất bãi thải, xử lý chất thải: Chỉ tiêu đặt ra là 17,74 ha, thực hiện đến năm 2007 là 0,43 ha, đạt 2,42% quá ít so với quy hoạch, trong 3 năm còn lại (2008-2010) cần phải điều chỉnh để có tính khả thi.
* Đất tôn giáo tín ngưỡng: Diện tích thực hiện đến năm 2007 là 43,72 ha, đạt 92,39% quy hoạch đề ra.
* Đất nghĩa trang, nghĩa địa: Diện tích thực hiện đến năm 2007 là 190,22 ha, đạt 94,67% quy hoạch.
* Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng: Thực hiện được 99,59% quy hoạch, đây là loại đất đạt khá cao so với quy hoạch đề ra.
* Đất phi nông nghiệp khác: Đã thực hiện 100% quy hoạch đến năm 2010.
Tổng hợp lại có thể thấy hầu hết các loại đất trong đất phi nông nghiệp đều tăng lên, đảm bảo theo quy hoạch đã đặt ra đến năm 2010. Tuy nhiên cần lưu ý một số loại đất chính có mức tăng còn chậm so với chỉ tiêu quy hoạch, phải tập trung tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật mới thực hiện được nhu cầu quỹ đất đã đề ra, phục vụ tốt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong quy hoạch.
c. Đất chưa sử dụng:
Tổng diện tích đất chưa sử dụng luôn giảm đi qua các năm để chuyển sang các mục đích sử dụng nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dùng và đất ở. Tuy nhiên thực tế năm 2007 diện tích đất bằng chưa sử dụng lại tăng lên 53,08 ha. Điều này có thể được lý giải do hiện tượng giảm sút diện tích đất chuyên trồng lúa nước ngập úng hàng năm không có khả năng sử dụng được đã dẫn đến quá trình tái hoang hóa đất bằng chưa sử dụng.
4.5.2. Phân tích những vấn đề tồn tại trong sử dụng đất giai đoạn 1998 - 2007 so với phương án quy hoạch..
Khi xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất của một đơn vị hành chính cho một giai đoạn nhất định (thường trong vòng 10 năm), ngoài việc phân tích, đánh giá điều kiện tự nhiên, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, tình hình quản lý và hiện trạng sử dụng đất cần thiết phải nghiên cứu, phân tích thực trạng biến động đất đai giai đoạn trước trong vòng 5 đến 10 năm để tìm ra các nguyên nhân và xu thế biến động đất đai, những vấn đề tồn tại trong
Nhìn chung việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong những năm qua trên địa bàn huyện đã đạt được những thành quả nhất định. Đáp ứng được phần nào yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của huyện. Tuy nhiên xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển trong sự đổi mới nền kinh tế của huyện nói riêng và toàn tỉnh nói chung nên trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã có những phát sinh, dẫn đến một số thay đổi so với chỉ tiêu được duyệt. Ngoài ra sự thay đổi, phát sinh còn do nhiều nguyên nhân khác như: Do cơ chế chính sách pháp luật về đất đai thay đổi quá lớn, luật đất đai đã đưa đất đai vận hành trong cơ chế thị trường, đất đai là hàng hoá. Vì vậy nhận thức của ngành quản lý và sử dụng chưa chuyển biến kịp. Quy hoạch sử dụng đất trước đây được lập không dựa trên định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện cũng như của toàn tỉnh, không lường trước được mức độ biến động của các loại đất, không nắm bắt được xu thế phát triển, còn dựa trên ý kiến chủ quan, dẫn đến phương án quy hoạch sử dụng đất kém hiệu quả trong thực tế.
Quá trình thực hiện quy hoạch sử dụng đất, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đảm bảo đúng tiến độ về mặt thời gian cũng như các nội dung quy hoạch đã đề ra, còn tồn tại một số vấn đề bất cập, thể hiện ở các khía cạnh sau:
4.5.2.1. Những vấn đề bất hợp lý trong quá trình thực hiện quy hoạch
- Đối với đất nông nghiệp: trong đất trồng cây hàng năm, diện tích đất chuyên trồng lúa nước tăng lên qua giai đoạn (từ 1998 - 2007). Sau 9 năm đất chuyên trồng lúa nước đã tăng 80,80 ha. Đây là mâu thuẫn rất lớn trong việc dành đất cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Theo phương án quy hoạch, diện tích loại đất này cần hạn chế tăng và phải giảm dần qua các năm vì đây là loại đất nông nghiệp không ổn định, rất dễ bị chuyển đổi thành đất hoang trọc.
- Đối với đất phi nông nghiệp: loại đất thường có xu hướng tăng mạnh là đất ở và đất chuyên dùng để đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp. Mặc dù vậy, từ năm 1998 đến 2007 hai loại đất trên có tốc độ tăng nhưng chậm và có một số loại đất không đúng theo chỉ tiêu so với kế hoạch đề ra.
- Đối với đất chưa sử dụng: diện tích loại đất này theo quy luật luôn luôn giảm đi để chuyển sang các mục đích sử dụng khác. Tuy nhiên đất bằng chưa sử dụng lại tăng lên với diện tích lớn trong vòng 9 năm (trên 53 ha).
4.5.2.2. Những vấn đề bất cập về chỉ tiêu kế hoạch đề ra
- Chỉ tiêu đất nông nghiệp khác năm 2010 là 53,88 ha và diện tích đất cho hoạt động khoáng sản là 69,00 ha là tương đối lớn. Song trong 9 năm 2 loại đất này toàn huyện chưa thực hiện được diện tích quy hoạch đã đề ra.
- Chỉ tiêu đất quốc phòng an ninh cần bám sát quy hoạch sử dụng đất quốc phòng an ninh do Bộ Quốc phòng lập và được Chính phủ phê duyệt.
- Chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất ở nông thôn thấp hơn so với nhu cầu thực tế về áp lực dân số của huyện. Trong giai đoạn thực hiện quy hoạch (1998-2007), diện tích đất ở đã vượt so với quy hoạch năm 2010 là gần 101%.
- Đối với đất lâm nghiệp: đất rừng phòng hộ ngoài mục đích tạo độ che phủ còn có ý nghĩa bảo đảm an toàn cho các công trình thuỷ lợi, trọng điểm ở khu vực đầu nguồn ... song trong giai đoạn 9 năm đầu thực hiện quy hoạch, diện tích đất rừng phòng hộ (cả rừng tự nhiên và rừng trồng) liên tục suy giảm với số lượng lớn (trên 15 ha).
- Đối với đất chuyên dùng: hai loại đất thường có xu hướng tăng mạnh trong đất chuyên dùng là đất giao thông và đất thuỷ lợi để đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và sản xuất nông nghiệp.(đất giao thông tăng hơn 107% quy hoạch, đất thuỷ lợi tăng hơn 112% quy hoạch).
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Dự án Quy hoạch sử dụng đất huyện Yên Dũng đến năm 2010 được xây dựng trên cơ sở đánh giá thực trạng sử dụng đất, tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn quy hoạch, những tiềm năng hiện có về tài nguyên thiên nhiên, con người cũng như định hướng phát triển cụ thể của từng ngành, từng lĩnh vực. Đến nay dự án quy hoạch sử dụng đất huyện đã thực hiện được 9 năm (từ năm 1998 đến năm 2007). Quá trình triển khai dự án đã thực thi được một khối lượng nội dung công việc tương đối lớn theo đúng những chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong phương án quy hoạch.
Giai đoạn 1998-2007, diện tích đất nông nghiệp chuyển sang đất chuyên dùng và đất ở 803,27 ha, đạt 102,41% kế hoạch, vượt so với phương án quy hoạch. Diện tích đất chuyên dùng chuyển sang đất nông nghiệp 20,83ha, sang đất ở 24,61 ha, đạt 93,5% quy hoạch. Diện tích đất sông suối và mặt nước chuyên dùng chuyển sang đất nông nghiiệp 193,41 ha, sang đất ở 12,56 ha, sang đất chuyên dùng 179,34 ha, đạt 99,6% quy hoạch. Diện tích đất chưa sử dụng chuyển sang đất nông nghiệp 153,36 ha, sang phi nông nghiệp 85,57 ha, đạt 64,7% quy hoạch. Như vậy diện tích đất chưa sử dụng chuyển sang mục đích khác chưa đạt mục tiêu của phương án quy hoạch sử dụng đất đề ra.
Ý nghĩa kinh tế - xã hội của việc quy hoạch sử dụng đất được thể hiện ở một số mặt sau:
- Xác lập được sự ổn định về mặt pháp lý trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Là căn cứ để tiến hành giao cấp đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo đúng pháp luật hiện hành, giúp các ngành có cơ sở pháp lý đầu tư phát triển trên địa bàn huyện.
- Phân bố hợp lý dân cư, lao động, phát triển hệ thống giao thông, thuỷ lợi, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, tạo điều kiện thuận lợi đảm bảo giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội và phát triển đồng bộ các ngành kinh tế.
- Hiệu quả sử dụng đất được nâng cao, tăng tỷ lệ đất được sử dụng, giảm tỷ lệ đất chưa sử dụng nhờ khai thác triệt để quỹ đất của huyện bằng các biện pháp cải tạo và chuyển đổi mục đích.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trên cơ sở thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đã phát hiện một số bất cập, tồn tại nhất định, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan:
- Hệ thống số liệu thông tin điều tra cơ bản của các ngành: trong quá trình điều tra, thu thập thông tin, tài liệu, số liệu về điều kiện tự nhiên, thực trạng phát triển kinh tế - xã hội, tình hình quản lý và hiện trạng sử dụng đất... thường có sự sai lệch, không khớp nhau. Sự sai lệch này có thể hiểu do sự khác nhau về tiêu chí thống kê giữa các ngành, dẫn đến những nhận định khác nhau về cùng một chỉ tiêu thống kê.
- Chỉ tiêu thống kê đất đai: trải qua mỗi thời kỳ, hệ thống chỉ tiêu thống kê đất đai lại có sự thay đổi, từ đơn giản đến phức tạp, chi tiết, hoàn thiện dần cho phù hợp với các chính sách, pháp luật đất đai và các chính sách phát triển KT-XH của thời kỳ đó. Vì vậy, sự so sánh các loại hình sử dụng đất giữa các thời kỳ thường có những khó khăn nhất định do thay đổi chỉ tiêu thống kê. Ngoài ra các chỉ tiêu thống kê đất đai hiện hành vừa bao gồm hiện trạng sử dụng đất theo mục đích sử dụng chủ yếu - trạng thái bề mặt (đất nông nghiệp, đất ở, đất xây dựng, đất giao thông, đất thuỷ lợi... ) và hiện trạng sử dụng đất theo không gian sử dụng (đất khu công nghiệp, đất sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, đất sử dụng cho khu công nghệ cao...). Từ đó dẫn đến những khó khăn nhất định trong quá trình đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khi phải bóc tách riêng các loại đất.
- Định mức sử dụng đất: Đối với ngành địa chính, công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn nhiều khó khăn, hạn chế do ngành chưa ban hành được tiêu chuẩn định mức sử dụng đất đầy đủ, áp dụng thống nhất trong cả nước. Việc sử dụng các tiêu chuẩn định mức trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vẫn lấy của các ngành khác nên nẩy sinh một số bất cập do các tiêu chuẩn định mức sử dụng đất của các ngành chưa có sự thống nhất. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện quy hoạch, một số tiêu chuẩn định mức không còn phù hợp với điều kiện thực tế, song vẫn chưa được thay thế.
- Kế hoạch phát triển KT-XH: phương án quy hoạch sử dụng đất của một địa phương thường được xây dựng trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của địa phương đó. Tuy nhiên trên thực tế, các mục tiêu phát triển KT-XH là con số dự báo cho một khoảng không gian và thời gian tương đối lớn, luôn biến động do chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Khi các chỉ tiêu KT-XH bị thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi về chỉ tiêu đất đai, dẫn đến sự biến động của phương án quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.
- Nguồn vốn đầu tư cho các dự án: ở một số địa phương hiện nay, đặc biệt là những địa phương nghèo, việc thực hiện các dự án phát triển KT-XH, xây dựng cơ sở hạ tầng luôn gặp khó khăn do không chủ động được nguồn vốn đầu tư, phải chờ đợi sự trợ giúp của trung ương và các đối tác bên ngoài. Điều này cũng góp phần làm cho các kế hoạch đã đề ra bị xáo trộn, chậm thực hiện theo tiến độ thời gian và khối lượng công việc...
Từ tất cả những tồn tại, bất cập đã nêu dẫn đến một nhu cầu tất yếu phải điều chỉnh những bất hợp lý trong quá trình thực hiện quy hoạch. Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được tiến hành theo đúng những quy định của Luật Đất đai hiện hành (Mục 2, điều 27, Luật Đất đai năm 2003).
5.2. Kiến nghị
Để giải quyết những tồn tại trong quá trình thực hiện quy hoạch sử dụng đất và nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của huyện, cần triển khai thực hiện các công việc sau:
- Rà soát lại một số chỉ tiêu quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp với thực tế phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn hiện tại. Từ đó đề xuất với lãnh đạo địa phương các biện pháp cụ thể để điều chỉnh chỉ tiêu quy hoạch.
- Trên cơ sở những dự báo phát triển trong vòng 4 năm tới, kết hợp hệ thống chỉ tiêu sử dụng đất do Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, xây dựng chỉ tiêu sử dụng từng loại đất cụ thể, chi tiết phù hợp với địa phương. Quy định các giải pháp bảo vệ đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa nước.
- Điều chỉnh những bất hợp lý (do các nguyên nhân chủ quan và khách quan) trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quy định những chế tài cụ thể trong công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (phân công trách nhiệm người giám sát, các chỉ tiêu quản lý giám sát, quy trình kiểm tra...). Xử phạt đối với việc vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
- Công bố công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để nhân dân biết, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo Định hướng các chính sách khai thác sử dụng quỹ đất Tổng cục Địa chính - Tháng 5/ 2001
Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát tình hình đất sản xuất và đất ở của các hộ trên địa bàn huyện Yên Dũng; Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bắc Giang- Tháng 6/ 2005.
Báo cáo kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2007 của UBND tỉnh Bắc Giang, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Yên Dũng và các xã, thị trấn trong huyện.
Báo cáo đánh giá kết quả công tác định canh định cư của huyện Yên Dũng.
Báo cáo quy hoạch của các ngành trên địa bàn huyện Yên Dũng.
Báo cáo tổng hợp dự án phát triển kinh tế - xã hội ủy ban nhân dân huyện Yên Dũng - Tháng 3/ 2002.
Báo cáo tổng hợp “Quy hoạch sử dụng đất đai huyện Yên Dũng đến năm 2010” ; UBND huyện Yên Dũng - Tháng 6/1999, Yên Dũng.
Bản đồ Hiện trạng sử dụng đất năm 2005, tỷ lệ 1/25.000 huyện Yên Dũng.
Vũ Thị Bình (2002), Bài giảng đánh giá hiệu quả sử dụng đất dùng cho học viên cao học ngành Quản lý đất đai, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Bộ tài nguyên và Môi trường (2004), Thông tư số 30/2004/TT-BTNMT về hướng dẫn lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Hà Nội.
Bộ tài nguyên và Môi trường (2005), Quyết định số 04/2005/QĐ-BTNMT về ban hành quy trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất năm 2005. Hà Nội.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Báo cáo công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, Hà Nội.
Nguyễn Đình Bồng (2005), Nghiên cứu đổi mới hệ thống quản lý đất đai để hình thành và phát triển thị trường bất động sản ở Việt Nam, đề tài ĐLCNN 2002/15. Hà Nội.
Nguyễn Đình Bồng (2007), Quy hoạch sử dụng đất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp. Báo cáo tại hội thảo về Quy hoạch sử dụng đất do Hội Khoa học đất và Viện nghiên cứu địa chính - Bộ tài nguyên và môi trường chủ trì, tổ chức ngày 24.8.2007 tại Viện Nghiên Cứu địa chính. Hà Nội.
Võ Tử Can (2001), Phương pháp lập quy hoạch sử dụng đất đai, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đât đai 2003, Hà Nội
Dân tộc - Văn hóa - Tôn giáo; GS Đặng Nghiêm Vạn - Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia - Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 2001.
Nguyễn Quang Học (2002), những vấn đề về phương pháp luận trong quản lý sử dụng đất bền vững theo quy hoạch sử dụng đất ở vùng núi phía Bắc, Tạp chí địa chính, (số 9/2000).
Hiến Pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội (1992)
Kế hoạch phát triển nông - lâm nghiệp và thuỷ lợi huyện Yên Dũng giai đoạn 2005 - 2010; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Giang - Tháng 7/ 2005.
Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai, các văn bản dưới luật có liên quan đến đất đai.
Luật Đất đai năm 2003 (được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003);
Nguyễn Đức Minh (2005), Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai với thị trường bất động sản, đề tài nhánh về đề tài ĐLCNN 2002/15. Hà Nội.
Một số vấn đề văn hoá xã hội cần chú ý trong phát triển ở tỉnh hiện nay (Bài nói ở Trường Đại học Nông nghiệp I - Nguyên Ngọc, tháng 10/1999).
Niên giám thống kê các năm từ 2000 đến 2007 - Phòng Thống kê huyện Yên Dũng.
Phụ lục 2 - Chỉ tiêu thống kê đất đai qua các thời kỳ từ 1980 - 2000 (Kèm theo báo cáo phân tích, đánh giá biến động đất đai cả nước từ 1980 - 2000); Viện Điều tra Quy hoạch đất đai - Tổng cục Địa chính, tháng 12/2000.
Phát triển bền vững miền núi Việt Nam - 10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra; Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và môi trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhà xuất bản Nông nghiệp, tháng 4/2002.
Đoàn Công Quỳ (2001), Đánh giá tiềm năng đất đai phục vụ quy hoạch sử dụng đất huyện Đại Từ - tỉnh Thái Nguyên, Luận án tiến sỹ nông nghiệp, trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội
Đoàn Công Quỳ (2006), Giáo trình quy hoạch sử dụng đất đai, NXB Nông nghiệp I, Hà Nội.
Đoàn Công Quỳ, Nguyễn Thị Vòng (2007), Bài giảng quy hoạch sử dụng đất đai dùng cho học viên cao học trường đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Rà soát điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Yên Dũng giai đoạn 1998 - 2010; Phòng Kế hoạch và Đầu tư huyện Yên Dũng - Tháng 02/ 2000.
Tổng cục địa chính (2001), Phương pháp luận cơ bản về quy hoạch sử dụng đất đai ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Chương trình hợp tác Việt Nam - Thuỵ Điển về đổi mới hệ thống địa chính, Hà Nội.
Đỗ Thị Tám (2001), Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
Viện điều tra quy hoạch (1996), Hội nghị tập huấn công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Tổng cục địc chính tại Đà Nẵng, từ ngày 22-26/10/1996.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Yên Dũng lần thứ XII tháng 12/ 2000.
BiÓu 1. hiÖn tr¹ng sö dông ®Êt n¨m 2007
HuyÖn yªn dòng - tØnh b¾c giang
Thø tù
ChØ tiªu
M·
DiÖn tÝch (ha)
C¬ cÊu (%)
DiÖn tÝch ph©n theo ®¬n vÞ hµnh chÝnh cÊp x·
ThÞ trÊn Neo
X· L·o Hé
X· T©n Mü
X· H¬ng Gi¸n
X· T©n An
ThÞ trÊn T©n D©n
X· Quỳnh S¬n
X· T©n TiÕn
X· Đồng Sơn
X· Song Khª
X· Néi Hoµng
X· TiÒn Phong
X· Xu©n Phó
X· T©n LiÔu
X· TrÝ Yªn
X· L·ng S¬n
X· Yªn L
X· TiÕn Dòng
X· Nham S¬n
X· §øc Giang
X· C¶nh Thôy
X· T M¹i
X· Th¾ng C¬ng
X· §ång ViÖt
X· §ång Phóc
Tæng diÖn tÝch tù nhiªn
21377.68
100.00
585.4
355.07
743.3
863.67
457.18
465.17
810.38
794.38
817.3
448.82
766.88
968.01
863.35
1028.4
1084.9
870.11
2000.54
905.69
1056.5
1010.8
632.63
1156.4
517.53
926.23
1249
1
§Êt n«ng nghiÖp
NNP
13220.28
62.01
432.78
190.39
517.85
520.18
314.52
329.52
480.46
513.45
507.65
273.34
535.27
679.36
480.24
735.21
616.85
494.57
1266.03
607.86
745.68
492.43
456.17
717.51
196.5
438.34
678.12
1.1
§Êt s¶n xuÊt n«ng nghiÖp
SXN
10317.37
78.04
145.5
154.99
477.85
511.65
299.03
309.63
374.86
449.86
382.43
253.96
348.23
418.91
468.24
282.43
550.75
434.92
720.93
538.5
419.1
482.04
420.35
658.92
190.22
391.93
632.14
1.1.1
§Êt trång c©y hµng n¨m
CHN
9988.79
96.82
138.21
154.99
477.85
504.85
290.92
303.66
374.86
449.51
358.43
252.54
340.25
319.71
468.24
234.31
543.89
429.95
660.43
531.09
400.14
478.44
415.35
654.74
189.92
391.93
624.58
1.1.1.1
§Êt trång lóa
LUA
9763.75
97.75
138.21
148.28
469.6
501.27
281.41
294.13
357.26
401.95
350.26
252.54
333.01
319.71
464.94
226.98
523.89
429.95
659.5
531.09
391.49
475.13
407.65
631.23
185.54
364.15
624.58
1.1.1.2
§Êt cá dïng vµo ch¨n nu«i
COC
41.36
0.41
0.93
1
20.1
4.38
14.95
1.1.1.3
§Êt trång c©y hµng n¨m kh¸c
HNK
183.68
1.84
6.71
8.25
3.58
9.51
9.53
17.6
47.56
8.17
7.24
3.3
7.33
20
8.65
3.31
6.7
3.41
12.83
1.1.2
§Êt trång c©y l©u n¨m
CLN
328.58
3.18
7.29
6.8
8.11
5.97
0.35
24
1.42
7.98
99.2
48.12
6.86
4.97
60.5
7.41
18.96
3.6
5
4.18
0.3
7.56
1.2
§Êt l©m nghiÖp
LNP
2138.53
16.18
282.5
18.56
72.8
96
172.62
257.65
290.49
66.1
54.83
460.52
28.53
325.78
12.15
1.2.1
§Êt rõng s¶n xuÊt
RSX
1598.38
74.74
18.56
72.8
96
172.62
290.49
66.1
54.83
460.52
28.53
325.78
12.15
1.2.2
§Êt rõng phßng hé
RPH
540.15
25.26
282.5
257.65
1.2.3
§Êt rõng ®Æc dông
RDD
0
0
1.3
§Êt nu«i trång thuû s¶n
NTS
764.38
5.78
4.78
16.84
40
8.53
15.49
19.89
32.8
63.59
29.22
19.38
14.42
2.8
12
162.29
4.82
84.58
40.83
0.8
10.39
23.67
58.59
6.28
46.41
45.98
1.4
§Êt lµm muèi
LMU
0
1.5
§Êt n«ng nghiÖp kh¸c
NKH
0
2
§Êt phi n«ng nghiÖp
PNN
7695.91
36.00
151.72
148.38
225.45
325.07
137.36
127.69
275.2
280.93
308.78
175.48
190.57
273.28
383.11
288.91
386.66
320.01
679.24
289.54
282.28
518.34
171.07
433.1
315.66
461.77
546.31
2.1
§Êt ë
OTC
1968.67
25.58
58.16
81.38
93.14
101.17
81.44
74.08
142.38
75.57
53.7
43.39
90.88
54.41
107.59
56
55.07
107.72
143.01
82.5
49.93
76.87
68.2
87.43
21.37
82.88
80.4
2.1.1
§Êt ë t¹i n«ng th«n
ONT
1836.43
93.28
81.38
93.14
101.17
81.44
142.38
75.57
53.7
43.39
90.88
54.41
107.59
56
55.07
107.72
143.01
82.5
49.93
76.87
68.2
87.43
21.37
82.88
80.4
2.1.2
§Êt ë t¹i ®« thÞ
ODT
132.24
6.72
58.16
74.08
2.2
§Êt chuyªn dïng
CDG
3740.67
48.61
81.1
38.16
114.57
169.24
49.41
45.86
95.54
144.75
138.65
108.42
91.9
161.71
193.54
94.24
213.29
152.79
276.9
131.17
176.04
291.58
94.11
232.49
231.1
161.18
252.93
2.2.1
§Êt trô së c¬ quan, c«ng tr×nh sù nghiÖp
CTS
18.7
0.50
5.24
0.1
0.06
0.19
1.13
1.23
0.39
0.1
0.14
0.27
0.35
0.28
1.23
1
0.24
2.43
1.93
0.38
0.15
0.19
0.2
0.42
0.55
0.5
2.2.2
§Êt quèc phßng, an ninh
CQA
73.42
1.96
4.88
1
4
7.39
0.7
0.06
13.82
0.48
37.09
4
2.2.3
§Êt s¶n xuÊt, kinh doanh phi n«ng nghiÖp
CSK
343.34
9.18
3.01
4.43
13.43
4.78
6.04
2.3
6.3
7.19
23.12
65.65
50.31
2.48
14.32
15.41
47.57
3.28
4.72
12.41
7.87
8.92
22.6
17.2
2.2.4
§Êt cã môc ®Ých c«ng céng
CCC
3342.21
89.35
67.97
32.63
97.08
164.27
40.89
39.82
92.01
137.36
131.36
85.16
62.98
110.99
176.96
93.01
197.97
137.14
226.42
125.96
133.85
279.02
93.92
224.42
221.76
134.03
235.23
2.3
§Êt t«n gi¸o, tÝn ngìng
TTN
43.72
0.57
0.39
0.63
2.89
5.41
1.56
2.1
4.58
0.73
2.44
0.51
0.9
1.57
1.24
0.43
5.74
2.84
2.13
1.85
1.75
1.13
1.15
0.15
0.1
1
0.5
2.4
§Êt nghÜa trang, nghÜa ®Þa
NTD
190.22
2.47
3.57
3
4.85
9.88
4.95
5.65
7.78
8.61
3.93
1.85
1.49
8.37
10.46
4.02
12.96
5.63
16.2
8.94
9.02
11.38
5.89
13.24
2.91
16.44
9.2
2.5
§Êt s«ng suèi vµ mÆt níc chuyªn dïng
SMN
1750.34
22.74
8.5
25.21
10
39.37
24.92
51.12
110.06
21.31
5.4
47.22
70.28
134.22
99.6
51.03
241
65.08
45.54
137.38
99.37
60.18
200.27
203.28
2.6
§Êt phi n«ng nghiÖp kh¸c
PNK
2.29
0.03
0.15
1.72
0.42
3
§Êt cha sö dông
CSD
424.49
1.99
0.9
16.3
18.42
5.3
7.96
54.72
0.87
4.04
15.37
4.3
81.4
55.53
55.27
8.29
28.56
5.39
5.79
5.37
26.12
24.59
3.1
§Êt b»ng cha sö dông
BCS
338.82
79.82
16.3
18.42
4.67
7.96
49.72
0.87
3.8
2.3
61.91
55.53
55.27
3.27
0.06
1.39
5.79
5.37
24.1
22.09
3.2
§Êt ®åi nói cha sö dông
DCS
85.67
20.18
0.9
0.63
5
4.04
11.57
2
19.49
5.02
28.5
4
2.02
2.5
3.3
Nói ®¸ kh«ng cã rõng c©y
NCS
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL008.doc