BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Thu Hồng
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Phan Thị Thu Hồng
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN HỮU TÁ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn, tôi
luôn nhận được
172 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm tiểu thuyết, truyện ngắn của Nguyễn Xuân Văn giai đoạn 1954 - 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự giúp đỡ tận tình quý báu của các thầy cô giáo, bạn
bè và gia đình. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến:
- PGS.TSKH. Trần Hữu Tá, người hướng dẫn khoa học đã tận
tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Tp. HCM, Phòng
Khoa học Công nghệ & Sau Đại học, Khoa Ngữ văn, quý Thầy Cô
giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
- Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè
thân hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi học tập, nghiên
cứu để hoàn thành luận văn này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2008
Tác giả luận văn
Phan Thị Thu Hồng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: NGUYỄN VĂN XUÂN VỚI VÙNG ĐẤT VÀ CON
NGƯỜI QUẢNG NAM; VỚI VĂN HỌC ĐÔ THỊ
MIỀN NAM 1954 - 1975
1.1.Vùng đất Quảng Nam và con người Quảng Nam ...............................................11
1.1.1. Vùng đất Quảng Nam ..............................................................................11
1.1.2. Con người Quảng Nam............................................................................18
1.2. Nhà văn xứ Quảng Nguyễn Văn Xuân với văn học đô thị miền Nam
1954 - 1975.........................................................................................................24
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử xã hội ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 ................24
1.2.2. Sáng tác của một trong những nhà văn tiêu biểu cho văn học yêu
nước đô thị miền Nam .............................................................................28
1.2.3. Nguyễn Văn Xuân - nhà văn của vùng đất và con người Quảng
Nam .........................................................................................................30
Chương 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHỦ YẾU CỦA NGUYỄN
VĂN XUÂN QUA TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN
NGẮN GIAI ĐOẠN 1954 – 1975
2.1.Cảm hứng khám phá vùng đất xứ Quảng............................................................37
2.1.1. Một thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội........................................................39
2.1.2. Vùng đất của những cuộc đụng độ quyết liệt trong lịch sử dựng
và giữ nước của dân tộc ...........................................................................46
2.1.3. Vùng đất của sự tiếp biến văn hoá...........................................................50
2.2.Cảm hứng ca ngợi tính cách, phẩm chất con người xứ Quảng ...........................58
2.2.1. Những con người cần cù, dũng cảm kiếm sống, sinh tồn trên
vùng quê nghèo khó.................................................................................59
2.2.2. Những con người yêu nước nồng nàn có ý thức trách nhiệm với
Tổ quốc ....................................................................................................66
2.2.3. Những con người cứng cỏi, ngang tàng, bộc trực thẳng thắn .................84
2.2.4. Những con người có tính tình cởi mở, nhạy bén với cái mới..................94
2.2.5. Những con người nhân hậu, đa cảm đa tình ............................................99
2.3.Cảm hứng tố cáo phê phán................................................................................110
2.3.1. Tố cáo tội ác về chính trị của thực dân Pháp và tay sai.........................110
2.3.2. Lên án ách áp bức bóc lột của bọn thực dân, giai cấp tư sản ................113
2.3.3. Lên án thủ đoạn xâm lăng văn hoá của đế quốc Mỹ .............................116
Chương 3: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT
3.1.Tiểu thuyết đậm chất hiện thực.........................................................................119
3.1.1. Nội dung phản ánh.................................................................................119
3.1.2. Miêu tả nhân vật, xây dựng chi tiết .......................................................122
3.2.Truyện ngắn giàu chất kí...................................................................................125
3.2.1. Nhân vật và sự kiện có thật trong lịch sử ..............................................126
3.2.2. Đề tài - cốt truyện ..................................................................................133
3.3.Kết cấu độc đáo.................................................................................................134
3.3.1. Cốt truyện giàu kịch tính .......................................................................135
3.3.2. Tình huống truyện đặc biệt ....................................................................135
3.3.3. Kết thúc bất ngờ đầy yếu tố lạc quan ....................................................136
3.4.Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ...........................................................................139
3.4.1. Sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày.........................139
3.4.2. Việc vận dụng phương ngôn trong sáng tác của Nguyễn văn
Xuân…...................................................................................................143
3.4.3. Vận dụng thành ngữ...............................................................................148
KẾT LUẬN ..........................................................................................................154
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................159
PHỤ LỤC..............................................................................................................164
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nói đến văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 là nói đến một bộ
phận văn học ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp hết sức gay gắt. Trong đó, văn học yêu nước cách mạng nổi bật như một
khuynh hướng ngược dòng. Văn học yêu nước cách mạng đã tập hợp nhiều lực
lượng viết khác nhau. Một số văn nghệ sĩ từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở
miền Nam: Lý Văn Sâm, Nguyễn Trọng Tuyển, Lê Vĩnh Hòa, Thiếu Sơn, Dương
Tử Giang, Vũ Hạnh, Sơn Nam…. Có sự góp mặt một số cây bút là những nhà hoạt
động tôn giáo: Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ..…
Tinh thần dân tộc còn qui tụ một số ngòi bút trước nay tưởng như chỉ chuyên tâm
đến văn chương, học thuật như Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, .… Trong sự
qui tụ lực lượng đặc sắc này, Nguyễn Văn Xuân thuộc nhóm thứ ba. Ông đã góp
những trang viết độc đáo về cuộc sống chiến đấu, lao động sinh tồn của nhân dân
đất Quảng.
Nguyễn Văn Xuân vừa là nhà văn, nhà báo vừa là nhà nghiên cứu giảng dạy
lịch sử, biên khảo và cũng là một soạn giả tuồng có tiếng trên văn đàn Sài Gòn - Đà
Nẵng từ những năm 1940. Vốn được sinh ra từ “miền xương xẩu của đất nước Việt
Nam” (chữ dùng của Nguyễn Văn Xuân), được mọi người xưng tụng một cách trìu
mến: “nhà Quảng Nam học”, “một con người từ một ngôi làng”, Nguyễn Văn Xuân
rất am hiểu về quê hương Quảng Nam, từ lịch sử hình thành, con người Quảng Nam
trong đấu tranh chống xâm lược đến quá trình lao động sinh tồn trên vùng đất “cày
lên sỏi đá”. Từ những hiểu biết ấy, những trang viết của ông đã đem lại trong lòng
người đọc ấn tượng sâu sắc về truyền thống đấu tranh, truyền thống văn hóa, tính
cách con người vùng đất “phên giậu” của Tổ quốc. Được chắt lọc từ “sỏi đá”,
“xương xẩu”, từ sóng gió của biển, bí ẩn của rừng….. những trang viết của Nguyễn
Văn Xuân giản dị, mực thước mà đậm đà chất Quảng.
Cuộc đời và những trang viết của Nguyễn Văn Xuân dường như rất ít lần
vượt khỏi phạm vi “Quảng Nam quốc”. Đối với ông, mỗi nhà văn phải thể hiện kiến
văn sâu sắc trên trang viết của mình. Bằng cách đó, nhà văn không cần đi xa, đi
nhiều, chỉ viết về quê hương chôn nhau cắt rốn của mình, cũng có thể đủ làm nên
tên tuổi. Điều kỳ lạ là Nguyễn Văn Xuân chỉ viết về một vùng, một miền nhưng tầm
vóc của những sáng tác ấy đã vượt khỏi phạm vi hạn hẹp sinh ra nó, vươn tới những
vấn đề lớn lao, cao cả, đầy chất nhân văn ở mỗi con người, trên khắp mọi miền Tổ
quốc. Đó chính là sức mạnh của văn chương mà không phải ngòi bút sáng tác nào
cũng có thể làm được.
Nhưng như một nghịch lý, một trớ trêu hay trò đùa của tạo hóa đối với những
bậc chân tài, tên tuổi của nhà văn dường như ít được nhắc đến. Tác phẩm văn
chương của ông cũng không có tiếng vang như lẽ ra nó phải có. Có thể vì tầm kiến
thức uyên bác trên các lãnh vực lịch sử, xã hội, dân tộc, trong các công trình biên
khảo.… nên ông thường được nhìn nhận ở một góc độ nhà nghiên cứu lịch sử, nhà
“Quảng Nam học” hơn là một nhà văn. Mặt khác, cuộc đời lặng lẽ làm việc cật lực
để nuôi sống một gia đình nhiều bất hạnh khiến nhà văn không có điều kiện quảng
bá sáng tác của mình.
Tuy không sinh ra và lớn lên trên quê hương Quảng Nam, nhưng lịch sử hình
thành đất Quảng và cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc đã thôi thúc tôi đọc, tìm hiểu
những sáng tác của Nguyễn Văn Xuân. Việc làm đó như hành trình tìm về cội
nguồn văn hóa của dân tộc và thể hiện lòng trân trọng biết ơn của những người ở
thế hệ sau đối với những bậc Tiền hiền có công khai phá, mở rộng, giữ gìn bờ cõi
đất nước ta liền một dãy từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau. Việc làm này còn thể
hiện sự kính trọng đối với một nhà văn lão thành, một nhà giáo tâm huyết, một nhà
nghiên cứu uyên bác.
Đó là lý do mà sau những ngày đọc những tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân,
đặc biệt là mảng tiểu thuyết và truyện ngắn, tôi muốn đi sâu nghiên cứu những giá
trị tiềm ẩn, để khẳng định sự đóng góp của ông đối với văn học nước nhà. Mặt khác,
nếu được, tôi xem đây như là những nén tâm hương mà một hậu bối như tôi trân
trọng thắp lên trước hương hồn của Người và nói rằng: “Ông đã sống một cuộc đời
đáng sống!”.
2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu
Văn chương của Nguyễn Văn Xuân thực sự là một mảnh đất còn đang bỏ ngỏ.
Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu trọn vẹn về văn chương của ông. Do
thời gian có hạn, luận văn chỉ tập trung vào việc tìm hiểu, nhằm rút ra những đặc
điểm chủ yếu của tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân giai đoạn 1954
- 1975 trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân phần lớn được sáng tác
trong giai đoạn 1954 - 1975. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan, chúng tôi chỉ tiếp
cận được hệ thống tác phẩm của ông tập hợp trong Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân
gồm một tiểu thuyết và 17 truyện ngắn (do nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm
2001), ngoài ra còn có hai truyện ngắn trong giai đọan thử bút: Ngày giỗ cha, Ngày
cuối năm trên đảo sáng tác trước 1945, được in trong Tổng tập văn học Việt Nam,
Tập 33, xuất bản năm 2000.
3. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Văn Xuân là một nhà văn được nhiều người biết đến trong giai đoạn
văn học 1954 - 1975. Có thể nói đây là “thời kỳ bùng nổ thành hiện tượng vang dội
trên văn đàn” của nhà văn với nhiều tác phẩm và công trình biên khảo có giá trị.
Trong Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33, ông có hai truyện ngắn được tuyển
chọn. Người ta còn giới thiệu Nguyễn Văn Xuân với truyện ngắn Tiếng đồng được
xếp vào 43 truyện ngắn hay trong tuyển Văn học miền Trung thế kỷ XX, xuất bản
năm 1988. Cũng trong năm 1988, Địa chí Văn hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, một
công trình lớn, có giá trị, do Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ biên ( Nhà xuất
bản Thành Phố Hồ Chí Minh), được xuất bản. Sách đã dành một chương để nói về
“Văn học yêu nước công khai ở Sài Gòn trong ba mươi năm cách mạng và kháng
chiến” do các tác giả Tầm Vu, Nguyên Thanh, Viễn Phương, Hồ Sĩ Hiệp, Trần Hữu
Tá đồng biên soạn. Nguyễn Văn Xuân được nhắc đến như một nhà văn tiêu biểu
cùng với các cây bút yêu nước, những trí thức, những nghệ sĩ cao niên như Trần
Tuấn Khải, Nguyễn Hiến Lê; các nhà thơ Hà Kiều, Phương Đài, Phong Sơn; các
nhà văn Võ Hồng, Phan Du, Sơn Nam…
Đến năm 2000, quyển Nhìn lại một chặng đường văn học ra đời do giáo sư
Trần Hữu Tá nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn (NXB Thành Phố Hồ Chí Minh).
Trong thế so sánh với nhà văn Sơn Nam - tác giả của những tác phẩm sinh động về
vùng đất cực nam của Tổ Quốc - Nguyễn Văn Xuân được giới thiệu là một nhà văn
“gắn bó chặt chẽ với vùng quê Quảng Nam thân thương của ông. Với sự hiểu biết
sâu sắc về sử học, dân tộc học, xã hội học, ông đã làm sống lại những sự kiện vang
dội mà đau xót cũng như đã khắc họa sự thành công hình ảnh những con người ưu
tú của đất Quảng” [49, tr.102]. Và giáo sư cũng đánh giá Nguyễn Văn Xuân là một
nhà văn có phong cách đặc biệt với “cái nhìn lịch sử của tác giả khá độc đáo”, với
“giọng kể của Nguyễn Văn Xuân cũng đa dạng” và “cảm quan lịch sử đúng đắn”,
“chi tiết nghệ thuật khác cũng rất đáng chú ý”…. [49, tr.102 - 104]. Có thể nói giáo
sư đã thâu tóm một cách khái quát, cô đọng đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong
sáng tác của Nguyễn Văn Xuân. Trong tổng số 1089 trang sách, giáo sư đã dành
hẳn 3 trang để viết về Nguyễn Văn Xuân. Có thể xem đây là tài liệu có dung lượng
lớn nhất từ trước đến nay đề cập đến nhà văn, đủ thấy sự đánh giá trân trọng của
giáo sư dành cho ông, một cây bút tiêu biểu góp phần làm nên diện mạo của khuynh
hướng văn học yêu nước cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 .
Năm 2001, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức hội thảo: “Văn hóa Quảng Nam”. Kết
quả của cuộc hội thảo này là sự ra đời tập Kỉ yếu về Quảng Nam với tên gọi Văn
hóa Quảng Nam – những giá trị đặc trưng (Sở văn hóa thông tin Quảng Nam xuất
bản). Trong số 56 bài tham luận, tên tuổi của Nguyễn Văn Xuân được giới thiệu qua
hai bài viết với tư cách là nhà nghiên cứu về văn hóa Quảng Nam: Những người
Quảng Nam đóng góp cho Thăng Long, Bắc Thành - Hà Nội trước 1945 và bài
Người Quảng Nam với sự phát triển các ngành nghề ở miền Nam.
Cũng trong năm 2001, nhân dịp mừng thượng thọ 80 tuổi của nhà văn, nhằm
ngày nhà giáo 20/11 mở đầu thiên niên kỷ mới, nhà xuất bản Đà Nẵng đã tập hợp
các tác phẩm văn chương của Nguyễn Văn Xuân sáng tác giai đoạn 1954 - 1975 vào
Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân. Và nhà văn Đà Linh, ủy viên thường vụ Hội liên hiệp
văn học nghệ thuật thành phố Đà Nẵng đã giới thiệu về những đóng góp của
Nguyễn Văn Xuân. Ông nhận xét: “Trên lãnh vực nào, từ bài báo, câu chuyện nhỏ,
đến công trình lớn chúng ta đều thấy rõ dấu ấn tài năng tâm huyết thuở nào bởi vẫn
còn đó những phát hiện, nét sáng tạo độc đáo, vẫn còn đó sự thông tuệ. Trên hết là
tấm lòng và nhân cách người cầm bút” [63, tr.11].
Năm 2004 trong Từ điển văn học (bộ mới), Bùi Thị Thiên Thai đã giới thiệu
Nguyễn Văn Xuân như trả lại cho ông chỗ đứng xứng đáng với những gì mà ông đã
đóng góp (bộ Từ điển văn học cũ không giới thiệu về Nguyễn Văn Xuân). Tác giả
đã nhận xét: “Hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Văn Xuân đều thể hiện một vốn
kiến văn sâu rộng, một giọng văn giản dị hồn hậu, đậm đặc chất Quảng Nam, và
đặc biệt, một tấm lòng yêu thương tha thiết đối với quê hương Quảng Nam”
[18, tr.127].
Đặc biệt những bài viết về Nguyễn Văn Xuân đồng loạt ra đời như những nén
tâm hương mà những người yêu mến ông thắp lên tưởng nhớ vong linh nhà văn sau
ngày 4/7/2007. Có thể kể đến những bài viết tiêu biểu trên các nhật báo Thanh niên,
Tuổi trẻ….. của các nhà văn, nhà sử học, nhà báo: Đặng Tiến, Dương Trung Quốc,
Nguyễn Quí Đại, Thanh Thảo, Trần Trung Sáng, Trần Tuấn, Thái Bá Lợi, Trương
Điện Thắng… Nhìn chung, tất cả các bài viết đều giới thiệu về những đóng góp của
Nguyễn Văn Xuân trên nhiều lĩnh vực: văn học, lịch sử, tuồng hát, nghiên cứu biên
khảo…. Và qua đây, các tác giả cho người đọc hiểu hơn về con người của nhà văn
cũng như cuộc đời lao động cần mẫn để thỏa mãn việc: “nghiện đọc, nghiện học và
viết”, để nuôi sống cả một gia đình kém may mắn. Trong dịp này, các tác giả đã
điểm qua những sáng tác tiêu biểu trong cuộc đời cầm bút của Nguyễn Văn Xuân:
từ Bão rừng, Hương máu đến Khi những lưu dân trở lại, Phong trào Duy Tân. Tác
giả Trần Tuấn viết về Bão rừng như sau: “tiểu thuyết đầu tay viết năm 1957, khi
nhà văn tham gia kháng chiến và vừa thoát khỏi nhà lao Thừa Phủ (Huế) kể về cuộc
sống cơ cực ở một đồn điền thời Pháp thuộc mà tác giả từng sống, và cũng là ít ỏi
những tiểu thuyết đầu tiên viết về đời sống phu phen ở các đồn điền Tây Nguyên”
[73]. Còn Hương máu (1969) là “Tập truyện đặc sắc toàn bộ dành viết về những cái
chết lẫm liệt của những anh hùng ưu hạng của đất Quảng” [73]. Phong trào Duy
Tân được tác giả “coi là cuốn sách đầy đủ và thấu đáo nhất về một phong trào có
ảnh hưởng sâu sắc tới những cuộc cách mạng sau này” [73].
Có thể nói Trần Tuấn đã giới thiệu hầu hết các sáng tác làm nên tên tuổi của
Nguyễn Văn Xuân cũng như trình bày một cách ngắn gọn tâm điểm của mỗi sáng
tác. Có những bài viết giới thiệu sáng tác mới nhất và cũng là cuối cùng của nhà văn
một cách khá công phu như bài Nhà văn Nguyễn Văn Xuân: một mảnh đất, một đời
người của Trần Trung Sáng. Tác giả viết:
Vài năm gần đây, tên tuổi của nhà văn Nguyễn Văn Xuân được bàn luận,
nhắc đến với tác phẩm mới nhất của ông “Kỳ nữ họ Tống”. Đây là một đề tài được
ông ấp ủ, xây dựng khá lâu, dựa theo câu chuyện về một người đàn bà có thật trong
lịch sử xứ Đàng trong, đã có một thời làm đảo điên cả triều đại Chúa Nguyễn, suýt
xóa bỏ cả tên triều đại này trong lịch sử Việt Nam ngay những thập niên đầu của
thế kỷ17. Hiếm thấy người đàn bà nào lại có cuộc đời sóng gió, ghi dấu ấn sâu sắc,
rùng rợn, tác động mãnh liệt đến xã hội, chính trị, quân sự, đạo đức như vậy. Bà
Chúa Chè làm điên đảo cơ nghiệp Trịnh Sâm ghê gớm là thế, cũng chỉ là bóng mờ
bên cạnh Tống Thị. Đặng Thị Huệ chỉ tác động được chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
Còn Tống Thị thật sự chủ động, tích cực trong việc hại dân, tích lũy thành phú gia
địch quốc, thay ngôi chúa bằng những hành động táo bạo [69].
Và dường như đây là thời điểm các học giả có dịp nhìn lại để ngạc nhiên và
thán phục sức làm việc dẻo dai, tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ý chí tự
học để đạt đến độ thâm viễn, một phẩm chất làm người trong sáng, ngay thẳng của
Nguyễn Văn Xuân. Nhà nghiên cứu Trần Tuấn cho rằng: Công việc lao động nghệ
thuật nghiêm túc, sáng tạo trong cuộc đời của Nguyễn Văn Xuân như một thứ
“thuốc nghiện” “Nghiện đọc và nghiện học (phần lớn tự học) đã giúp ông trở thành
một nhà giáo đáng kính với nhiều thế hệ học trò tên tuổi, rồi thành một nhà nghiên
cứu tiếng tăm ở miền Nam trước và sau giải phóng[…] Nghiện “Viết” đã giúp ông
trở thành một nhà văn có giọng văn riêng đặc sắc qua hàng loạt truyện ngắn, tiểu
thuyết”[73].
Còn Thanh Thảo với bài Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Văn Xuân thì nhận định:
Nếu con người có hai lỗ tai để nghe, thì Nguyễn Văn Xuân có một lỗ tai của
nhà văn và một lỗ tai của nhà sử học. Cả hai đều tinh tường, tinh tế, đều rất “biết
nghe”. Biết nghe và biết lọc. Biết lọc và biết chế tác. Như người thợ đúc đồng quê
ông biết chế tác những chiếc chiêng mà tiếng ngân u trầm của chúng như còn đọng
mãi trong những vòm cây ngọn suối [71].
Bài viết của Nguyễn Quí Đại đã trích dẫn hồi ký của nhà văn Nguyễn Hiến
Lê nhận xét về Nguyễn Văn Xuân: “ông Nguyễn Văn Xuân quê ở Quảng Nam, lần
đầu tiên gặp ông, thấy ông phảng phất có vài nét của cụ Phan Sào Nam. Ông viết
nhiều truyện dài, truyện ngắn…. ông có tinh thần quốc gia, khảo về phong trào Duy
Tân ở Trung có một số tập truyện về nhà Nho, kháng Pháp”[65].
Các bài viết tưởng nhớ về Nguyễn Văn Xuân không những thống nhất trong
cách đánh giá tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc của ông mà còn có cùng
quan điểm khi nhận xét về con người của nhà văn. Khi nói về những “góc tối” trong
cuộc đời Nguyễn Văn Xuân, Thái Bá Lợi đã viết:
Người ta nói ông là người ít có hạnh phúc trên đường đời, nhưng tôi lại nghĩ
khác. Người hạnh phúc là người nói được điều mình muốn nói, làm được điều mình
muốn làm [….] Một bậc hiền triết từng nói con người từ hư không đến rồi trở về hư
không. Thì ông cũng đã trở về hư không rồi đó sao? Nhưng sẽ có lúc nào đó, trên
con đường gập ghềnh nầy, trong một tình huống trắc trở, ta sẽ gặp lại ông trong
những di sản mà ông để lại; rồi từ đó, ta sẽ tìm ra cái riêng cho mình để chống chọi
với hoàn cảnh mà ông đã từng chống chọi [67].
Đối với những góc tối của riêng mình, Nguyễn Văn Xuân chẳng những đã
dũng cảm vượt qua mà ông còn không bao giờ lấy đó làm điều bi quan, yếm thế cho
cuộc đời, cho ngòi bút. Ông luôn “có lối nói chuyện vừa minh triết, lại vừa hóm
hỉnh trẻ trung như cái tên của ông vậy. Đời ông nhiều nước mắt, nhưng lại luôn
đem đến cho người xung quanh nụ cười” [73]. Tinh thần lạc quan vui sống khiến
nhà văn rất tâm đắc với câu thơ giục giã của Xuân Diệu:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em ơi em, tình non sắp già rồi”
Khi ngâm nga những câu thơ này, nhà văn cho rằng: “nó không chỉ có ý
nghĩa suông về tình yêu, mà nó còn phản ánh lên một sự nôn nóng đổi mới, cách tân
đất nước từ trào lưu thơ mới, nên nó vẫn luôn có giá trị bất cứ lúc nào”[69].
Còn Đặng Ngọc Khoa trong bài Nhà văn Nguyễn Văn Xuân về với quê nhà đã
viết về bài học “Làm người ngay thẳng” của Thầy Xuân qua tiết lộ của nhà điêu
khắc Phạm Văn Hạng - người có vinh dự tạo mô hình ngôi mộ cho nhà văn – “lúc
sinh thời nhà văn mong muốn khi qua đời, được an táng bên dưới ngôi mộ của Ông
Ích Khiêm trên đồi Phong Lệ Bắc, do ông mê câu nói nổi tiếng của danh tướng này:
Trên chó, dưới cũng chó. Bọn bay chỉ chấu đầu ăn, chẳng lo chi việc nước” [66].
Nhà văn sống ngay thẳng, công tâm như vậy, nhưng thật ra trái tim của ông rất độ
lượng, bao dung với người. “Trong con người nhà văn Nguyễn Văn Xuân dường
như không bao giờ có sự tị hiềm hay giận dỗi. Ông bao giờ cũng tìm thấy ở người
khác, ở con người nói chung – cái vẻ đẹp của tạo hóa, của nhân tính. Điều đó, ông
không nói ra, nhưng hễ ai gần ông chắc chắn đều thấy mồn một! Từ đây trong văn
giới xứ Quảng đã vắng mãi một tấm lòng, một tài năng, một phẩm giá không có gì
thay thế được” [69].
Có thể lấy chính lời bộc bạch của Nguyễn Văn Xuân khi nói về một trong
những tác phẩm của mình để thay lời tổng hợp các ý kiến đánh giá về sáng tác của
ông: “Cuốn sách nhằm giúp củng cố thêm cho các bạn trẻ ở phía Nam hiểu được dĩ
vãng đất đai của mình, củng cố niềm tin mà phát triển văn hóa văn nghệ. Người
Quảng Nam vẫn đóng góp không ngừng vào sự đăng cao của văn học miền
Nam”[68].
Nhìn chung, những tài liệu đã tiếp cận dù chưa phải là những công trình
nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện về Nguyễn Văn Xuân và sáng tác của ông, nhưng ít
ra cũng chạm đến những vấn đề mà luận văn đặt ra. Chúng tôi xin ghi nhận tất cả
những ý kiến trên và xem đó là những gợi ý quý báu để đi sâu vào việc tìm hiểu vấn
đề, từ đó rút ra những đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết và truyện ngắn Nguyễn Văn
Xuân trong giai đoạn 1954 - 1975.
4. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn tập trung tìm hiểu tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Văn Xuân
giai đoạn 1954 - 1975 để có một cái nhìn bao quát trên hai phương diện nội dung
và nghệ thuật.
- Hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị ngòi bút Nguyễn Văn Xuân, sự
đóng góp của ông đối với văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, đối với
nền văn học nước nhà , đặc biệt đối với văn hóa văn nghệ vùng đất Quảng Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Luận văn lấy quan điểm lịch sử và phương pháp luận biện chứng làm nền
tảng lý luận trong nhận thức và nghiên cứu.
5.2. Phối hợp giữa các phương pháp có tính công cụ, phát huy tối đa tác dụng
của chúng trong quá trình nghiên cứu để làm nổi bật vấn đề, cụ thể là:
5.2.1 Phương pháp lịch sử: Sử dụng phương pháp này, người viết có dụng ý
tìm hiểu những dấu ấn thời đại lưu lại trong tác phẩm, những yếu tố tạo nên nguồn
cảm hứng sáng tác của nhà văn để làm căn cứ đánh giá vấn đề.
5.2.2 Phương pháp hệ thống: người viết khảo sát tiểu thuyết và truyện ngắn
Nguyễn Văn Xuân trên tinh thần kết hợp các yếu tố tương đồng về nội dung, nghệ
thuật xây dựng nhân vật, kết cấu , ngôn ngữ… để rút ra nhận định, đánh giá
tác phẩm.
5.2.3 Phương pháp so sánh: Đặt nhà văn trong mối quan hệ đồng đại và lịch
đại để vấn đề được đánh giá khách quan hơn. Kết hợp so sánh tác phẩm của Nguyễn
Văn Xuân với các tác giả khác để đưa ra nhận định chính xác về ông.
Ngoài ra trong quá trình khảo sát chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân
tích - tổng hợp để làm sáng tỏ vấn đề.
6. Cấu trúc của luận văn.
Luận văn gồm các phần sau đây:
MỞ ĐẦU
Chương 1: Nguyễn Văn Xuân với vùng đất và con người Quảng Nam, với văn
học đô thị miền Nam 1954 – 1975
Chương 2: Những nguồn cảm hứng chính của Nguyễn Văn Xuân qua tiểu
thuyết và truyện ngắn 1954 – 1975
Chương 3: Những đặc điểm về nghệ thuật
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Chương 1: NGUYỄN VĂN XUÂN VỚI VÙNG ĐẤT VÀ CON
NGƯỜI QUẢNG NAM; VỚI VĂN HỌC ĐÔ THỊ
MIỀN NAM 1954 - 1975
1.1. Vùng đất Quảng Nam và con người Quảng Nam
1.1.1. Vùng đất Quảng Nam
1.1.1.1. Về tự nhiên địa lý
Đi dọc chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam, dù không cố tình ghi nhớ, nhưng
trên dặm đường thiên lý ấy ta bất chợt nghe một lần câu ca dao:
“Dậm chưn xuống đất kêu trời!
Chồng tôi vô Quảng biết đời nào ra”
Và câu ca dao ấy theo chúng ta như một ám ảnh khôn nguôi. Dãy đất miền
Trung, trong đó có Quảng Nam, từng được nhiều người ví von “như chiếc đòn gánh
gánh lấy hai miền đất nước” hay cụ thể và sát thực hơn có người gọi đó là vùng đất
“chó ăn đá, gà ăn muối”. Chỉ nghe những cách nói hình tượng, ẩn dụ ấy người nghe
hình dung về Quảng Nam là một vùng, miền có điều kiện tự nhiên địa lý vô cùng
đặc biệt.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, vùng đất Quảng Nam “Kéo dài từ núi Hải
Vân đến núi Đá Bia gồm 4 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, có
thể gọi Quảng Nam lớn theo nghĩa rộng. Còn Quảng Nam nhỏ, theo nghĩa hẹp,
được Nguyễn Ánh lập từ năm 1801 trên cơ sở phủ Điện Bàn và phủ Thăng Hoa, bao
gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam hiện nay” [16, tr.480]. Xét theo vị trí
địa lý cả Quảng Nam theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp đều nằm khoảng giữa của “chiếc
đòn gánh” Trung Bộ, một bên là núi non hiểm trở cao ngất, một bên là biển rộng
mênh mông với bờ biển dài 150 km. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng đã miêu tả
địa hình của Quảng Nam như sau:
Bờ biển chạy dài từ cực Bắc đến cực Nam. Sau lưng là dãy Trường Sơn sừng
sững án ngự cả biên giới Việt Lào, núi non trùng điệp. Phía trước biển cả, một dải
đất toàn là cát trắng mênh mông, bên trong là mấy mảnh đồng bằng bị thắt riết
vào, bao nhiêu là rừng khô và thung lũng…Trước mặt biển Đông bao la, sóng biển
dồn dập ngày đêm quanh Ngũ Hành Sơn, các cửa biển sâu thăm thẳm là nơi tàu bè
có thể cập bến bất cứ lúc nào [50, tr.24].
Với điều kiện tự nhiên như vậy, Quảng Nam có một thiên nhiên phong phú, đa
dạng. Đồng thời, nơi đây hội tụ nhiều thiên tai: bão lụt, hạn hán… Ở vùng đất này,
những hiện tượng tự nhiên gần như được đẩy lên đến cực điểm “mùa hè đến, ruộng
đồng, đất đai cũng nứt nẻ không kém phần ủ dột, tiêu điều” [50, tr.26].
Mặt khác, Quảng Nam vẫn có những đồng bằng tương đối phì nhiêu, những
vùng khoáng sản phong phú. Theo Lê Quý Đôn: “các núi ở phủ Thăng Bình đều có
sản xuất vàng….ở đảo Đại Chiêm có Yến, ở nguồn Thu Bồn có quế, huyện Diên
Phước có được thạch khối đường băng hoa, đường đen, đường mật…. ở nguồn Ô
Gia có sáp ong, tại nguồn Chiên Đàn có mật ong…. lại có danh mộc rất nhiều, hải
sản cũng lắm, đất đai phì nhiêu, dân cư trù mật” [43, tr.79]. Tuy nhiên, đồng bằng
được khai thác từ thời Chămpa với phương thức canh tác lạc hậu làm cho đất bạc
màu. Riêng các mỏ vàng xưa kia đã được người Chiêm Thành khai thác, sau đó là
người Việt, người Hoa, rồi người Pháp… chỉ trong bảy năm mà “chúa Nguyễn đã
thu được 5768 lạng vàng” [27, tr.20]. Vì vậy, nhìn chung điều kiện tự nhiên địa lý ở
vùng đất Quảng Nam xưa nay vẫn để lại trong lòng người một ấn tượng không lấy
gì làm tốt đẹp của vùng “Ô châu ác địa”. Tên núi, tên sông ở Quảng Nam gợi nhiều
khó khăn trắc trở: núi Chúa, núi Hiên, núi Giằng, đèo Le, đèo Giảm Thọ, rồi Tí, Sé,
Kẽm, Râm, Ri, Liêu….Còn sông thì như bao chặt, luồn lách trên mảnh đất chật hẹp
này: sông Thuỷ Tú, sông Cẩm Lệ, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Thu Bồn, sông
Vu Gia, sông Bà Rén, sông Trường Giang, sông Ly Ly, sông Tam Kỳ, sông Vĩnh
An, sông Cây Trâm, sông Bà Bầu, sông An Tân,.… Có thể nói không ngoa, Quảng
Nam là vùng đất hội tụ của núi và sông.
1.1.1.2. Lịch sử hình thành xứ Quảng Nam
Tên đất “Quảng Nam” chứa một ý nghĩa lịch sử trọng đại trong quá trình phát
triển lâu dài của dân tộc ta: “Quảng” có nghĩa là rộng rãi, mở rộng, “Nam” là
phương Nam, đối diện phương Bắc. Vậy Quảng Nam nghĩa là mở rộng về phương
Nam. Đó là “một sự lựa chọn có tính chiến lược, quyết định vận mệnh sống còn của
quốc gia Đại Việt vốn có vị trí địa lý đặc trưng, một bên là núi non hiểm trở, cao
ngất, một bên là biển rộng mênh mông, lại luôn chịu áp lực bành trướng mạnh mẽ
của một bên là láng giềng khổng lồ từ phương Bắc” [27, tr.14]. Nói đến xứ Quảng
người ta thường nghĩ đến Quảng Nam. Tuy trong khu vực này từng có “ngũ
Quảng”: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Hoá (Thừa Thiên ), Quảng Nam, Quảng
Ngãi, nhưng công cuộc mở rộng bờ cõi về phương Nam thật sự bắt đầu từ Quảng
Nam cho cả một hành trình dài đến tận Hà Tiên.
Ngược dòng thời gian, khi nói đến lịch sử hình thành xứ Quảng Nam ta không
thể không nhắc đến một vương quốc từng hiện hữu ở vùng này, có nền văn hoá phát
triển khá rực rỡ ảnh hưởng không ít đến đời sống văn hoá Quảng Nam. Xưa kia,
khoảng cuối thế kỷ II, người Chăm ở quận Tượng Lâm, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán
suy yếu (khoảng năm 192), đã nổi lên khởi nghĩa và giành thắng lợi, lập nên nhà
nước “Lâm Ấp” (có nghĩa là “xứ Rừng”) với vị vua Chăm đầu tiên là Xơri Mara. Và
quốc hiệu Chămpa đã xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI. Chămpa là tên của một
loài hoa (hoa sứ), nếu nói rút gọn thì thành “Chăm” biến âm l._.à “Chàm”. Âm Hán
Việt là “Chiêm Thành”, rút gọn là “Chiêm”…Giữa hai thời kỳ Lâm Ấp và Chămpa
sử sách Trung Hoa còn ghi một tên nữa gọi là “Hoàn Vương”. Người Việt còn dùng
một số tên khác như “Hời”, “Lồi” để gọi dân tộc này. Thời đó, vương quốc Chămpa
được chia thành 4 châu (vốn xưa kia là những tiểu quốc khác nhau) đó là Amaravâti
(tương ứng khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi mà Quảng Nam là trung tâm),
Vijaya (tương ứng với khu vực Bình Định, Phú Yên), Kauthara (tương ứng với khu
vực Khánh Hoà), Panduranga (tương ứng với khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận).
Vương quốc Chămpa tồn tại cho đến thế kỷ XVII, trải qua nhiều triều đại, ban đầu
đóng đô Sinhapura (Trà Kiệu, Quảng Nam), sau dời sang Indrapura (Đồng
Dương,Quảng Nam), rồi vào Vijushia và Sudra (Đồ Bàn, An Nhơn, Bình Định).
Theo sử sách đã ghi, từ năm 973, Lê Đại Hành đã mang quân đánh vào kinh
đô Indrapura, nhưng cuộc tiến quân này chỉ là một cuộc “thăm dò” chưa rõ ý định
mở mang bờ cõi. Sau khi tịch thu một số của cải, Lê Đại Hành đã rút quân. Đến
năm 1004, do Chiêm Thành không ngừng quấy nhiễu đất nước ta nên Lý Thái Tông
đã mang quân đánh Chiêm. Vua Lý tiến quân đến quốc đô Phật Thệ (nay thuộc
huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên ) bắt được 5000 người rồi rút quân về. Công
cuộc Nam tiến của người Việt chỉ thực sự diễn ra vào năm 1069, khi Lý Thánh
Tông cử binh bắt sống vua Chiêm Thành là Chế Củ, buộc dâng ba châu: Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chính (thuộc tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay) để “chuộc tội”.
Như vậy, trong tầm nhìn chiến lược của các vị vua từ đời Lê đến đời Lý đã thấy sự
tồn tại của Vương quốc Chămpa là một nguy cơ cho biên cương đất nước ở phía
Nam, cũng như nhìn thấy tiền đồ của Đại Việt nếu có thể mở rộng về phía Nam.Thế
nên, vào năm 1075, trước khi mang quân đánh Tống xâm lược, Lý Thường Kiệt đã
đánh Chiêm để giữ vững biên cương phía Nam. Trong cuộc hành binh này, Lý
Thường Kiệt đã vẽ được địa đồ ba châu mà Chế Củ đã dâng và ráo riết đưa người
vào định cư ở ba châu này. Như vậy, từ khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán năm
938, trải qua các triều đại nhà Ngô (939 - 965), nhà Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980
- 1009) và những thập niên đầu thời nhà Lý (1010 - 1225) lãnh thổ nước ta dừng lại
ở Châu Ái và Châu Hoan (Thanh Hoá, Nghệ An - Hà Tĩnh hiện nay). Nhưng từ năm
1069 mà rõ hơn là năm 1075, cương vực nước ta ở phía Nam kéo dài đến tỉnh
Quảng Trị.
Hơn 200 năm sau, vào năm 1306, người Việt đã thực hiện tiếp một bước quan
trọng trên con đường tràn xuống phía Nam bằng cuộc hôn nhân chính trị giữa
Huyền Trân công chúa và chúa Chiêm Thành là Chế Mân. Cuộc vân du của thượng
hoàng Trần Nhân Tông với lời hứa gả công chúa Huyền Trân đã giúp nhà Trần có
thêm hai châu của vua Chiêm Thành làm sính lễ: Châu Ô và Châu Rí. Năm 1307,
vua Trần Anh Tông đã nhận hai châu này và đổi thành Thuận Châu (Bắc Hải Vân
quan) và Hoá Châu (Nam Hải Vân quan ). Như vậy, biên giới Đại Việt không dừng
lại ở Quảng Trị mà kéo dài đến sông Thu Bồn.
Nhà Trần còn cử tướng Lê Quí Li đem quân vào cửa Thị Nại, tiến đánh Đồ
Bàn, kinh đô Chiêm Thành vào năm 1377 nhưng thất bại. Khi đó, Chế Bồng Nga đã
đánh nước ta đến kinh thành Thăng Long. Nhưng sau khi Chế Bồng Nga chết năm
1390, đất nước Chiêm Thành rối ren. Nhân cơ hội này, nhà Hồ (1400 - 1407), trước
đó đã chiếm ngôi nhà Trần, năm 1402, thương thảo với triều đình Chiêm Thành
nhượng “Chiêm Động” (Bắc Quảng Nam), “Cổ Lũy Động” (Nam Quảng Nam) cho
người Việt. Nhà Hồ đã chia Chiêm Động và Cổ Lũy Động thành bốn châu: Châu
Thăng, Châu Hoa (Quảng Nam hiện nay), Châu Tư và Châu Nghĩa (Quảng Ngãi
hiện nay). Nhà Hồ đã tổ chức ráo riết hơn trong việc đưa dân vào định cư ở vùng
đất mới, đến mức bắt người dân đến ở đâu phải chạm tên vùng đất ấy vào cánh tay
mình. Việc làm đó của triều nhà Hồ như một hoạt động cưỡng chế di dân quyết liệt.
Nhưng mặt khác, ta cũng thấy được một ý chí trụ bám dữ dội, chắc chắn, thể hiện
một nhu cầu khá bức bách về đất đai, về việc củng cố phía Nam của đất nước để đối
phó với phương Bắc. Đến đây, lịch sử đất nước ta vẫn chưa có danh xưng Quảng
Nam.
Khi nhà Hồ bị bại dưới tay nhà Minh thì 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đã bị
người Chiêm chiếm lại. Tháng 8 - 1470, vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đem
10 vạn quân thủy bộ cùng voi và ngựa chiến đánh úp Hoá Châu (Châu Rí của
Chiêm Thành ngày trước, Thừa Thiên - Huế ngày nay). Lúc này, ở nước ta là triều
Lê Thánh Tông. Trước hành động xâm lấn của Chiêm Thành, tháng 10 năm 1470,
vua Lê Thánh Tông chọn gần 26 vạn quân thủy bộ, truyền chiếu “bình Chiêm” nói
rõ cho nhân dân cả nước lý do Nam chinh: “…Trẫm thể lòng thượng đế, nối chí vua
cha. Giết kẻ thù chín đời theo nghĩa Xuân Thu, định mưu kế vạn toàn cho yên đất
nước” [43, tr.66]. Và trong lời tấu cáo ở Thái Miếu vào ngày mồng 7 tháng 11 âm
lịch, nhà vua cũng nói rõ: “Thần là kẻ ít tuổi bất tài, vào nối nghiệp lớn, chỉ mong
yên dân giữ nước, đâu dám dùng nhảm việc binh” [43, tr.67]. Với mưu trí, sách
lược và quyết tâm khôi phục lại vùng đất đã mất, vua Lê Thánh Tông đã đại thắng
quân Chiêm, bắt được vua Chiêm là Trà Toàn, nhiều văn quan võ tướng, phi tần và
hơn ba vạn người. Không phải ngẫu nhiên nhà nghiên cứu Lê Duy Anh trong bài
viết của mình đã đặt tiêu đề: Minh quân Lê Thánh Tông với sự khai sinh địa danh
Quảng Nam, và hầu hết các bài viết về lịch sử Quảng Nam đều nhấn mạnh vai trò
của vua Lê Thánh Tông với sự hình thành xứ Quảng. Với chiến thắng quân Chiêm,
ngày mồng 1 tháng 6 âm lịch Tân Mão, niên hiệu Hồng Đức nhị niên (1471) vua
xuống chiếu lấy dải đất từ Nam Hải Vân đến ngọn núi nằm chắn ngang từ đất liền
chạy ra tới biển sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, lập thành “Thừa Tuyên Quảng
Nam”. Địa danh Quảng Nam ra đời kể từ đấy, và trở thành đạo thứ 13 của nước ta
thời bấy giờ (12 đạo kia là: Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Yên Bang,
Ninh Sóc, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hoá).
Để làm mốc giới giữa hai nước Chiêm - Việt, vua đã chọn tảng đá cao lớn đứng
thẳng như một tấm bia khổng lồ, khắc công trạng quân ta vào đá và khắc rõ đây là
mốc giới nước ta. Núi ấy có tên là Thạch Bi mà dân gian quen gọi là núi Đá Bia. Và
nhân dân đã xây đền thờ vua nơi đó. Núi Đá Bia nằm giữa hai tỉnh Phú Yên và
Khánh Hoà ngày nay. Trong Quảng Nam đất nước và nhân vật, nhà nghiên cứu
Nguyễn Q. Thắng đã ghi: “Khu vực “Đạo Thừa Tuyên Quảng Nam” vào thế kỷ XV
bao gồm một vùng rộng lớn từ Nam Thuận Hoá vào sát núi Thạch Bi ở Phú Yên. Do
đó, cả khu vực từ rừng núi xuống đồng bằng và các hải đảo dọc theo lãnh thổ trên
đều thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam” [50, tr.34]. Như vậy, vua Lê Thánh Tông
đã mở rộng bờ cõi về phía Nam không dừng lại ở sông Thu Bồn mà kéo dài đến
Phú Yên.
Thừa Tuyên Quảng Nam lúc mới thành lập có ba phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và
Hoài Nhơn. Phần đất phía Bắc phủ Thăng Hoa sát đến đỉnh đèo Hải Vân, vua Lê lập
thành huyện Điện Bàn cho lệ thuộc vào dinh Quảng Nam. Năm 1609 và năm 1611,
người Chiêm nổi loạn, chúa Nguyễn Hoàng cho tướng đánh dẹp và chia Hoài Nhơn
làm 2 phủ: phần đất phía Bắc vẫn giữ nguyên địa danh Hoài Nhơn, phần đất phía
Nam lập thành phủ Phú Yên. Như vậy, nói về chiều dài lịch sử thì Phú Yên thuộc
phủ Hoài Nhơn của Thừa Tuyên Quảng Nam vào năm 1471. Nói về danh xưng phủ
Phú Yên thì đã có vào năm 1611, rồi đến năm 1832 đổi thành tỉnh Phú Yên. Còn
phủ Hoài Nhơn, năm 1604 đổi thành phủ Qui Nhơn vẫn thuộc dinh Quảng Nam.
Đến năm 1799, Nguyễn Phúc Ánh đổi là Bình Định. Năm 1832 là tỉnh Bình Định.
Như thế, Thừa Tuyên Quảng Nam là đất mẹ của bốn tỉnh: Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Dù đất Quảng Nam đã cải đổi từ Thừa Tuyên Quảng
Nam đến xứ Quảng Nam, đến trấn Quảng Nam và dinh Quảng Nam thì vẫn luôn tồn
tại địa danh Quảng Nam. Dù sau 1832, đất Quảng Nam chỉ còn ¼ của Thừa Tuyên
Quảng Nam thuở khai sinh (1471), cũng vẫn là địa danh Quảng Nam. Xác định như
vậy, đến năm 2008 này Quảng Nam tròn 538 tuổi.
Tuy qua nhiều lần đổi tên và sau này (1996) tách thành hai đơn vị hành chính
trực thuộc trung ương: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, nhưng xét về mặt
truyền thống, về con người thì công trình này vẫn xem xứ Quảng là một. Trong đó,
Quảng Nam là bàn đạp để bắt đầu hành trình mở cõi tận Hà Tiên.
Hành trình Nam tiến từ thời Lý Thánh Tông (1069) đến thời Nguyễn Hoàng
(1600) vào trấn Thuận Hoá, rồi thời các chúa Nguyễn đã thâu tóm toàn bộ đất
Chiêm Thành còn lại ở miền Trung (nước Chiêm mất hẳn 1697), và 6 tỉnh thuộc
Chân Lạp cũ (từ giữa thế kỷ XVIII) trở thành lãnh thổ của chúa Nguyễn. Từ đó hình
thành từ sông Gianh trở vào một quốc gia riêng gọi là Đàng Trong (khác Đàng
ngoài thuộc vua Lê, chúa Trịnh). Trong hành trình Nam tiến để mở rộng bờ cõi, ta
thấy có hai cuộc Nam tiến được xem là quyết định. Cuộc Nam tiến năm 1402, thời
Hồ Quý Ly, tìm đất mới để sinh sống, tạo chiều sâu thích hợp cho thế trận quốc
phòng. Và cuộc Nam tiến năm 1602 của Nguyễn Hoàng, thành lập dinh trấn Thanh
Chiêm, hình thành xứ Đàng Trong.
Như vậy, sự hình thành vùng đất Quảng Nam qua hai cuộc Nam tiến lớn đã cho
thấy yêu cầu bức thiết về kinh tế cũng như lịch sử của quốc gia Đại Việt lúc bấy
giờ. Chính vì yêu cầu bức thiết nên ý tưởng mở cõi được duy trì liên tục (từ giai
đoạn thuộc Minh) qua các triều đại. Nói một cách khác, hình thành Quảng Nam gắn
liền với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Sau một thời gian ổn định, vùng châu
thổ sông Hồng, sông Mã đất đã chật, người lại đông “đi tìm những vùng đất mới để
khai thác, làm ăn sinh sống, ngày càng trở thành yêu cầu khẩn thiết, không chỉ đối
với người lãnh đạo đất nước mà cả đối với những người nông dân chân lấm tay
bùn” [27, tr.62]. Hơn nữa, với tầm nhìn chiến lược của các vị vua ở một đất nước
phải luôn đối phó với những cuộc xâm lược của Trung Quốc: Tống, Nguyên,
Minh….thì việc tạo một hậu phương có chiều sâu ở phía Nam để bảo đảm vững
chắc thắng lợi của những cuộc kháng chiến chống xâm lược phương Bắc là cần
thiết. Điều đó, gần như trở thành một yêu cầu sống còn đối với Đại Việt.
1.1.2. Con người Quảng Nam
1.1.2.1. Thành phần cư dân Quảng Nam
Qua lịch sử hình thành Quảng Nam đầy phức tạp và biến động thì có thể lấy cột
mốc nào để xác định sự có mặt, định cư của dân Đại Việt trên vùng đất Quảng
Nam? Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, một học giả uy tín đồng thời cũng là một người
con của Quảng Nam đã khẳng định: “Danh xưng Quảng Nam xuất hiện trên bản đồ
nước ta vào năm 1471, nhưng cư dân Đại Việt tức cư dân Quảng Nam sau này thì
đã có mặt ở vùng đất này từ 1402, đến nay đã 600 năm” [16, tr.480]. Tiến sĩ Bùi
Thị Tân, giảng dạy khoa lịch sử Đại học Sư phạm Huế cũng nêu: “Quảng Nam
được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đầu thế kỷ XV, năm 1402 dưới thời Hồ. Quá
trình di dân Việt vào khai khẩn, dựng làng có tổ chức cũng bắt đầu từ đấy” [43,
tr.108]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng, cũng nêu cái mốc để xác định sự có mặt
của cư dân Đại Việt trên đất Quảng Nam: “Nhà Hồ hạ lệnh cho dân có của ở Nghệ
An, Thuận Hoá đem vợ con vào khai khẩn, dân ấy phải khắc hai chữ tên châu mình
trên cánh tay” [50, tr.30].
Như vậy, nói đến cư dân Quảng Nam là nói đến sự có mặt của người Việt sinh
cơ lập nghiệp trên vùng đất này kể từ năm 1402, đến nay đã là sáu thế kỷ. Trong sáu
thế kỷ đầy biến động, thử thách dữ dội liên tục giữa những cuộc nội chiến và chiến
tranh chống ngoại xâm, cư dân Quảng Nam làm cách nào để có thể vừa tồn tại vừa
phát triển qua bao hưng vong của các triều đại? Họ là ai mà có bản lĩnh vượt qua
những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên ở vùng “Ô Châu ác địa” lại có thể
đứng mũi chịu sào ở nơi được xem là “đất yết hầu của miền Thuận - Quảng”, vùng
tương tranh giữa các thế lực phong kiến trước đây và sau này, nơi mở đầu cho
những cuộc đụng đầu lịch sử của cả dân tộc với chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Các
nhà nghiên cứu về cư dân Quảng Nam đều cho rằng có những cuộc di dân từ nhiều
vùng đất khác đến Quảng Nam diễn ra liên tục suốt mấy thế kỷ. Từ đó hình thành
nên cộng đồng cư dân trên vùng đất này. Đại thể có những đợt di dân lớn: đợt di
dân theo cuộc viễn chinh của vua Lê Thánh Tông, đợt di dân từ Bắc vào khi
Nguyễn Hoàng trấn thủ xứ Thuận - Quảng, đợt di dân từ Quy Nhơn, từ miền Nam
ra dưới thời Nguyễn Huệ và thời kỳ đầu vương triều Nguyễn. Trong đó quy mô nhất
là cuộc di dân dưới triều nhà Lê, sau chiến thắng Trà Bàn mùa xuân 1471. Với
chính sách khẩn hoang và tổ chức giúp đỡ vật chất ban đầu, nhiều làng xã ở Quảng
Nam được hình thành vào thời gian này.
Ta có thể hình dung bức tranh cư dân Quảng Nam như sau: có cư dân bị cưỡng
chế di dân vào thời nhà Hồ, cư dân tình nguyện di dân thời Lê Thánh Tông, cư dân
di dân đến Quảng Nam như là sự lựa chọn duy nhất sống còn thời Nguyễn Hoàng.
Nếu căn cứ vào “lý do di dân” để xét thành phần cư dân của Quảng Nam thì có thể
xếp họ vào sáu loại: những tướng lĩnh tiên phong đi chinh phục vùng đất mới để cai
trị, khai phá; những tướng lĩnh không được triều đình yêu trọng, bị trù dập, được
đưa đến trấn giữ biên ải hiểm nguy; binh lính trấn giữ biên cương mới đã đưa gia
quyến sinh sống; nông dân nghèo thiếu ruộng, bị bần cùng hoá trong xã hội Bắc hà,
tìm cơ hội sinh sống ở vùng đất mới; những kẻ sống ngoài vòng pháp luật chạy vào
Nam tìm chỗ nương thân, làm lại cuộc đời. Ở thời chúa Nguyễn, có thêm tù binh bị
bắt trong chiến tranh Trịnh Nguyễn và những nông dân xứ Nghệ bị bắt vào Nam
trong lần quân Nguyễn vượt sông Gianh chiếm 7 huyện ở Nghệ An. Bên cạnh đó,
khi chiến tranh phong kiến Việt - Chăm kết thúc, quốc gia Chiêm Thành mất nhưng
người Chiêm vẫn còn. Và họ đã sống cộng cư với người Việt. Sự tồn tại của một số
người Việt mang họ Trà, họ Chế, họ Ma, họ Ông (họ Chiêm Thành) là bằng chứng
cụ thể về sự cộng cư ấy. Nhưng trên đây chưa phải là tất cả. Vào thời nhà Minh có
sự di cư của người Trung Hoa đến Hội An và Tam Kỳ, hình thành những làng Minh
Hương. Dưới thời Mạc Phủ Tokugwa, người Nhật đến buôn bán và định cư ở Hội
An. Trên mảnh đất của phía Tây Quảng Nam lại có người Man là tổ tiên của những
tộc ít người như Cơtu, Xơđăng, Gié, Triêng ở huyện Hiên, Phước Sơn, Trà My hiện
nay…
Như vậy, ngay từ khi mới thành lập, cư dân Quảng Nam là sự cộng cư trong
suốt quá trình mở nước với thành phần rất phức tạp. Ở đây, có sự kế thừa, giao lưu
tiếp nhận những di sản cộng đồng Chăm, sự tổng hợp của sắc thái các làng quê xứ
Bắc, Bắc Trung Bộ tạo nên làng mạc xứ Quảng. Có thể nói: “Đất Quảng quả là nơi
hội tụ, giao tiếp văn hoá Bắc – Nam” [43, tr.113].
1.1.2.2. Tính cách con người Quảng Nam
Tính cách con người là một trong các giá trị tinh thần do con người sáng tạo,
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội. Vì vậy tính cách của con người là một yếu tố văn hoá dân
tộc. Tính cách dân tộc là một cấu trúc tinh thần được định hình trong một quá trình
lịch sử rất lâu dài hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm, trên cơ sở những điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hoá nhất định, thay đổi rất chậm chạp trong sự
vận động và phát triển. “Tính cách là hệ thống những phẩm chất, đặc điểm tồn tại
khách quan, tất yếu, tạo thành một “hằng số”, một nếp gấp, một “đường mòn”, một
thiên hướng trong tư duy, trong cuộc sống, trong ứng xử, hoạt động của con người,
mà ta có thể bắt gặp ở số đông thành viên hoặc ở những nhân vật kiệt xuất của dân
tộc, trong cuộc sống hằng ngày cũng như qua những lựa chọn có tính chất lịch sử,
có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh của cả cộng đồng” [16, tr.591]. Nói đến
tính cách là nói đến những đặc điểm tâm lý ổn định trong cách xử sự của con người,
biểu hiện thái độ điển hình của con người đó trong những hoàn cảnh điển hình. Từ ý
nghĩa ấy chúng ta có thể suy ra tính cách của cư dân một vùng đất là tổng thể những
đặc điểm tâm lý mang tính bền vững trong cách cư xử của nhiều thế hệ nối tiếp
nhau, được biểu lộ thành những nét điển hình trong những hoàn cảnh điển hình.
Tính cách của con người Quảng Nam vừa là sự kế thừa phát triển tính cách chung
của cư dân Đại Việt vừa có những tính cách hình thành qua một quá trình sống, giao
lưu tiếp biến trên vùng đất Quảng. Dựa trên hoàn cảnh sống, giao lưu văn hoá với
các nước Đông Nam Á của người Việt, nhà nghiên cứu văn hóa Đào Duy Anh đã
tổng kết năm nét tiêu biểu trong tính cách người Việt: yêu chuộng hòa bình, an cư
lạc nghiệp; ăn ở để phúc đức cho con cháu về sau; lối sống trọng tình cảm; lấy gia
tộc làm cơ sở, đạo hiếu là đạo đức hàng đầu; quá khứ và hiện tại cùng hiện hữu
trong đời sống. Trong những đặc điểm chung của cư dân nông nghiệp thì tính cách
người Việt - Quảng Nam có những nét tiêu biểu gì? Trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi hoàn toàn nhất trí với những nhận xét của các học giả có uy tín viết về
tính cách con người Quảng Nam được tuyển đăng trong tập kỉ yếu: Văn hoá Quảng
Nam - những giá trị đặc trưng. Chúng tôi xin trình bày rõ hơn những yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình hình thành tính cách người xứ Quảng.
Tìm hiểu tính cách của con người Quảng Nam ta phải dựa trên những ảnh
hưởng của đặc điểm địa lý, lịch sử, môi trường tự nhiên, xã hội, truyền thống văn
hoá của vùng đất ấy. Đồng thời, ta phải tìm hiểu những tính cách được hình thành
trong quá trình rèn luyện của nhiều thế hệ tạo thành “khí chất” của con người.
Trong nhiều bài nghiên cứu về khí chất con người Quảng Nam, các học giả
thường dẫn lời của tác giả trong Đại Nam nhất thống chí: “Nam lực nông tang, nữ
tu tàm chức, sơn kỳ thuỷ tú, cố nhơn đa dĩnh tuệ, dị học chi tư, sĩ hữu ngạnh, trực
cảm ngôn chi khí nhiên thổ lực bạc nhi thủy thế cấp cố kỳ nhơn tuy trầm tịnh, thiếu
nhi bình tảo… duy thâm ư học vấn giả phương bất vi phong khí sở hựu…vãng lai
thổ đôn cổ nghị, đảo tạ xướng ca…thổ tích tục kiệm như chất diệc, địa khí chi sử
nhiên”[50, tr.27].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng đã giải nghĩa: “Đàn ông thì lo việc cày
ruộng, đàn bà chăm lo nuôi tằm dệt lụa. Núi sông hùng vĩ, nên con người tư chất
thông minh, kẻ sĩ có lòng trung trực, lời nói ngang nhiên thẳng thắn. Tuy thế, đất
thì rất xấu, sông nước thì chảy xiết, nên tính người hay nóng nảy, ít trầm tĩnh, chỉ
có những người học vấn uyên thâm mới không bị phong khí ràng buộc…việc qua lại
thường xuyên, tình giao kết như ngày xưa và đều đặn, liên lạc, cúng tế bằng xướng
ca…, đất thì xấu, phong tục tiết kiệm, nhưng thật thà chất phác, phong thổ tất cả
đều như thế” [50, tr.27].
Nói đến một xứ Quảng với thiên nhiên khắc nghiệt, nhà nghiên cứu Nguyên
Ngọc còn dẫn lời của linh mục Jean Claude Grillet từng sống ở đây vào đầu thế kỷ
XIX, khi viết thư về gia đình đã kể: “…. hổ là thứ người ta sợ nhất trong các loài
thú ở xứ này. Trong một quận ước rộng hai đến ba dặm, ở đây tôi có khoảng mười
hai đến mười ba nghìn giáo dân, tôi đã chứng kiến hơn một trăm người bị hổ ăn thịt
chỉ trong thời gian không đầy một năm rưỡi….” [27, tr.405]. Như vậy, ngay trong
sử sách từ xưa, các học giả đã nhìn nhận vùng đất này là nơi hội tụ của sông núi với
địa hình hiểm trở khiến cho cuộc sống con người gặp không ít khó khăn. Biển ở đây
là nơi hội tụ bão tố dữ dằn nhất. Sông Thu Bồn - Vu Gia là sông lớn nhất miền
Trung, sinh ra những cơn lũ có đỉnh lũ cao nhất ở nước ta. Một ít dải đồng bằng
nhỏ, hẹp dường như chìm khuất trong những cánh rừng phủ kín, mênh mông, dày
kịt và nhung nhúc hùm beo, rắn rít…Trong những điều kiện tự nhiên, địa lý như vậy
con người muốn tồn tại phải gồng mình lên chịu đựng, phải cày xới cật lực những
mảnh đất mà đá nhiều hơn đất để tìm lấy sự sinh tồn. Hơn nữa, phần lớn những cư
dân di dân đến Quảng Nam họ không còn đường để lựa chọn, chỉ có một cách là
bám trụ ở vùng đất khắc nghiệt này. Trước một thực tế như vậy, con người ở đây
hoặc đổ sụp xuống hoặc đứng vững lên và vượt qua. Cuộc sống đối với họ là sự
giành giật, chắt chiu từ thiên nhiên khắc nghiệt. Với họ, sống là không ngừng phấn
đấu, ngừng nghỉ sẽ đồng nghĩa với diệt vong. Từ đó đã hình thành tính cách đáng
quý của con người Quảng Nam: Cần cù lao động, ham học hỏi sáng tạo, cứng cỏi,
ngang tàng, bộc trực thẳng thắn.
Từ thời Quảng Nam mới thành lập đã được các chúa Nguyễn xem là “đất yết
hầu của miền Thuận - Quảng”. Cách nhìn đó xác lập cho Quảng Nam một vị trí
chiến lược đặc biệt. Từ tương tranh giữa các thế lực phong kiến đến hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lịch sử đã chọn Quảng Nam để thể hiện
tinh thần dân tộc chống thù trong giặc ngoài. Con người Quảng Nam đã nhận vinh
dự ấy và trưởng thành qua thử thách của lịch sử. Những anh hùng vô danh và hữu
danh trong số thành phần cộng cư phức tạp đã tự lực cánh sinh, anh dũng chiến đấu.
Một thực tế khắc nghiệt mà cũng đầy tự hào: “Trong suốt lịch sử của mình, từ khi
thành lập trong thời trung đại, cho đến thời hiện đại, xứ Quảng chưa bao giờ là hậu
phương. Trong tất cả các thời kỳ, đây luôn luôn là tiền tuyến, là nơi đối đầu trước
tiên mới mọi kẻ thù xâm lược, và lúc nào cũng đứng đầu sóng ngọn gió”
[27, tr.400].
Ra đi vì tìm đất để sinh tồn, nên hơn ai hết người Quảng Nam đã bám đất kiên
cường. Trước trọng trách lịch sử đã giao, họ đã tỏ rõ là những người yêu nước nồng
nàn ý thức trách nhiệm chính trị đối với Tổ quốc. Ý thức này mạnh mẽ, sâu bền
trong mọi thành phần cư dân của Quảng Nam qua các thời kỳ lịch sử. Khi Nguyễn
Trung Thành viết: “Không biết có nơi nào nữa trên trái đất, quyền làm người được
bảo vệ bằng nhiều máu đến như vậy không?” Máu thắm đượm rãnh cày ta gieo hạt,
máu thắm đượm mảnh sân con ta nô đùa ngày bé, máu thắm đượm những con
đường nơi đó mẹ ta lau nước mắt ngày tiễn ta ra đi…” (Trích: “Đường chúng ta đi”
- Nguyễn Trung Thành) cũng là lúc Quảng Nam đã ghi vào lịch sử tên biết bao
người con Quảng Nam đã đổ máu cho quê hương, đất nước: Trần Văn Dư, Nguyễn
Duy Hiệu, Phan Bá Phiến, Lê Tấn Toán, Trần Quý Cáp, Ông Ích Đường, Châu
Thượng Văn, Đỗ Đăng Tuyển, Phan Châu Trinh, Phan Thanh, Nguyễn Văn Trỗi,
.…Và biết bao những anh hùng vô danh của đất Quảng đã chiến đấu hy sinh không
chỉ vì đất Quảng.
Ngoài ra, với vị trí địa lý chiến lược nằm trên trục đường giao thông Bắc- Nam
và dựa vào dãy Trường Sơn hướng ra mặt biển Đông, có hệ thống sông Thu Bồn -
Vu Gia… thông ra biển qua cửa Đại, Cửa Hàn…. nên ở Quảng Nam đã hình thành
con đường chuyển tải, giao tiếp văn hoá Bắc - Nam, Tây - Đông; nối liền văn hoá
núi với văn hoá đồng bằng, biển; tạo thành nơi hội tụ, tiếp biến văn hoá trên nền
tảng của văn hoá bản địa… Từ đó, người Quảng Nam vừa có tính bảo thủ, cố chấp,
ghì giữ lại vừa cởi mở, nhạy bén cái mới. Ra đi từ xã hội Bắc hà thuần nông nghiệp,
nhưng người Quảng Nam đã thay đổi tư duy thuần nông cho phù hợp với điều kiện
sống mới. Quảng Nam xưa kia vốn là đất của vương quốc Chăm pa có một nền văn
hoá từng phát triển rực rỡ mà chứng tích của nó là khu tháp Chăm - Mỹ Sơn, Đồng
Dương, kinh đô Trà Kiệu…. Một cách nhanh chóng người Việt chẳng những cộng
cư mà còn học tập nền văn hoá rực rỡ của Chămpa để làm giàu cho văn hoá của
mình. Tất nhiên, có những “xung đột tất yếu” với cư dân Chămpa nhưng vượt lên
tất cả, người dân Đại Việt với tư tưởng khoan dung, nhân hòa, kế thừa văn hoá Đại
Việt, tiếp thu văn hoá Chămpa khai thác mọi tiềm năng của vùng đất mới, tạo dựng
một nền kinh tế nội sinh đầy sức sống cả về văn hoá và xã hội.
1.2. Nhà văn xứ Quảng Nguyễn Văn Xuân với văn học đô thị miền Nam
1954 - 1975
1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975
Trong luận văn này, chúng tôi không có tham vọng trình bày tình hình lịch sử xã
hội miền Nam giai đoạn 1954 - 1975. Trên cơ sở thống nhất các ý kiến của các tác
giả trong những tài liệu đã tiếp cận, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số điểm có
tính chất cơ bản, tác động đến tình hình văn hoá văn nghệ nói chung và văn học nói
riêng, làm cơ sở cho việc giải quyết vấn đề ở các chương sau.
1.2.1.1 Về chính trị
Sau hiệp định Giơnevơ 1954, Mỹ đã chính thức hất cẳng Pháp, độc chiếm miền
Nam Việt Nam, thực hành chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Mỹ đã dùng Ngô Đình Diệm làm con át chủ bài đàn áp nhân dân, chống phá cách
mạng. Sau 1954, đặc biệt năm 1959 nhân dân cả miền Nam như sống trong địa ngục
trần gian bởi những sắc lệnh đẫm máu của Ngô Đình Diệm: sắc lệnh số 6, số 13, số
49,.…Với đạo luật 10/59, máy chém được lê khắp miền Nam. Bên cạnh lực lượng
tay sai bản xứ, Mỹ đã tung vào miền Nam một hệ thống điệp viên, tình báo khắp
mọi nơi. Mỹ phải tốn nhiều công sức, tiền của cho chiến trường miền Nam vì mục
tiêu của chúng không chỉ là độc chiếm miền Nam. Vòi bạch tuộc của bọn chúng còn
muốn vươn xa hơn: tiêu diệt chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, dùng Việt Nam làm bàn
đạp xâm lấn khu vực Đông Nam Á. Muốn vậy, trước hết phải diệt cộng. Tất cả
những ai có tham gia kháng chiến trước 1954 đều bị Mỹ và chính quyền Sài Gòn
truy nã gắt gao. Tàn ác hơn, bọn chúng muốn nhổ tận gốc rễ những người hoạt động
cách mạng bằng cách bức hại gia đình họ, bắt vợ con họ phải vào “tố cộng”. Chúng
còn cướp ruộng đất của nông dân, đẩy họ gia nhập vào đội quân làm thuê làm mướn
nơi đầu đường, góc phố. Bằng cách đó, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cắt đứt nguồn
tiếp tế cho Cộng sản. Những ai có tư tưởng dân chủ, dân sinh, dân tộc; lên tiếng đòi
hiệp thương thống nhất đất nước đều trở thành phe phái của Cộng sản, đều bị bắn
giết tù đày không thương tiếc. Bên cạnh quốc sách chống cộng, chính quyền Sài
Gòn còn ra tay đàn áp các đảng phái đối lập: Bình Xuyên, Cao Đài - Hoà Hảo,
nhóm Đại Việt….Nói chung, ai chống đối Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì không
thể tồn tại. Để đáp ứng cuộc chiến tranh khốc liệt diễn ra trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, Mỹ đã biến thành thị miền Nam thành một trại lính khổng lồ: từ 16 ngàn quân
Mỹ những năm 1964 - 1965, đến đầu những năm 1970 lên đến 543 ngàn.
Tuy nhiên, những biện pháp sắt máu để xóa bỏ hiệp định Giơnevơ, chia cắt đất
nước của Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã vấp phải sức phản ứng ngày càng dữ dội
của nhân dân miền Nam. Trong những ngày tháng đầu của tình trạng Bắc Nam chia
cắt, các địa phương Miền Nam dấy lên phong trào đấu tranh đòi thi hành hiệp định
Giơnevơ, đòi dân sinh dân chủ, đòi bảo vệ sinh mạng tài sản của nhân dân. Đỉnh
điểm là phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre năm 1959, đã đốt cháy rụi “quốc sách ấp
chiến lược” của Mỹ.
Trong vùng đô thị, tình thế đấu tranh không kém phần hào hùng nhưng vô cùng
gian khổ. Những cuộc bãi công của công nhân, bãi thị của bà con tiểu thương,
những dịp xuống đường của đồng bào Phật tử, những cuộc tự thiêu của hoà thượng,
tu sĩ, sinh viên học sinh Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Nha Trang….Tình thế đấu tranh sôi
nổi ấy đã lay động và thức tỉnh đông đảo nhân dân thành thị miền Nam, trí thức, đặc
biệt là lớp trẻ. Sự xuất hiện của các tổ chức, phong trào tiến bộ: Ủy ban vận động
cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam, Ủy ban bảo vệ quyền lợi lao động….
chứng tỏ sự hưởng ứng đấu tranh chống Mỹ của những trí thức văn nghệ sĩ. Bằng
sự góp mặt trong những bản tin, tuần san, tạp chí, cơ quan ngôn luận của những tổ
chức trên, những người cầm bút đã trực tiếp tố cáo tội ác của Mỹ và chính quyền
Sài Gòn, động viên tinh thần yêu nước, sẵn sàng đấu tranh của nhân dân. Chính sự
góp mặt của lực lượng văn nghệ sĩ trong cuộc đấu tranh khốc liệt với đế quốc Mỹ đã
tạo nên một phần quan trọng của diện mạo văn học đô thị Miền Nam 1954 - 1975.
1.2.1.2. Về kinh tế
Chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ đã dùng sức mạnh to lớn về kinh tế
để hòng đánh nhanh thắng nhanh trong cuộc viễn chinh xâm lược ở miền Nam Việt
Nam. Mục đích chúng lũng đoạn kinh tế là để xâm lăng chính trị. Thế nên chính
sách kinh tế của Mỹ - chủ nghĩa thực dân mới - không tận dụng khai thác thuộc địa
mà tăng cường viện trợ hàng hoá. Mặt khác, chúng dùng sức mạnh của đồng đô la
để phân hoá các tầng lớp nhân dân, dùng miếng mồi vật chất mua chuộc, lôi kéo trí
thức văn nghệ sĩ. Tất cả sức mạnh kinh tế Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam là hòng
nhào nặn một xã hội thành thị miền Nam như chúng đã ảo tưởng vẽ ra. Trong xã hội
ấy, bao bọn ăn chơi phè phỡn, bám gót thực dân xâm lược trở thành triệu phú, tỉ
phú. Những kẻ khoác áo lính cộng hoà, sĩ quan biệt động sống cuộc đời vàng son,
vương giả. Tất nhiên, họ không hề hối hận khi quay mũi súng chĩa vào đồng bào
ruột thịt của mình. Bên cạnh đó, đường phố Sài Gòn ngày càng đông đảo những
người thường xuyên bán máu, bán thân xác, sống đói khát, chui rúc trong những
khu nhà ổ chuột….Đội quân trẻ em đường phố bán báo, đánh giày tưởng như kéo
dài vô tận. Một Sài Gòn của xa hoa tráng lệ “hòn ngọc Viễn Đông” do tiền của bọn
Mỹ sơn phết, vẽ vời. Một Sài Gòn xao xác tiếng rao đêm, tối tăm khàn hơi trong
tiếng ăn xin của bao hành khất….Chưa hết, đồng đô la của Mỹ còn tác động đến
những người cầm bút - một bộ phận đông đảo tạo nên diện mạo tinh thần của xã
hội. Một số khá đông những người cầm bút không tự kiềm chế nổi, đã hoang mang
chao đảo. Có những kẻ đã góp phần đầu độc tinh thần nhân dân bằng những tác
phẩm thấp hèn độc hại. Ngược lại, không ít người có ý thức về lương tri, nhân
phẩm, tinh thần dân tộc đã trăn trở nhiều trước hiện thực phức tạp, bi tráng. Với ý
thức, trách nhiệm của một công dân, bằng cách này hay cách khác, sớm hay muộn,
thận trọng hay quyết liệt, họ lần lượt nhập cuộc, góp tiếng nói của mình để tạo nên
tiếng nói đấu tranh cho độc lập dân tộc, làm nên bộ mặt tinh thần của văn học đô thị
miền Nam 1954 - 1975.
1.2.1.3. Về văn hoá
Không chỉ thống trị miền Nam bằng bạo lực quân sự, bằng viện trợ kinh tế, đế
quốc Mỹ rất có ý thức trong việc nô dịch nhân dân bằng con đường văn hoá văn
nghệ. Chính sách xâm lăng văn hoá của chúng được tiến hành có tổ chức chặt chẽ,
có đội ngũ đông đảo, có phương thức truyền bá hiện đại, phương tiện truyền bá sâu
rộng…nhằm mục đích biến “nhân dân vùng tạm chiếm ở miền Nam bị phản động ._.ị vú
vào một góc rồi huynh hoang như kẻ thắng trận, nâng cao cái thân thể mỏng teo
của chị lên mà quay luôn một vòng; miệng chị vú cũng phát ra đúng một vòng tiếng
kêu chí chóe.
Chúng tôi mở rộng cánh cửa bước vào. Lão nhìn chúng tôi chòng chọc như
thách đố. Anh bồi nói:
- Ma đầm !
- Pác - tia.
Lão có vẻ khoái chí, cóc cần. Anh bồi nhấn mạnh:
- Ma đầm rơ tua, mỏa pac lê
Lão ném chị vú, buông thỏng:
- Măng phú!
Lão “măng phú” cho đỡ bẽ mặt. Rồi lạnh lùng đi vào phòng ngủ.
Tất cả chúng tôi có mặt quả thật đối với lão chủ là con số không. Mà chính cái
bóng vang của mụ chủ đã làm lão bỏ chạy [63, tr.154-155].
Hay đoạn văn tả cảnh chạy đua với tử thần:
Cánh tay với bàn tay to lớn, đỏ kè của lão quản đã hai lần giơ cao rồi hạ
xuống đất khoan thai nổi bật trên nền trời xanh theo giọng hô dõng dạc:
- A vos marques
- Prêt
Rồi cánh tay lại giơ lên: Lần này nó không hạ thẳng xuống mà chém mạnh vẹt về
phía trước như cốt để ai cũng có thể hiểu là lệnh chạy:
- Partez!
….Hình như hắn không cần biết ai bị hắn bắn mà chỉ chú ý người không bị bắn, khi
chạy qua mặt hắn, Liễn đột nhiên nảy ra cái ý thốt lên thật lớn “Vive la France”
nhưng anh kịp giữ miệng. Thà chết chứ không làm thế” [63, tr.529].
Trong cách sử dụng ngôn ngữ tiếng Pháp của Nguyễn Văn Xuân ta thấy có sự
linh động, uyển chuyển của một ngòi bút có sự hiểu biết tường tận mà không khoe
khoang. Đoạn văn trong Bão rừng nói về lão Mẹc giở trò đồi bại với chị vú thì nhà
văn đã dùng tiếng Pháp ở dạng “bồi” của những người Việt học nói tiếng Pháp theo
cách nghe lõm và nhạy lại:
ma đàm rơ tua (bà về), Ma đầm (bà), mỏa pạc lê (tôi sẽ mách lại)
Cách sử dụng này làm tăng thêm tính hài hước của câu chuyện về lão chủ
người Pháp dê xồm. Còn trong đoạn văn miêu tả cuộc Chạy đua với tử thần thì nhà
văn tả những hành động và lời nói của tên quản Tây nên không cần pha tiếng bồi
mà là tiếng Pháp chính gốc: A vos marques, Prêt!, Partez….Và nhà văn không hề
chú giải về nghĩa của những từ ngữ này. Có thể vì tính thông dụng của từ ngữ, vì
tôn trọng sự hiểu biết của người đọc…và vì tác giả đã đặt những từ ngữ ấy vào một
ngữ cảnh nhất định mà chắc rằng người đọc sẽ hiểu.
Khi viết những truyện ngắn liên quan đến lịch sử của thời “Cần Vương”, nhà
văn đã dùng một số lượng lớn những từ Hán Việt trong lời kể, lời thoại của các
nhân vật. Nhờ vậy không khí của thời kỳ lịch sử đã qua, lời ăn tiếng nói của những
nhân vật xuất thân “cửa Khổng sân Trình” được tái hiện một cách sinh động. Đây là
đoạn văn kể về lời “hiểu dụ” quân sĩ của phó bảng Nguyễn Duy Hiệu, người lãnh
đạo Nghĩa Hội:
Vì càng kéo dài thì càng hao người tốn của, không còn lối thoát nào ngoài sự
tiêu diệt con người đến cuối cùng. Vậy cần bảo toàn sinh lực, ý chí của Hội để chờ
thời cơ thuận lợi sẽ hoạt động trở lại. Cuộc đấu tranh trường kỳ để thâu hồi độc lập
không cốt ở một đôi nơi, một đôi lúc mà cốt ở bất kỳ nơi nào, lúc nào “trong vĩnh
cữu, bằng vĩnh kiếp thực hiện theo một vĩnh đồ”. Vậy mỗi hội viên, quan lại, mỗi
viên chức, quân binh phải tự nhiệm cái trách vụ đi tìm những người đồng tư tưởng,
đồng chí khí kết giao với họ để hưng lại cái sự nghiệp cứu quốc gia đã bị dở lỡ, học
thêm cái phương pháp mới, rèn luyện khí cụ mới để công cuộc chiến đấu có hiệu
quả chắc chắn hơn trong thời buổi khoa học mới mẻ này [63, tr.261].
Như vậy, việc đa dạng hóa cách sử dụng từ ngữ trong sáng tác của Nguyễn Văn
Xuân là điều mà tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy khi tiếp cận với tác phẩm
của ông. Vấn đề là khi nào sử dụng từ ngữ địa phương, văn cảnh nào sử dụng từ
ngữ người Đê, ngữ cảnh nào dùng tiếng Pháp, từ Hán Việt…dường như đã có sự
cân nhắc kỹ càng, không tùy tiện. Cái tài của nhà văn là tuy đã có sự tính toán cân
nhắc nhưng mọi sự lại diễn ra hết sức tự nhiên như cuộc sống vốn như vậy. Nếu
ngôn ngữ là biểu hiện của văn hóa thì nhà văn không chỉ hiểu văn hóa mà còn hiểu
bề dày, chiều sâu của văn hóa. Và tự do bao giờ cũng thuộc về những người hiểu
biết.
3.4.3. Vận dụng thành ngữ
Thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ tồn tại trong lời ăn tiếng nói
hàng ngày của nhân dân. Những sáng tác của Nguyễn Văn Xuân viết về cuộc sống
thực của người dân Quảng Nam nên khi tìm hiểu về sáng tác của nhà văn chúng tôi
không thể không nói đến một lượng thành ngữ tương đối lớn trong một số tác phẩm
của ông. Một số nhà nghiên cứu về văn học đô thị miền Nam thường đề cập đến tài
năng sử dụng thành ngữ trong sáng tác của Sơn Nam, nhà văn cùng thời với
Nguyễn Văn Xuân. Nếu làm một so sánh nhỏ giữa hai tác phẩm của hai nhà văn, ta
thấy:
Tác giả Tên sách Số trang Số thành ngữ
Sơn Nam
Nguyễn Văn Xuân
Hương rừng Cà Mau 1
Bão rừng
263
233
32
30
(Bảng thống kê chi tiết xin đính kèm ở phần phụ lục)
Còn trong thế đối sánh với những sáng tác của chính Nguyễn Văn Xuân thì có
sự chênh lệch trong việc vận dụng những thành ngữ giữa tiểu thuyết và các truyện
ngắn. Số lượng thành ngữ được nhà văn sử dụng nhiều nhất trong tiểu thuyết Bão
rừng, còn lại các truyện ngắn chỉ sử dụng số lượng ít. Một phần có thể do số trang
của quyển tiểu thuyết này dày dặn hơn so với số trang của tất cả các truyện ngắn
còn lại. Nhưng điều quan trọng là ở Bão rừng tác giả tập trung viết về đời sống dân
phu ở một đồn điền cà phê. Ngôn ngữ trong tác phẩm là ngôn ngữ đời thường, tiết
tấu chậm, đều đặn như nhịp sống. Thế nên, khi đối thoại, các nhân vật trong Bão
rừng đã vận dụng những thành ngữ, những cách so sánh quen thuộc trong dân gian.
Nhờ vậy, câu chuyện trở nên sinh động, dễ hiểu. Còn các truyện ngắn trong hai tập
Hương máu và Dịch cát đều có tiết tấu nhanh, giàu kịch tính, lời trần thuật của tác
phẩm chiếm một số lượng nhiều hơn lời thoại của nhân vật. Với vai trò người kể
chuyện ở ngôi thứ ba, tác giả miêu tả, kể những điều mắt thấy tai nghe hoặc giả
tương tự như vậy.
Trong quá trình vận dụng thành ngữ, có khi Nguyễn Văn Xuân giữ nguyên
mẫu thành ngữ những cũng có khi ông sử dụng theo cách riêng. Những thành ngữ
được sử dụng nguyên mẫu như:“mèo đàng chó điếm”, “tích thiểu thành đa”, “ăn
chưa no, lo chưa tới”, “còn nước còn tát”. Còn các thành ngữ được sử dụng theo
cách riêng của nhà văn thì phần lớn là thêm vào các quan hệ từ cho rõ nghĩa hơn:
Chờ thì được, ước thì thấy (chờ được, ước thấy); Tốt mã nhưng rã đám ( tốt mã rã
đám); Phép vua còn thua lệ làng (Phép vua thua lệ làng ); Ở hiền thì gặp lành
(Ở hiền gặp lành ).
Việc thêm các quan hệ từ vào trong thành ngữ là thói quen khi nói chuyện của
người dân Quảng Nam (theo lối tách và ghép từ). Họ thường nhấn mạnh vào điều
mình đề cập để tác động trực tiếp đến người nghe.
Những thành ngữ, tục ngữ, kết hợp với lối nói ví von so sánh làm cho văn
phong của Nguyễn Văn Xuân giàu tính hình tượng, mang tính khái quát khá cao.
Khi tả về tiếng kêu kinh hoàng, sợ hãi của mụ La vì con voi điên, tác giả viết:
“mụ kêu e é như chính con voi đang hò hét” [63, tr.170].
Khi nói về bản chất gian ngoa, hiểm độc, tham lam của mụ La tác giả viết:
“thối tha hơn phân chó”[63, tr.42].
Khi nhân vật chị Sáu bị cơn sốt rét rừng, run cả giường chiếu thì nhà văn so
sánh: “Chiếc khăn giăng trên đó cứ như bị động kinh” [63, tr.187].
Để nói về việc đánh bạc của công nhân đồn điền như một việc tất nhiên, tác giả
viết: “ở đồn điền không đánh bạc giống như ở cửa quan không ăn hối lộ” [63,
tr.178].
Những thành ngữ, tục ngữ, lối nói ví von so sánh được Nguyễn Văn Xuân sử
dụng có mức độ, có chủ đích trong một số sáng tác cụ thể. Nhờ vậy nhà văn phát
huy được mặt tích cực của ngôn ngữ sinh hoạt đời thường trong tác phẩm của mình.
Điều đó làm cho tác phẩm của ông gần gũi, dễ hiểu đối với người đọc.
Đọc sáng tác của Nguyễn Văn Xuân ta thấy tuy dung lượng của mỗi truyện rất
ngắn nhưng không vì thế mà ý nghĩa của nó kém phần sâu sắc. Có được như vậy
một phần là do những đoạn văn trữ tình và những đoạn văn đầy tính triết lý tạo nên.
Đây là một đoạn tiêu biểu:
…Buổi sáng, tôi dậy sớm. Tôi lấy chiếc ghế nhỏ ra ngồi dưới gốc cây xơ ri. Mặt
trời chưa lên. Ánh sáng đầu tiên bôi một lớp hồng nhạt lấp lánh phía sau các khu
rừng. Chim chóc ríu ra ríu rít đủ thứ giọng. Trên những cây cổ thụ cao vút như
muốn vói trời, vài con chim đen, rất bé, từ ngọn sà xuống và thốt nhiên trở nên to
lớn lạ thường, đập cánh sàn sạt bay qua không gian.
Bỗng một tiếng mưa rào phát ra từ những đám mây xanh ngắt tiến nhanh như
vũ bão che khuất mặt trời mới lên. Đó là muôn vạn con chim xanh mỏ đỏ, thi nhau
bay biễu diễn với ánh sáng đầu tiên. Những tiếng kêu bí mật ban đêm tan biến.
Bóng tối trong lá cây rậm không còn tỏa ra màu đen ảm đạm, và lại biến thành
những nét chấm phá linh động: bóng râm thu ngắn và đậm nét tiếng chim ca [63,
tr.60].
Và đây là một đoạn tả trăng trong Dịch cát :
… Nhưng chị chưa phải là hoàn toàn tuyệt vọng. Vì trăng đã lên. Ở chân trời
trăng vùn vụt như một khối lửa lạnh lẽo, không có ánh sáng, phi nhanh vào không
gian. Khi nó dừng lại dưới một hình thù bé nhỏ hơn thì ánh sáng rực rỡ, tỏa ra làm
lung linh những ngọn sóng bạc đầu. Trăng chiếu qua những mảnh rách trên cửa,
trên phên, làm sáng cả gian nhà bé nhỏ của chị Sinh. Ánh sáng êm đềm kia còn đủ
sức gây một niềm nghị lực tiềm tàng nơi chị [63, tr.408].
Những đoạn văn tả cảnh trên là những đoạn thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ
của nhà văn với một tâm hồn nhạy bén, tinh tế trước những thay đổi của cuộc sống
chung quanh. Và trên hết là một tình yêu mãnh liệt đối với con người, đối với cuộc
đời.
Nhiều đoạn văn còn mang tính triết lý khá sâu sắc. Chẳng hạn đoạn văn nói về
những suy nghĩ của nhân vật Liễn trong đêm trước khi buộc phải Chạy đua với tử
thần:
…. Liễn nhìn ra bên ngoài, vẫn ánh sáng chập chờn lạnh ngắt của chiếc đèn bão
và tiếng guốc lạch cạch rời rạc của người lính. Tiếng guốc của người còn sống!
Tiếng guốc đó có những gì khác hẳn với những tiếng động trong cái phòng đầy
nghẹt những người sắp chết này? Không biết bây giờ là mấy giờ rồi? Liễn cố đứng
lên cho đỡ mỏi. Biết được mấy giờ là biết được bao nhiêu người còn sống? Mình
sống? Thì có gì là lạ. Cũng như bây giờ mình đang sống đây. Nào có gì là quí giá?
Hay có lẽ sự sống ở ngoài kia, ở trong ánh sáng, trong tiếng chim ca, trong tự do?
Tất cả những cái đó mình biết quá rồi. Có một lần Liễn ngồi trên thảm cỏ đẹp giữa
buổi chiều êm ái, với tiếng sáo diều và tiếng chuông chùa, nghĩa là tất cả những vẻ
đẹp, nên thơ như trong sách tả. Liễn nói thật to “mình là người sung sướng” rồi
lắng nghe sự sung sướng đi vào tâm hồn” [63, tr.517].
Có những đoạn văn được tác giả lý giải rất dài nhưng người đọc không thấy
nhàm chán vì nó có ý vị sâu xa, kiến giải độc đáo, tầm triết lý bao quát. Chẳng hạn
đoạn văn luận về sự khác nhau của dòng âm nhạc thính phòng với những nghệ sĩ
được đào tạo trường lớp cùng những nhạc cụ hoàn hảo so với dòng âm nhạc dân
gian với những người biểu diễn dân dã, dụng cụ đơn sơ:
…Anh Qúi cầm cái dùi thật lớn ban đầu dập vào cái nướm của chiêng. Âm thanh
dội lên, ngân vang… rồi cứ như thế. Quí đập lần lần xuống cả mặt chiêng. Trong
khi đó, anh Cảo đứng xoạc chân, lùi dần, tay thọc choãi vào trong hai cái túi áo,
lắng nghe như một nhà chân tu lắng nghe tiếng chuông chùa, như một tội nhân lắng
nghe tiếng sinh hoạt bên ngoài lao xá, như một kẻ đói lắng nghe tiếng rao hàng.
Hình như anh không chỉ nghe tiếng chiêng bên ngoài mà còn nghe vọng tiếng
chiêng trong tâm hồn anh. Đôi mắt của anh mang nặng một sắc màu rừng rú rất
khó tả mà đôi môi thì rung rung như đang muốn phát ra những âm thanh nào tương
ứng. Tự nhiên tôi muốn so sánh anh với một số nhạc sĩ mà tôi đã đọc tiểu sử của họ.
Tôi không hiểu tại sao có sự so sánh đó vì giữa hai nghề, tôi không nghĩ là đáng
được so sánh: một bên là nghệ thụât cao siêu của những nghệ sĩ tài hoa, xuất thân
ở các viện âm nhạc, gần như bay chập chờn trên những kinh đô ánh sáng; một bên
chỉ là anh thợ làm nhạc cụ bằng đồ đồng, phần lớn cho loại khách chưa có chút
kiến thức nào về nghệ thuật. Một loại thợ mà ngay dân ở sát làng tôi cũng chẳng ai
chú ý bao giờ! Trước mắt tôi bày ra cái cảnh huy hoàng của những khán giả tri
thức chen nhau đến các hí viện im lặng với vẻ sùng kính tôn giáo khi nghe một bản
nhạc cổ điển để thấy nổi bật lên cảnh những lái buôn nghèo khổ, băng núi băng
ngàn đi bán mấy nhạc cụ bằng đồng có khi không lấy được tiền mà phải đổi chác
một con trâu cổ, một mớ lâm sản, một bộ da cọp, sừng nai; rồi những người
Thượng đem vào một góc núi mịt mờ mà nhảy múa hò hét như điên cuồng! [63,
tr.476-477].
Tóm lại, chất hiện thực trong tiểu thuyết, chất ký trong truyện ngắn của
Nguyễn Văn Xuân được tô đậm nhờ kết cấu độc đáo, cách thức xây dựng nhân vật,
sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày đậm chất khẩu ngữ, thành ngữ, phương
ngôn… đã làm nên phong cách sáng tác của Nguyễn Văn Xuân. Cách kể và dẫn dắt
truyện sinh động, ngôi kể linh hoạt…Tất cả những yếu tố nghệ thuật trên trở thành
phương tiện để nhà văn bộc lộ trực tiếp cái nhìn của mình đối với cuộc sống, thể
hiện những tâm tư tình cảm của mình đối với những con người rất đỗi gần gũi thân
thương ở vùng đất “đầu sóng ngọn gió”, những người bình thường mà rất đổi phi
thường qua những trang văn của Nguyễn Văn Xuân.
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Văn Xuân là một trong những nhà văn sáng tác không nhiều nhưng
mỗi trang viết của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc về vùng đất và
con người xứ Quảng. Tuy số lượng tác phẩm có hạn nhưng giai đoạn văn học nào
cũng có sự góp mặt của ngòi bút Nguyễn Văn Xuân. Trước 1954, Nguyễn Văn
Xuân đã được biết đến với tác phẩm đầu tay Ánh sáng và bóng tối (đạt giải thưởng);
hai truyện ngắn Ngày giỗ cha và Ngày cuối năm trên đảo được tuyển đăng trong
Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 33. Tiểu thuyết và truyện ngắn giai đoạn 1954 -
1975: Bão rừng; Hương máu; Dịch cát…. một lần nữa khẳng định sự thành công
của ông trong lĩnh vực sáng tác văn học.
Cuộc sống và con người đất Quảng qua diễn trình lịch sử của dân tộc chính là
nguồn cảm hứng dồi dào và mãnh liệt trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Văn
Xuân. Tuy ông ít vượt khỏi biên giới “Quảng Nam quốc”, cũng không có sự đột phá
về đề tài sáng tác, nhưng những sáng tác văn học của ông có cái duyên ngầm của
người biết khai phá “cày xới” trên vùng đất có người canh tác. Hai đề tài bao trùm
toàn bộ sáng tác của Nguyễn Văn Xuân là cuộc sống chiến đấu bảo vệ đất nước và
lao động sinh tồn của con người xứ Quảng. Cái tài của các nhà văn là đưa người đọc
đi qua một tiểu thuyết và gần 20 truyện ngắn thuộc hai đề tài trên nhưng người đọc
không gặp sự nhàm chán, đơn điệu….Chính điều đó giúp người đọc nhận ra tài
năng và tấm lòng yêu quê hương đất nước của một nhà văn xứ Quảng. Nguyễn Văn
Xuân sống và viết trong những ngày miền Nam sống dưới gót giày xâm lược của
Mỹ Diệm và ngay trên vùng đất “đầu sóng ngọn gió” của Tổ quốc trong những trận
đối đầu lịch sử. Thế nên, thông qua những sáng tác văn học của mình, nhà văn đã
truyền đến bạn đọc đương thời, các thế hệ mai sau tình cảm thiêng liêng đối với Tổ
quốc, đồng bào. Nhà văn đã không dùng “đao to búa lớn”, không dùng sự hoành
tráng của số lượng mà chủ yếu cần cái “tinh túy” của chất lượng. Chính vì thế, sáng
tác của ông vừa đứng được trên văn đàn công khai ở Sài Gòn, Hà Nội….lúc bấy giờ
vừa tác động sâu xa đến sự thức tỉnh ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc trong tình
cảm của người đọc. Tên tuổi của Nguyễn Văn Xuân được sánh ngang hàng với Sơn
Nam, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa… trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1954 - 1975 như một sự thừa nhận những đóng góp đích thực của ông đối
với sự phát triển của văn học nước nhà.
2. Sống và viết ngay trên vùng đất Quảng trong những ngày ác liệt của chiến
tranh, giai đoạn nào của sự chuyển biến lịch sử xã hội, ngòi bút của Nguyễn Văn
Xuân đều ghi nhận, phản ánh: kháng chiến chống Pháp, hiệp định Giơnevơ, đế quốc
Mỹ xâm lược….Để những nội dung sáng tác trên xuất hiện ở văn đàn công khai,
nhà văn đã khéo léo tận dụng lợi thế của văn học vượt qua sự kiểm duyệt gắt gao
của chính quyền Sài Gòn, chuyển tải được những thông điệp cần thiết đến người
đọc. Có thể thấy, đọc những sáng tác của Nguyễn Văn Xuân là đọc lịch sử đấu
tranh, trưởng thành, đi tới của một vùng đất. Ngoài ra, đọc sáng tác của Nguyễn
Văn Xuân chúng ta hiểu được quá trình lao động sinh tồn của cư dân đất Quảng.
Cuộc sống lên rừng xuống biển của những người phải chịu cảnh tha phương cầu
thực, bão lũ triền miên, bệnh dịch hoành hành. Những trang viết ngồn ngộn chất
hiện thực mang đến cho người đọc những rung động sâu xa, vốn tri thức phong phú
về thiên nhiên và cuộc sống của con người vùng “Ô Châu ác địa”.
3.Nguyễn Văn Xuân là “nhà văn của một ngôi làng” là “một con người từ một
ngôi làng”. Chính vì thế, hơn ai hết, nhà văn hiểu rõ những con người từ những
“ngôi làng” ấy và đã dựng lên bức chân dung về họ. Họ là những con người cần cù
lao động, can trường dũng cảm kiếm sống sinh tồn trên vùng quê nghèo khó. Sinh
tồn đối với những cư dân đất Quảng không chỉ là sống cho bản thân mà còn sống
cho, sống vì cộng đồng, Tổ quốc. Qua những trang viết của Nguyễn Văn Xuân,
chúng ta còn thấy hiển hiện những con người đất Quảng yêu nước nồng nàn, ý thức
trách nhiệm chính trị của những người ở vùng đất “phên giậu” đã ngấm sâu vào
máu thịt họ. Họ chẳng những tạo dựng nên những ngôi làng mà ý chí chiến đấu bảo
vệ làng mạc, cộng đồng, Tổ quốc đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong
dòng chảy chung của mạch ngầm tình yêu Tổ quốc. Lao động và chiến đấu đã trui
rèn tính cách, khí chất của người xứ Quảng: cứng cỏi ngang tàng; cởi mở, nhạy bén
với cái mới; nhân hậu, đa cảm, đa tình… Nguyễn Văn Xuân đã ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của con người xứ Quảng song hành với cảm hứng tố cáo phê phán. Bộ
mặt thật của thực dân, đế quốc xâm lược, bản chất gian xảo, hám lợi của tư sản, địa
chủ… tất cả đều bị phanh phui dưới ngòi bút của ông. Dù ca ngợi hay phê phán, tố
cáo, ngòi bút của nhà văn đều vươn tới tầm khái quát những vấn đề có ý nghĩa xã
hội nhân sinh sâu sắc. Từ một ngôi làng vươn tới cả cộng đồng; từ sự hiểu biết về
cộng đồng soi rọi phẩm chất, lối sống của những con người ở một vùng đất. Đó
chính là điểm độc đáo trong sáng tác của Nguyễn Văn Xuân, người được xưng tụng
là một nhà “Quảng Nam học”.
4.Về phương diện nghệ thuật chúng ta có thể thấy Nguyễn Văn Xuân đã cho
người đọc tiếp cận với lối văn giản dị mà mực thước, thâm trầm. Từ nhân vật đến sự
kiện, từ không gian đến thời gian, từ ngôn ngữ đến tình tiết…tất cả đều toát lên tính
hiện thực của tác phẩm. Hiện thực, cụ thể mà không vụn vặt, nhàm chán, đơn điệu;
tầm khái quát làm cho những chi tiết về hiện thực trở nên sinh động và mang trong
nó tính hàm súc cần thiết của văn chương.
Chất hiện thực đã khiến cho sáng tác của Nguyễn Văn Xuân khi viết về những
cái chết của người đất Quảng mang đậm tính chất của ký - lịch sử. Nhà văn như một
thư ký ghi chép trung thành những biến động lịch sử xã hội ở một vùng đất, nơi mà
ông đã may mắn sớm được thụ hưởng những mạch nguồn giá trị lịch sử - văn hóa
truyền thống của một vùng địa linh nhân kiệt.
Văn của Nguyễn Văn Xuân mang đậm bản sắc của vùng đất Quảng, từ phong
cảnh thiên nhiên đến tính cách con người. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ địa
phương một cách có ý thức. Ông đã đưa vào sáng tác của mình cảnh núi rừng âm u,
tiếng sóng biển gầm thét, dòng xoáy bão lũ cuồn cuộn… của một vùng thiên nhiên
khắc nghiệt. Đặc biệt là những địa danh như gắn liền với cuộc đời của nhà văn từ
lúc ông được sinh ra đến khi cầm bút sáng tác. Chất giọng xứ Quảng trong sáng tác
của nhà văn không làm người đọc khó hiểu mà chỉ góp phần tô đậm thêm khí chất
con người Quảng Nam. Chất triết lý đã làm nên vẻ thâm trầm sâu sắc của một ngòi
bút có nhiều trãi nghiệm.
5. Nắng, gió, bão, lũ, rừng âm u ….cùng với thời gian của vùng đất mở cõi đã
kết tinh thành độ bền của sáng tác Nguyễn Văn Xuân. Không ồn ào như những sự
kiện vang dội mà thầm lặng, bền bỉ, giản dị như chính cuộc đời của nhà văn, những
sáng tác của ông đã trãi qua sàng lọc thời gian để người đọc nhận chân giá trị của
nó. Nhắc đến những tên tuổi làm nên diện mạo văn học Việt Nam 1954 - 1975
không thể không nhắc đến Nguyễn Văn Xuân.…Đôi khi người ta “lướt”qua ông và
những sáng tác của ông như lướt qua sự tồn tại hiển nhiên của một lớp trầm tích, mà
không có nó sẽ không hình thành nên những địa tầng kiến trúc phía trên. Bão rừng,
Hương máu, Dịch cát không trở thành những “kì thư” nhưng vinh dự của nó là vinh
dự của những tác phẩm chứa trong lòng văn hóa của vùng đất mở cõi. Có thể nói
không ngoa rằng sẽ không hiểu biết đất nước con người Việt Nam nếu không hiểu
vùng đất và con người xứ Quảng. Bởi nơi ấy chính là điểm giao nhau giữa những gì
thuộc về truyền thống đã hình thành trong lòng xã hội Bắc hà với những gì thuộc về
sự chắt lọc thích ứng trong môi trường mới. Cội nguồn và vươn tới là tất cả những
gì có thể nói về sáng tác của Nguyễn Văn Xuân.
Ngày nay, trong giai đoạn hội nhập, giao lưu với kinh tế, văn hóa toàn cầu,
hơn bao giờ hết chúng ta cần phải giữ gìn cội nguồn, bản sắc văn hóa của dân tộc.
Đó cũng là chủ trương lớn của Đảng và nhân dân ta. Trên tinh thần ấy, những sáng
tác của Nguyễn Văn Xuân càng có ý nghĩa hơn.
Tìm hiểu về đặc điểm tiểu thuyết và truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn
Xuân giai đoạn 1954 - 1975, chúng tôi đã đi vào một vùng đất “chưa được khai
phá”. Với việc làm ấy, chúng tôi chỉ mong muốn được khẳng định giá trị tiếng nói
yêu nước của Nguyễn Văn Xuân trong dòng văn học đô thị miền Nam giai đoạn
1954 - 1975. Đồng thời, nếu được, chúng tôi xem công trình này như một nén tâm
hương mà những người hậu bối thắp lên trước hương hồn ông để kính cẩn nói rằng:
“ông đã sống một cuộc đời đáng sống!”
Kiến thức nông cạn, thời gian hạn hẹp, nhưng với một tấm lòng, chúng tôi hi
vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu sự nghiệp văn chương của
Nguyễn Văn Xuân, một trong những cây bút tiêu biểu của văn học đô thị miền
Nam, của văn hóa xứ Quảng giai đoạn 1954 - 1975.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc Gia,
Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (Sưu tầm và biên soạn) (2002), Lê Thanh - nghiên cứu và
phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
4. Trần Hòa Bình - Lê Duy - Văn Giá (1999), Bình văn, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
5. Nguyễn Sinh Duy (1996), Phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, NXB Đà
Nẵng.
6. Trần Trọng Đăng Đàn (1988), Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam
những năm 1954 - 1975, NXB Sự thật, Hà Nội.
7. Trần Trọng Đăng Đàn (2000), Văn hoá, Văn nghệ….Nam Việt Nam
1954 - 1975, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
8. Trần Trọng Đăng Đàn (1981), “Văn hoá”, “Văn nghệ” thực dân mới tại
miền Nam từ 1954 đến 1975 nhìn xuyên qua một số đường lối, chính
sách âm mưu, thủ đoạn của Mỹ ngụy”, Văn nghệ (166) 27/03, Hà Nội.
9. Trần Trọng Đăng Đàn (1981), “Văn hoá”, “Văn nghệ” thực dân mới tại
miền Nam từ 1954 đến 1975 nhìn xuyên qua một số đường lối, chính
sách âm mưu, thủ đoạn của Mỹ ngụy”, Văn nghệ (169) 17/04, Hà Nội.
10. Trần Trọng Đăng Đàn (1981), “Văn hoá”, “Văn nghệ” thực dân mới tại
miền Nam từ 1954 đến 1975 nhìn xuyên qua một số đường lối, chính
sách âm mưu, thủ đoạn của Mỹ ngụy”, Văn nghệ (176) 12/6, Hà Nội.
11. Phạm Trọng Điềm (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, NXB Thuận
Hoá.
12. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Bảo Định Giang (1960), “Vài nét về văn nghệ Nam Bộ dưới sự lãnh đạo
của Đảng”, Văn Nghệ (75) 01/01, Hà Nội.
14. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 2, NXB Tp HCM.
15. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề
và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
17. Vũ Hạnh (1975), “Mấy suy nghĩ về văn học yêu nước và tiến bộ trong lòng
thành thị miền Nam trước đây”, Văn nghệ 23/08, Hà Nội.
18. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học, NXB Thế Giới, Tp
HCM.
19. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
20. Võ Văn Hoè (2006), Tập tục xứ Quảng theo một vòng đời, NXB Đà
Nẵng.
21. Phan Khang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, NXB Văn học, Hà Nội.
22. M.B Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
23. M.B Khrapchenco (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực con người,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Phong Lê - Trần Hữu Tá (2000), Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Những
tác phẩm tiêu biểu từ 1919 - 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Phương lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập
33, NXB KHXH, Hà Nội.
27. Nguyên Ngọc (2005), Tìm hiểu con người xứ Quảng, NXB Đà Nẵng.
28. Phùng Quý Nhâm - Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, ĐHSP Tp HCM.
29. Nhiều tác giả (1982), Lí luận văn học, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
30. Nhiều tác giả (1985), Lịch sử Việt Nam, Tập 2, NXB KHXH, Hà Nội.
31. Nhiều tác giả (1986), Lí luận văn học, Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Nhiều tác giả (1988), Văn học miền Trung thế kỷ XX, Tập 1, NXB Đà
Nẵng.
33. Nhiều tác giả (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi
Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, NXB Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1998), Tuyển tập văn 1945 - 1975, Tập 1, NXB Văn hoá
thông tin, Tp HCM.
35. Nhiều tác giả (1998), Tuyển tập Văn 1945 - 1975, Tập 2, NXB Văn hoá
thông tin, Tp HCM.
36. Nhiều tác giả (2006), Trò chuyện với 100 nhà văn Việt Nam, NXB Văn
hoá Sài Gòn.
37. Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con
đường phát triển của nó”, Văn nghệ (553) 07/06, Hà Nội.
38. Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con
đường phát triển của nó”, Văn nghệ (554) 14/06.
39. Lữ Phương (1974), “Văn học nghệ thuật các thành thị miền Nam và con
đường phát triển của nó”, Văn nghệ (555) 14/06.
40. Thạch Phương (1972), “Văn học hiện thực và tiến bộ dưới sự thống trị tàn
bạo của Mỹ - Ngụy ở miền Nam”, Tạp chí Văn học số 1, Hà Nội.
41. M.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
42. Lê Văn Siêu (1993), Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, NXB Mũi
Cà Mau.
43. Sở văn hoá thông tin Quảng Nam (2001), Văn hoá Quảng Nam - Những
giá trị đặc trưng.
44. Phạm Côn Sơn (2004), Làng nghề truyền thống Việt Nam, NXB Văn hoá
dân tộc.
45. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ giáo viên.
46. Trần Đình Sử - Lê Bá Hán (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
47. Trần Hữu Tá (1985), Tư liệu truyện ký Việt Nam 1955 - 1975, Tập 2,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
48. Trần Hữu Tá (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
49. Trần Hữu Tá (2001), Nhìn lại một chặng đường văn học, NXB Tp HCM.
50. Nguyễn Q. Thắng (1996), Quảng Nam đất nước và nhân vật, NXB Văn
hoá, Hà Nội.
51. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
52. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
53. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Tp
HCM.
54. Phan Lạc Thuyên (2000), Nghiên cứu và điền dã, NXB Trẻ, Tp HCM.
55. Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên) (2004), Lịch sử Việt Nam, Tập 2, NXB
KHXH.
56. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận và văn học, NXB Trẻ, Tp HCM.
57. Huỳnh Ngọc Trảng (2000), Đại Lộc sáng ánh đèn, NXB Đà Nẵng.
58. Huỳnh Ngọc Trảng (2007), Địa chí Đại Nghĩa, NXB Đà Nẵng.
59. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Dân tộc- Văn hoá - Tôn giáo, NXB KHXH, Hà
Nội.
60. Nguyễn Hoàng Viên (2001), Hoàng Diệu, NXB Đà Nẵng.
61. Hoàng Hương Việt (chủ biên) (2000), Ca dao, dân ca đất Quảng, Tập 1,
NXB Đà Nẵng.
62. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2000), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
63. Nguyễn Văn Xuân (2002), Tuyển tập Nguyễn Văn Xuân, NXB Đà Nẵng.
64. Nguyễn Văn Xuân (2002), Kỳ nữ họ Tống, NXB Trẻ, Tp HCM.
65. www.khoahoc.net, Tưởng niệm nhà văn Nguyễn Văn Xuân.
66. www.Thanhnien.com.vn, Nhà văn Nguyễn Văn Xuân về với quê nhà.
67. www.giaodiemonline.com, Hẹn gặp lại Nguyễn Văn Xuân.
68. www.Thanhnien.com.vn, Vĩnh biệt ông thầy Quảng.
69. damau.org, Nhà văn Nguyễn Văn Xuân: một mảnh đất một đời người.
70. www.diendan.org, Tôi muốn gọi hai tiếng “thầy Xuân”.
71. www.toquoc.gov.vn, Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Văn Xuân.
72. www.diendan.org, Nhà văn hoá Nguyễn Văn Xuân (1921 - 2007).
73. www.diendan.org, Nguyễn Văn Xuân, tối sáng một đời văn.
PHỤ LỤC 1
Thành ngữ trong Bão rừng
1. Vung tay quá trán. 16. Nhập giang tuỳ khúc.
2. Chờ thì được, ước thì thấy. 17. Hổ phụ sinh hổ tử.
3. Đầu tắt mặt tối. 18. No mất ngon, giận mất khôn.
4. Mèo đàng chó điếm. 19. Có mới, nới cũ.
5. Vải thưa che mắt thánh. 20. Voi một ngà, người ta một mắt.
6. Bốn chín, năm mươi. 21. Trời đánh, thánh vật.
7. Tốt mã nhưng rã đám. 22. Ở hiền thì gặp lành.
8. Ghi lòng, tạc dạ. 23. Của thiên trả địa.
9. Tích tiểu thành đa. 24. Tai qua, nạn khỏi.
10. Thông kim quán cổ. 25. Ăn cháo đá bát.
11. Gà trống nuôi con. 26. Giơ cao đánh nhẹ.
12. Phép vua còn thua lệ làng. 27. Cô thân độc mã.
13. Ăn chưa no, lo chưa tới. 28. Thập tử nhất sinh.
14. Còn nước còn tát. 29. Coi trời bằng vung.
15. Trăm công nghìn việc. 30. Mồ yên mả đẹp.
PHỤ LỤC 2
Một số hình ảnh về Nguyễn Văn Xuân
Chân dung nhà văn Nguyễn Văn Xuân
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân và nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (tháng 2-2003)
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân (kí hoạ bút sắt của Phan Ngọc Minh)
Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng với mô hình ngôi mộ của Nguyễn Văn Xuân
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7584.pdf