Cuộc cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại & sự hình thành nền kinh tế tri thức. Định hướng của Việt Nam

Lời nói đầu Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế, từ kinh tế tự nhiên mang nặng tính chất tự cung tự cấp đến kinh tế thị trường với vai trò chủ đạo của phân công lao động và trao đổi hàng hóa. Và trong những năm gần đây, người ta lại nhắc nhiều đến thuật ngữ “kinh tế tri thức”, đó phải chăng là một bước phát triển mới trong việc tổ chức kinh tế của xã hội loài người? Francis Bacon đã nhận định rằng: “Tri thức là sức mạnh”. Sự thực là, sự phát triển có t

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cuộc cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại & sự hình thành nền kinh tế tri thức. Định hướng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính chất bùng nổ của lực lượng sản xuất trong những năm gần đây, đặc biệt là ở các nước phát triển, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đang làm xuất hiện một hình thái kinh tế mới dựa chủ yếu trên việc sản xuất, phân bổ và sử dụng tri thức. Nhiều người gọi đó là “kinh tế tri thức”. ở Bắc Mĩ và một số nước Tây Âu, kinh tế tri thức bắt đầu được hình thành từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX. Hiện nay ở những nước này, kinh tế tri thức đã chiếm khoảng 45% - 60% GDP. Người ta ước tính đến khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành các nền kinh tế tri thức. Vậy nền kinh tế tri thức thực chất là như thế nào? Đâu là tiêu chuẩn để xác định một nền kinh tế tri thức? Và sự hình thành nền kinh tế mới này có tác động như thế nào đến nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đang trong quá trình đổi mới? Đó là vấn đề được rất nhiều người Việt Nam quan tâm. Là sinh viên của một trường thuộc khối kinh tế, em chọn đề tài: “ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự hình thành nền kinh tế tri thức. Định hướng của Việt Nam.” làm đề tài cho đề án của mình với mong muốn có được hiểu biết sâu sắc hơn, có phần nền lí luận để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước sau này. Đề án được thực hiện trên cơ sở phương pháp phân tích – tổng hợp các lí luận và có đưa ra các ví dụ thực tế, đồng thời có tham khảo một số sách báo có nội dung liên quan. Nội dung I. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu của kinh tế tri thức Các Mác từng nói: “ Khoa học là tinh hoa của tiến trình phát triển chung của lịch sử. Hơn thế nữa, đó là đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, là một lực lượng cách mạng, theo ý nghĩa chính xác nhất của từ đó”. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh điều đó là đúng. Ngay từ thế kỉ XVII, khoa học đã từng bước đưa ngành trồng trọt chăn nuôi trở thành cốt lõi của nền kinh tế nông nghiệp, phát triển chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên. Đến giữa thế kỉ XVII, nền kinh tế công nghiệp bắt đầu được hình thành. Từ đó đã có hai cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật, được đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước và máy phát điện. Và đặc biệt, với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu thế kỉ XX, loài người đã đi sâu nghiên cứu thế giới từ vi mô đến vĩ mô, tất cả những sự vật nằm ngoài khả năng quan sát của giác quan con người. Hàng loạt những phát kiến vĩ đại về phân tử, nguyên tử, hạt nhân, các hạt cơ bản... đến những hiểu biết về vũ trụ: các vì sao, thiên hà, đại thiên hà, sự giãn nở của vũ trụ... Người ta ước tính rằng trong thế kỉ XX toàn bộ lượng thông tin, tri thức tăng thêm khoảng 1000 lần so với đầu thế kỉ và vượt trội tất cả các tri thức mà loài người tích lũy được trong suốt lịch sử phát triển từ thế kỉ XIX trở về trước. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đó tất yếu sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất mà ngày nay chúng ta gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, bắt đầu vào khoảng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được mở đầu bằng công nghệ thông tin (CNTT). CNTT là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai đoạn phát triển mới về chất của sản xuất trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm. CNTT bao gồm từ phần cứng như chế tạo các mạch vi điện tử, các máy vi tính, máy siêu tính... các dây chuyền sản xuất tự động hóa, các thiết bị ngoại vi cho đến các phần mềm ứng dụng và các phần mềm hệ thống. Một phần quan trọng nữa trong CNTT phải kể đến là các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu dùng... Mạng máy tính và internet đã và đang trở thành hệ thống huyết mạch quan trọng trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội. Năm 1993 đã có 1 triệu người nối mạng, đến tháng 3 – 2000 số người dùng đã lên tới 280 triệu. Rõ ràng là mạng internet không còn là một phương tiện kĩ thuật thuần túy mà đã thành một môi trường mới cho mọi hoạt động của con người và có tác động rất lớn đến sự chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh. Thứ đến là công nghệ sinh học (CNSH), đây là một bước đột phá vào thế giới đầy bí ẩn của sự sống. Nó bắt đầu bằng việc khám phá ra các phân tử hình xoắn kép (ADN). Công nghệ cao này đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho sản xuất ra các loại lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Cùng với CNTT và CNSH là một loạt các công nghệ cao khác: công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng công nghệ hàng không – vũ trụ... Nhiều loại vật liệu mới với các tính năng ưu việt không thể tìm thấy trong tự nhiên đã được tạo ra: vật liệu tổ hợp, vật liệu com-pô-zit, các chất bán dẫn... Nhiều nguồn năng lượng mới được tạo ra để thay thế các nguồn năng lượng tự nhiên sắp cạn kiệt, đặc biệt là năng lượng nguyên tử. Đáng chú ý là công nghiệp hàng không-vũ trụ với triển vọng đưa con người đến với các hành tinh khác trong vũ trụ.... Nhờ các công nghệ cao đó, nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng chưa từng có. Ngày nay, tổng sản phẩm của thế giới ước tính khoảng 30.000 tỉ USD nghĩa là gấp khoảng 123 lần so với tổng sản phẩm thế giới những năm 50 (1300 tỉ USD). Có thể nói, bộ phận cách mạng nhất tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư của lực lượng sản xuất to lớn của loài người ngày nay là khoa học công nghệ. Các Mác đã dự báo rằng khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đã trở thành hiện thực. Chính điều đó đã tạo tiền đề cho sự hình thành kinh tế tri thức. II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức 1. Khái niệm kinh tế tri thức Kinh tế tri thức là một sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Nền kinh tế đó đang dần được hình thành, có nhiều tên gọi khác nhau nhưng phổ biến hơn cả là thuật ngữ “kinh tế tri thức”(knowledge economy) hay “kinh tế dựa trên tri thức”(knowledge based economy). Theo cách định nghĩa của tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt là OECD): Kinh tế tri thức là một dạng hình kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế nhằm tạo ra của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Cũng có thể định nghĩa đơn giản hơn: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó khoa học, kĩ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố hàng đầu quyết định việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Như vậy trong nền kinh tế tri thức, vấn đề không chỉ ở việc tạo ra tri thức, mà phải thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Kinh tế tri thức không chỉ bao hàm duy nhất các lĩnh vực lao động với công nghệ cao, sử dụng lao động có tri thức và lao động có kĩ năng cao là chính, mà còn quá trình tri thức xâm nhập và chi phối tất cả mọi hoat động kinh tế. Nghĩa là không phải tất cả các ngành đều phải dựa trên nền tảng công nghệ kĩ thuật cao, song điều chắc chắn là tất cả các ngành đều hoạt động dưới sự chi phối của tri thức. Tóm lại, tri thức vừa là nội dung vừa lầ động lực của nền kinh tế. Có thể hình dung một cách cụ thể về nền kinh tế tri thức thông qua bảng so sánh sau: Stt Hình thái kinh tế Đặc trưng Hình thái thứ nhất (Kinh tế sức người) Hình thái thứ hai (Kinh tế tài nguyên) Hình thái thứ ba (Kinh tế thị trường) 1 Định vị trong sơ đồ Kinh tế tự nhiên, tương đương với nền kinh tế nông nghiệp và xã hội nông dân cổ truyền. Hình thái thị trường, tương đương với nền kinh tế thị trường của đại công nghiệp cơ khí và Xã hội công nghiệp. Hình thái Cộng sản chủ nghĩa (CSCN), tương đương với nền kinh tế có tốc độ phát triển cao và xã hội tự do chân chính. 2 Phương thức tồn tại Tự cấp tự túc, khép kín trong từng cộng đồng riêng biệt. Phân công lao động và trao đổi bị giới hạn bởi các biên giới địa phương, quốc gia. Phân công và trao đổi phổ biến thông qua mạng kiên kết toàn cầu không biên giới. 3 Lợi thế phát triển chủ yếu Tài nguyên thiên nhiên Công cụ kĩ thuật Tri thức của con người (Khoa học – Công nghệ), kĩ năng lao động. 4 Tầm quan trọng của khoa học Nhỏ Lớn Rất lớn 5 Tỷ lệ đóng góp của khoa học - công nghệ cho tăng trưởng kinh tế Dưới 10% Trên 40 % Trên 70% 6 Tầm quan trọng của giáo dục Nhỏ Lớn Rất lớn 7 Bình quân trình độ văn hóa Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Trung học chuyên nghiệp 8 Kết cấu công nghệ: - Công nghệ thông tin 3 -5% 15% -Công nghệ sinh học 2% 10% -Công nghệ năng lượng 2% 10% -Công nghệ biển 2% 10% - Công nghệ sạch 1% 5% - Công nghệ vật liệu mới 1% 5% - Công nghệ không gian 5% Công nghệ mềm 5% 9 Vai trò của truyền thống Không lớn Lớn Rất lớn 10 Kết cấu sức lao động: - Nông nghiệp Trên 50% 10 – 20% Dưới 10% - Công nghiệp Khoảng 15 -20% Trên 30% Dưới 20% - Công nghệ cao 10 -15% Trên 40% 11 Trình độ tổ chức xã hội Đơn giản Phức tạp Rất phức tạp 12 Mức độ toàn cầu hóa kinh tế thế giới Thấp Khá cao Rất cao 2. Một số phạm trù trong kinh tế thị trường Mỗi một hình thái kinh tế mới ta đời đều có những phạm trù kinh tế riêng đặc trưng cho nó. Đối với nền kinh tế tri thức, chúng ta có thể tìm hiểu một số phạm trù sau đây. Thông tin và tri thức: Đây là hai nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra là phải phân biệt hai phạm trù này vì như John Naribett nói: “ Chìm ngập trong thông tin mà vẫn thiếu tri thức”. + Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận được, có thể dùng hoặc không. + Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là việc áp dụng và sử dụng một cách có ích các thông tin. Theo quan điểm triết học, tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức, là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của nó thể hiện bằng sự kiểm nghiệm thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của lí luận về nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng. Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt nhưng khi tri thức được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản xuất ra tri thức. Sản phẩm tri thức: Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với vật thể thông thường: Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên nó luôn được mang, chứa trong những hình thức hiện vật nhất định: bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa... Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó, nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Còn đối với sản phẩm tri thức, người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang nó và có quyền sử dụng đối với nội dung tri thức. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người mới có khả năng tư duy. Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất cuả một quá trình nghiên cứu, học tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn phát hiện ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới. Việc sản xuất ra các loại sản phẩm tri thức thường tạo ra giá trị gia tăng rất lớn. Đây là một đặc điểm tạo nên ưu thế vượt trội của sản phẩm tri thức so với các sản phẩm thông thường khác. Chẳng hạn E. Sanchez và D. Mync sản xuất bộ phim “ Đồ án Blair Witch” bằng kĩ thuật số, phát hành trên internet, chỉ riêng trong nước Mĩ đã thu được 140 triệu USD, và chỉ với chi phí 500.000 USD, nghĩa là có tỷ suất lợi nhuận 280. Theo ước tính, trong ngành chế tạo thiết bị điện tử, tỷ suất giá trị gia tăng trên giá trị đầu vào là khoảng 300, còn trong ngành công nghệ phần mềm tỷ suất đó tiến tới vô hạn (!). Nền kinh tế tri thức được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững rất cao. Công nhân tri thức Phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế tri thức, bởi đây là lực lượng trực tiếp tiếp thu tri thức, khoa học – công nghệ để tiến hành sản xuất theo phương thức hiện đại. Sự ra đời của công nhân tri thức là tất yếu khách quan cùng với sự ra đời của nền kinh tế tri thức đồng thời cũng là sự phủ định có kế thừa của giai cấp công nhân trong nền kĩ thuật - công nghệ hiện đại thế kỉ XX. Công nhân tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó, biểu hiện: Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không còn là vô sản nữa. Công nhân tri thức làm chủ một nền kĩ thuật mà phần lớn các ngành kĩ thuật đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học. Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Trên cơ sở tri thức khoa học đang dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, số lượng công nhân có tri thức, có tay nghề cao ngày càng tăng. Đồng thời nền kinh tế tri thức mang đặc tính sáng tạo, thích hợp với bản chất của người công nhân, do đó sẽ kích thích họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu nâng cao trình độ khoa học – kĩ thuật của mình. Như vậy, tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển chất lượng người công nhân. Các ngành kinh tế tri thức Chúng ta đã đề cập nhiều đến kinh tế tri thức, vậy trong nền kinh tế hiện nay những ngành kinh tế nào thì được coi là ngành kinh tế tri thức? – Theo giáo sư, viện sĩ Đặng Hữu: Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ khoa học và công nghệ, dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao... được gọi là ngành kinh tế tri thức. Các tiêu chí cơ bản của một nền kinh tế tri thức Về cơ cấu GDP: hơn 70% do các ngành sản xuất, dịch vụ và ứng dụng công nghệ cao. Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại. Cơ cấu lao động: hơn 70% công nhân tri thức. Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người. Ngoài ra còn có các tiêu chí khác, trong đó có tiêu trí về vai trò rất quan trọng của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp. 3. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức Là một hình thái kinh tế mới của xã hội loài người, kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang được định hình và tiếp tục phát triển. Nhưng ta có thể thấy điều cốt yếu trong kinh tế tri thức đó là việc thu thập, sử dụng và truyền bá các thông tin tri thức. Dưới đây là một số đặc trưng của kinh tế tri thức: Tri thức, đặc biệt là khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhờ cuộc cách mạng khoa học -công nghệ hiện đại, hàng lọat các công nghệ cao đã được phát minh và ứng dụng ngay vào quá trình sản xuất tạo nên sự thay đổi rõ rệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất cũng như giá trị của hàm lượng vật chất trong các sản phẩm ngày càng giảm để nhường chỗ cho các yếu tố tri thức. Chính vì vậy trình độ khoa học-công nghệ và vốn con người trong cuộc đua tranh, cạnh tranh phát triển. Sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang các ngành kinh tế tri thức: Nền kinh tế nông nghiệp dựa trên sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp thì công nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế tri thức sẽ chiếm vai trò thống trị, nhất là các dịch vụ trí tuệ (nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, tư vấn thiết kế, y tế, tài chính, thông tin liên lạc....) sẽ trở thành họat động kinh tế chiếm phần chủ yếu với số người tham gia nhiều nhất. Kinh tế tri thức là nền kinh tế mở cao, mang tính chất toàn cầu hóa. Với sự phát triển cao của CNTT, các tri thức mới, đặc biệt là thành tựu khoa học-công nghệ được phổ biến và ứng dụng một cách nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Hoạt động kinh tế và phân công lao động sẽ vượt ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới sẽ trở thành một mạng lưới gồm nhiều quan hệ đan xen giữa các nền kinh tế quỗc gia. Tuy nhiên, trong mạng kinh tế toàn cầu đó, vẫn tồn tại những mảng, vùng có trình độ phát triển còn kém xa những mảng, vùng khác. Việc tham gia vào mạng lưới này có thể giúp các quốc gia kém phát triển tạo được sự bứt phá nhưng đồng thời cũng đưa đến những rủi ro tụt hậu rất lớn, tùy thuộc vào khả năng của từng quốc gia. Kinh tế tri thức là nền kinh tế năng động với tốc độ biến đổi cực kì cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân, ở tốc độ ứng dụng các phát minh khoa học vào quá trình sản xuất và ở sự biến đổi của giá cả trên thị trường. Điều này đòi hỏi các nền kinh tế, các doanh nghiệp không ngừng sáng tạo, đổi mới công nghệ sản xuất (sáng tạo và đổi mới là linh hồn của nền kinh tế), nâng cao trình độ quản lí, thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu.... để bắt kịp với tốc độ phát triển chung. Những biến đổi trên cũng đồng thời kéo theo biến đổi về cấu trúc giai cấp-xã hội ở các quốc gia. Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và có đầy đủ thông tin. Cần tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, gây nhiễu thông tin. Kinh nghiệm các nước chỉ rõ rằng CNTT cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi giao dịch, giảm bớt tình trạng trốn lậu thuế. 4. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức đến quan hệ kinh tế quốc tế Quá trình chuyển từ kinh tế công nghệ công nghiệp sang kinh tế tri thức có tác động mạnh đến quan hệ kinh tế quốc tế, từ phương thức hoạt động đến nội dung, cấu trúc các mối quan hệ đó. Có thể đưa ra một số tác động chủ yếu như sau: Kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, làm cho nó trở thành xu thế bao trùm quan hệ quốc tế hiện đại. Do kinh tế tri thức chủ yếu dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức vốn mang tính chất năng động, lan tỏa không biên giới, trước hết là khoa học-công nghệ nên lực lượng sản xuất thế giới và các hoạt động kinh tế của con người ngày càng được đa dạng hóa, đa phương hóa trên phạm vi toàn cầu. Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hóa ngày nay là một xu thế khách quan và phổ biến, được thúc đẩy chủ yếu bởi những tiến bộ của khoa học và công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị các giao dịch tài chính quốc tế lên tới 3500 tỉ USD. Trên 50.000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 300.000 công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Các công ty con cũng ra sức nắm bắt và ứng dụngnhững tiến bộ mới về khoa học và công nghệ để tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường của mình. Trên phương diện vĩ mô, các nước đều tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế các bất lợi của quá trình toàn cầu hóa. Quá trình phát triển kinh tế tri thức làm cho phân công lao động trở nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học và công nghệ sẽ phát triển nhanh chóng, làm cho phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Bởi vì trong thời đại kinh tế này, khoa học-công nghệ và con người sẽ áp đảo các lợi thế về đất đai, tài nguyên.... Một xu thế khác là sự phân công chuyên sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng có nhiều công ty đi chuyên sâu vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung cấp một dịch vụ chuyên môn nhất định. Phát triển kinh tế tri thức sẽ làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới và cấu trúc của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong những năm 60, cơ cấu sản phẩm thế giới với các ngành nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ có tỉ lệ là 10,4%-28,4%-50,4% thì đến những năm 90, cơ cấu này đã có sự thay đổi mạnh mẽ với tỉ lệ 4,4%-21%-62,4%. Chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu kinh tế thế giới là các ngành kinh tế dựa vào tri thức. Sự thay đổi trong cơ cấu của kinh tế các nước và kinh tế thế giới kéo theo sự biến đổi trong cấu trúc kinh tế quốc tế, thể hiện ở một số khía cạnh sau: + Hàng hóa dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí chủ chốt trong thương mại quốc tế. Năm 1990, trao đổi kinh tế và công nghiệp trao đổi khoa học và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ USD, năm 1995 là 250 tỉ USD và 500 tỉ USD năm 2000. + Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai trò hàng đầu trong thương mại thế giới. Thực tế cho thấy, từ năm 1997 đến năm 2002, thương mại điện tử đã phát triển với tốc độ ghê gớm từ 17 tỉ USD đến gần 1000 tỉ USD. + Tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính năng động, linh hoạt trên phạm vi quốc tế của chúng ngày càng tăng. Để tồn tại và phát triển trong quá trình toàn cầu hóa, các công ty luôn tìm cách đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai xu hướng sáp nhập và chia nhỏ các công ty đang cùng diễn ra, tạo nên sự linh hoạt của nền kinh tế. + Lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế thay đổi theo hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, nhân công rẻ, vị trí địa lý... và tăng vai trò của các yếu tố tri thức. Trong điều kiện hiện tại, cấc nước phát sẽ có lợi thế hơn các nước đang phát triển vì trình độ khoa học công nghệ của họ nhìn chung là phát triển hơn, lại nắm giữ hầu hết các nguồn vốn và có đội ngũ công nhân tri thức đông đảo. Tuy nhiên, quá trình này cũng mở ra nhiều cơ hội để các nước đang phát triển có thể tận dụng “đi tắt, đón đầu” trên con đường phát triển kinh tế và thu hẹp khoảng cách so với các nước đi trước. Đặc tính tăng trưởng bền vững của nền kinh tế thị trường sẽ tạo nên sự biến đổi lớn về chất trong quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế quốc tế sẽ phát triển một cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng sẽ không còn là một bóng đen bao trùm lên quan hệ kinh tế quốc tế nữa. Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, xu hướng chuyển sang kinh tế thị trường đã và đang là một thực tế và ngày càng được khẳng định trước hết là trong các nước phát triển và các nước công nghiệp. Khi kinh tế thị trường được khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chắc, nhất định nó sẽ kéo theo sự biến chuyển về mặt xã hội, dẫn tới sự thay đổi phương thức sản xuất. Vì lẽ đó có nhiều nhà khoa học cho rằng kinh tế tri thức đang được hình thành một cách tất yếu, khách quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khi kinh tế tri thức phát triển lan rộng sẽ làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, mặt khác sẽ tạo ra tiền đề vật chất to lớn cho một xã hội cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa. III- Việt Nam với xu thế hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức 1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam Với những biểu hịên thay đổi như hiện nay của nền kinh tế thế giới, chúng ta có thể thấy kinh tế tri thức đang dần trở thành xu thế phổ biến trên toàn cầu. ở những nền kinh tế lớn trên thế giới, các ngành kinh tế tri thức chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong cơ cấu GDP. Tỉ lệ này là 57,3% ở Xin-ga-po, 55,3% ở Mĩ, 53% ở Nhật Bản, 51% ở Canađa và 48% ở Ô-xtrây-lia. Và một điều tất yếu là kinh tế tri thức phát triển sẽ cuốn vào vòng xoáy của nó tất cả các nước đang phát triển và kém phát triển. Do kinh tế tri thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ biến đổi nói lên rằng khả năng bắt kịp các nước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. Kinh tế tri thức có thể là chiếc chìa khóa vàng cho các nước nghèo, chậm phát mở lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ của mình. Việc gia nhập vào mạng toàn cầu hàm chứa khả năng phải chịu “rủi ro”. Trình độ phát triển càng cách xa tiến độ phát triển chung của mạng thì độ “rủi ro” càng lớn. Song kinh nghiệm cho thấy rằng, trong khi những “rủi ro” khi tham gia vào mạng là tiềm ẩn thì những “rủi ro” do không tham gia vào mạng là chắc chắn và lớn hơn bất kì “rủi ro” nào khi tham gia vào mạng. Tuy nhiên, đối với các nước chậm phát triển, rất nhiều vấn đề còn tồn tại hạn chế khả năng chuyển sang kinh tế tri thức. Những tồn tại đó là: lực lượng lao động ít tri thức, thiếu kĩ năng chiếm tuyệt đại đa số làm cho bước quá độ diễn ra chậm; nguồn lực tài chính khan hiếm; tiềm lực khoa học và công nghệ(tri thức) yếu và thấp kém.... Những yếu tố này tự nó chứa đựng năng lực “nhập mạng” yếu, cản trở khả năng tiếp cận với các cơ hội phát triển. 2. Thực trạng nền kinh tế nước ta và định hướng của Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ một xuất phất điểm thấp: một nền nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp hầu như không có gì, đất nước sau chiến tranh bị tàn phá nặng nề... Trải qua chế độ quan liêu bao cấp, nền kinh tế đó càng thêm lạc hậu, què quặt. Năm1986, Đảng và Nhà nước ta quyết định tiến hành đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Sau 15 năm đổi mới, chúng ta cũng đạt được một số thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Nềnkinh tế từ trạng thái khan hiếm nghiêm trọng, nay đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân; từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ nền kinh tế chỉ có hai thành phần cơ bản là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống nhân dân được cải thiện. Đặc biệt đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính ở một số nước châu á. Tuy vậy nền kinh tế còn tồn tại nhiều hạn chế: Kinh tế phát triển nhưng chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Mức tăng trưởng kinh tế hàng nămđạt tới gần 7% nhưng GDP bình quân tính theo đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân thế giới. Cơ cấu kinh chậm chuyển dịch, nặng về nông nghiệp. Lao động nông thôn dồi dào, cần cù nhưng vẫn thiếu việc làm. Sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao... Bên cạnh đó giáo dục chưa phát triển. Khoa học công nghệ còn nhiều yếu kém. Việc phân bổ, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học hiện nay còn nhiều điều bất hợp lí. Chất lượng đào tạo còn thấp, trình độ chưa cập nhật được tri thức hiện đại, bị hông nhiều về hiểu biết công nghệ, quản lí kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ... Dân tộc ta kiên cường bất khuất, tất nhiên sẽ không chịu lùi bước trước khó khăn nào. Tttrong báo cáo chính trị tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừâ có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy mọi lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến. Đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây cũng chính là định hướng cho nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta có thể đi theo con đường “rút ngắn”, dựa vào khoa học công nghệ để thực hiện Công nghiệp hóa- Hiện hóa đất nước. Và khi hoàn thành sự nghiệp đó chúng ta cũng đồng thời chuyển nền công nghiệp đó sang nền kinh tế tri thức. Thực tế, cách thức rút ngắn này cũng đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công như Nam Triều Tiên, Singapo... công nghiệp hóa đất nước trong vòng 30 năm, Ailen từ một nước nông nghiệp những năm 60, ngày nay đàng hoàng sánh vai cùng các nước tiên tiến. Chúng ta có thể và nhất định sẽ thực hiện được điều đó, như tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nói: “Nhân dân Việt Nam đã biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót chông thì mười ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng máy vi tính, đi vào công nghệ thông tin, cánh cửa của tri thức.” Tất nhiên đó không phải là một con đường bằng phẳng mà sẽ vô cùng chông gai, vất vả đối với Việt Nam. 3. Những giải pháp đưa ra cho Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức Khái quát chung Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan, đang diễn ra ráo riết, dù những nước nghèo nhất cũng đang phải đương đầu với thách thức của nền kinh tế đang được tri thức hóa, toàn cầu hóa. Vấn đề là chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức như thế nào? Sau nhiều cuộc hội thảo, tranh luận khoa học, một hướng đi cơ bản đã được vạch ra cho nền kinh tế Việt Nam. Con đường phát triển kinh tế tri thức trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta cần thiết phải phát triển theo mô hình “hai tốc độ song hành” (qui trình kép). Cùng với việc chăm lo phát triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp cơ bản và then chốt nhằm ổn định, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, chúng ta phải đồng thời đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế dựa vào tri thức, công nghệ cao để tăng tốc quá trình hiện đại hóa, không ngừng nâng cao vị thế độc lập tự chủ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nhằm giữ vững thế chủ động, hội nhập kinh tế thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau: -Tiến hành song song việc phát triển cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập.Thực tế cho thấy cơ chế thị trường là cơ chế phân phối nguồn lực tối ưu và trong cơ chế này, cạnh tranh đóng vai trò động lực phát triển. Đối với nước ta hiện nay cần đẩy nhanh quá trình cải cách thị trường, đẩy mạnh khu vực doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích khu vực tư nhân phát triển thông qua các chính sách thị trường.Đối với vấn đề mở cửa hội nhập, cần quán triệt đây là cơ hội để phát triển. Không đẩy mạnh mở cửa, hội nhập sẽ không thể phát huy tính năng động, tích cực của nền kinh tế, không có những cơ hội để tiếp cận với những tiến bộ về khoa học công nghệ hiện đại, thương mại hóa quốc tế bị hạn chế.... - Đầu tư đẩy mạnh việc chăm lo phát triển toàn diện nguồn nhân lực, then chốt là công tác giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, tạo lập một xã hội học tập và cá nhân học tập suốt đời nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Bởi vì con đường ngắn nhất đến với tri thức là giáo dục và đào tạo. Coi giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, nâng cao tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đồng thời phải tiến hành cải cách hệ thống giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nhanh chóng hoàn thành việc phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở trên toàn quốc; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ cao, tạo lập đội ngũ công nhân kĩ thuật lành nghề. Không ngừng mở rộng hợp tác giáo dục- đào tạo và khoa học công nghệ với các nước khác. Đây là một việc rất quan trọng. Tích cực xây dựng một nền._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0466.doc
Tài liệu liên quan