Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

A.ĐẶT VẤN ĐỀ Đất nước chúng ta đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với những thách thức và khó khăn. Thế giới tư bản chủ nghĩa dựa vào lợi thế kinh tế của mình đang tìm trăm phương ngàn kế để phá hoại và hạn chế sự phát triển của các nước hội chủ nghĩa,t rong đó có Việt Nam. Hơn thế nữa, hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi động, các nước nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đưa kinh tế nước mình phát triển trong đó con người

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1863 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa và vai trò của nó đối với sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là vị trí trung tâm. Muốn vậy chúng ta phải thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Đối với những nước có nền kinh tế chưa phát triển như nước ta, nền sản xuất nhỏ, sản xuất thủ công là chủ yếu…Như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã căn dặn chúng ta rằng:”Việt Nam ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, công cuộc đổi mới xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc” (1). Công nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật để tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đang thực sự trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, của mọi doanh nghiệp và của toàn xã hội.Vấn đề công nghiệp hoá trở thành vấn đề chung mang tính toàn cầu. Công nghiệp hoá giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng cơ sở tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội.Từ thập niên 60 của thế kỷ XX,Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,Tại Đại hội VIII Đảng ta khẳng định: tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ của dân tộc ta. Vì vậy cần làm rõ tính quan trọng và vai trò của quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. (1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,Hà nội,tập 9, trang 176. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ. Khái niệm công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Khái niệm. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một quá trình có tính chất lịch sử. Tất cả các nước công nghiệp phát triển đều phải trải qua quá trình công nghiệp hoá ở các thời điểm khác nhau, với những quy mô tốc độ khác nhau và trong những điều kiện lịch sử kinh tế xã hội khác nhau.Do đó việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Ở thế kỷ XVII, XVIII khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá trên thế giới và ở nước ta trong thời kì trước đồng thời vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời kì đổi mới,hội nghị ban chấp hành TW lần thứ bẩy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm mới về công nghiệp hoá – hiện đại hoá.Theo tư tưởng này,công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh,dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kĩ thuật và công nghệ cao; tạo năng suất lao động xã hội cao.Như vậy công nghiệp theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần,kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như trước đây. 1.1.2.Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn Cơ sở lí luận: Chúng ta đang bước vào ngưỡng cửa của thế kỉ 21,thế kỉ mà người ta dự đoán là thế kỉ của công nghệ sinh học, kĩ thuật vi tính và công nghệ thông tin.Để có được tiền đề cho thế kỉ 21 tiên tiến, hiện đại lịch sử nhân loại đã trải qua những bước thăng trầm khác nhau song phải nói rằng công nghiệp hoá – hiện đại hoá là những nấc thang quyết định mà tất cả các khu vực các quốc gia trên thế giới đều phải trải qua để phát triển kinh tế - xã hội.Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,trong xã hội xã hội chủ nghĩa năng suất lao động của người dân tăng cao, đời sống nhân dân phát triển đầy đủ.Bên cạnh đó xã hội xã hội chủ nghĩa có điều kiện đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất,góp phần nâng cao năng suất lao động tạo ra của cải phục vụ quần chúng nhân dân.Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng được sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất.Do đó để xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa phát triển ,chúng ta phải xây dựng được sản xuất phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.Bởi vì theo học thuyết hình thái kinh tế xã hội của Mac–Anghen lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng.Khi lực lượng sản xuất không phù hợp với sự phát triển của quan hệ sản xuất nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội và ngược lại khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất, nền sản xuất xã hội sẽ không phát triển.Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển,sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất,trước hết là công cụ lao động.Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Do đó quá trình công nghiệp hoá–hiện đại hoá là tất yếu khách quan.Công nghiệp hoá–hiện đại hoá sẽ làm thay đổi công cụ lao động,nâng cao trình độ,kinh nghiệm lao động của con người,trình độ tổ chức phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất làm cho sản xuất đạt tới trình độ cơ khí,hiện đại,phân công lao động xã hội phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ngoài việc xây dựng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội chúng ta cần phải xây dựng được cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa xã hội.Quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá diễn ra làm cho lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất ,xây dựng được cơ sở hạ tầng vững chắc.Bên cạnh đó công nghiệp hoá – hiện đại hoá diễn ra sẽ tạo nên được một nền kinh tế phát triển làm cơ sở để ổn định và phát triển các quan hệ xã hội,các nền văn hoá,thiết chế xã hội… hay tạo ra được cơ sở hạ tầng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là tiền đề để tiến đến một hình thái xã hội cao nhất : xã hội chủ nghĩa cộng sản. Mac–Anghen khi viết về giai cấp và đấu tranh giai cấp không chỉ khẳng định con đường tất yếu của nhân loại là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà còn chỉ ra rằng giai cấp vô sản là con đẻ của nền sản xuất ấy,là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, tiên tiến nhất trong lịch sử phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.Như vậy, một cách gián tiếp Mac–Anghen đã thừa nhận vị trí của công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.Tại đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VII vừa qua, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh vai trò của công nghiệp hoá – hiện đại hoá đối với nước ta. Cơ sở thực tiễn : Các quốc gia trên thế giới, dù là nước tư bản hay chủ nghĩa, dù các nước phát triển hay đang phát triển đều không thể phủ nhận hoặc bỏ qua vai trò của công nghiệp hoá – hiện đại hoá đối với quốc gia mình. Các nước đã tiến hành thành công công nghiệp hoá đã khẳng định vai trò của công nghiệp hoá bằng hệ thống cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ hiện đại, bằng nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định.Đối với những nước đang phát triển trong đó có Việt Nam thì công nghiệp hoá- hiện đại hoá là phương hướng chủ đạo đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, hoà mình với xu hướng phát triển chung của khu vực và thế giới. Việt Nam ngày càng có điều kiện đánh giá, nhìn nhận và rút kinh nghiệm về quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá của các nước khác, từ đó tìm cho mình một con đường công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước thích hợp. Thực tiễn lịch sử thế giới chính là tiền đề cần thiết, tất yếu đòi hỏi phải tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước để có một cơ sở vật chất kĩ thuật vững mạnh. Quan trọng hơn, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào chúng ta tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. 1.2.Hoàn cảnh đất nước ta và tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá. 1.2.1.Hoàn cảnh đất nước ta. Từ năm 1986 cho tới nay sau khi chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của nhà nước đồng thời đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá chúng ta đã đạt được nhiều thành công về nhiều mặt song vẫn còn nhiều những hạn chế cần phải khắc phục. Biểu hiện ở các vấn đề cụ thế sau: Thứ nhất về vấn đề con người trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngay từ những ngày đầu của tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Đảng và nhà nước ta đã coi sự nghiệp phát triển con người là vấn đề cấp bách hàng đầu. Trải qua gần 20 năm đổi mới từ chỗ có 5,1% số dân không biết chữ vào năm 1997 cho đến nay về cơ bản chúng ta đã phổ cập được tiểu học trong toàn quốc và đang từng bước tiến tới phổ cập trung học cơ sở trong những năm sắp tới.Bên cạnh đó theo thống kê vào ngày 1/7/2004 trong cả nước tỉ lệ lao động đã qua đào tạo đạt mức 22,5% tăng 1,5% so với cùng kì năm trước và trong tổng số công nhân kĩ thuật đã có 11,7 nghìn có trình độ tiến sĩ và 25,9 nghìn thạc sĩ như vậy trung bình cứ 1000 lao động thì có 1,2 tiến sĩ, 2,5 thạc sĩ và 89,5 cử nhân .Tuy nhiên những số liệu thống kê nói trên chỉ là bề nổi của bức tranh lao động Việt Nam bởi so với những con số về tỉ lệ lao động đã qua đào tạo mà chúng ta đã dự kiến như 30% vào năm 2005 và 40% vào năm 2010 thì tỉ lệ 22,5% là còn quá nhỏ và việc đạt được mục tiêu là gần như không thể thực hiện được.Ngoài ra nếu coi tốt nghiệp cao đẳng trở lên là một tỉ số thì tỷ số các cấp trình độ tốt nghiệp cao đẳng,đại học/trung học chuyên nghiệp/đào tạo nghề như sau:1/0,98/3,02-một con số bất hợp lí so với tỷ số của các nước là:1/4/10, trong khi đó thì tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” vẫn đang có xu hướng phát triển.Theo đánh giá của Tổ chức Quốc tế về chất lượng nguồn nhân lực thì Việt Nam đạt 3,79/10 thua kém xa so với các nước trong khu vực như: Thái Lan: 4,04., Philippin:4,53.,Malaisya:5,59và Trung Quốc là 5,93.Những con số đáng lo ngại nói trên cho chúng ta thấy rằng cần phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá hơn nữa để đầu tư nhiều hơn cho giáo dục nước nhà và sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam. Thứ hai về vấn đề khoa học công nghệ. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và tự động hoá dây chuyền sản xuất giữ một yếu tố quyết định đối với việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá.Tuy nhiên hiện nay vấn đề nay ở nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế đặc biệt là trong việc vận hành và sử dụng công nghệ sao cho có hiệu quả.Đi lên từ một nền sản xuất nhỏ việc tiếp cận với các tiến bộ của khoa học kĩ thuật đối với công nhân nước ta cũng là một vấn đề khá khó khăn.Bên cạnh đó ở nước ta việc nhập khẩu các dây chuyền công nghệ thường theo kiểu đồng bộ nhưng lại không có sự chọn lựa và tìm hiểu kĩ càng vì thế nhiều dây chuyền có trị giá hàng triệu USD nhưng chưa qua sử dụng đã mất hết giá trị gây lãng phí hàng chục tỷ đồng của nhà nước.Ngoài ra về số lượng phát minh sáng chế tính trên đầu người ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế chỉ bằng 1/11 của Trung Quốc và bằng 1/88 của Singapore. Khoa học công nghệ đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ vũ bão vì thế vấn đề trước mắt đặt ra với chung ta là làm sao có thể tận dụng tối đa các công nghệ của nước ngoài và làm sao phát huy tối đa sự sáng tạo của con người Việt Nam để tích phục vụ tích cực hơn nữa cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Thứ ba vấn đề nguồn vốn. Vốn đầu tư của nước ta có 3 nguồn chính là vốn khu vực Nhà nước,vốn khu vực ngoài quốc doanh và vốn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong đó ngoài nguồn vốn huy động từ trong nước thì vốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức(ODA) là rất quan trọng.Bên cạnh nguồn vốn FDI đang có dấu hiệu tăng tích cực trong những năm vừa qua :riêng trong 2 tháng đầu năm nay cả nước đã cấp phép cho 60 dự án FDI,với tổng vốn đầu tư đăng kí khoảng 1,3 tỷ USD tăng hơn 70% so với cùng kì năm ngoái thì với nguồn vốn ODA thì trong số 20 tỷ USD đã được hợp thức hoá thì chỉ có khoảng 14 tỷ USD mới được giải ngân còn tới gần 6 tỷ USD còn tồn đọng.Điều nay đã mang lại những thách thức đối với chúng ta trong giai đoạn tiếp theo là làm thế nào để có thể tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của các nước khác đồng thời sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được để tiếp tục phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước nhà Với các khó khăn thách thức đặt ra với đất nước ta trong thời đại ngày nay nói trên chúng ta càng thấy rõ vai trò của việc đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết đối với tình hình nước ta hiện nay. 1.2.2.Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Đất nước ta đang trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội vì thế việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kì này trong đó phải làm sao cho công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,có văn hoá và có khoa học tiên tiến.Muốn thực hiện nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá,tức là chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp. Chúng ta biết rằng chủ nghĩa xã hội là hình thái xã hội tiến bộ nhất mà ở đó quan hệ sản xuất chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chính .Quan hệ sản xuất ấy đòi hỏi phải có một lực lượng sản xuất phù hợp với nó làm cho xã hội ngày càng phát triển.Đối với nước ta đi lên từ một nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học công nghệ còn vô cùng thấp kém thêm vào đó là lối sốâng và làm việc theo nền sản xuất nhỏ còn im đậm trong lối làm lối nghĩ của người lao động.Vì thế để lực lượng sản xuất có thể phù hợp với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới đòi hỏi cần có một quá trình phát triển và tích luỹ lâu dài .Và công nghiệp hoá chính là con đường ngắn nhất và tất yếu phải qua đối với chúng ta để có được tiềm lực kinh tế vững mạnh và ổn định. Và tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với nước còn được thể hiện ở chỗ trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ , trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển rất nhanh chóng với những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ quan., có nhiều thời cơ và cung nhiều nguy cơ.,vừa tạo vận hội mới vừa cản trở thách thức nền kinh tế của chúng ta đan xen với nhau, tác động lẫn nhau.Vì thế chủ động sáng tạo xây dựng và đẩy nhanh công nghiệp hoá la việc làm cần thiết đối với nước ta trong tình hình hiện nay. 1.3. Vai trò và những tác dụng to lớn của quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hóa ở nước ta. Quá trình tiến hành công nghiệp hoá nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. công nghiệp hoá – hiện đại hoá là quá trình cải biến xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp gắn với việc hình thành quan hệ sản xuất mới : quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá là một quá trình tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết về con người và về khoa học công nghệ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động, sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả;không ngừng tăng năng suất lao động,nâng cao đời sống vật chất, văn hoá,xã hội của nhân dân; thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá sẽ tạo ra cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, từ đó từng bước củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho nền sản xuất xã hội không ngừng phát triển, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về mặt kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Công nghiệp hoá tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật để biến đổi về chất của lực lượng sản xuất, nhờ đó nâng cao vai trò của con người và con người là nhân tố trung tâm của thời đại ngày nay. Mặt khác nó tạo ra điều kiện để xây dựng, phát triển nền văn hoá đậm bản sắc dân tộc. Nền kinh tế tăng trưởng và phát triển nhờ thành tựu công nghiệp hóa mang lại, là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là tăng cường quyền lực và sức mạnh, tăng cường hiệu quả của bộ máy quản lý Nhà nước; nâng cao năng lực tích lũy, tạo công ăn việc làm,khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân. Công nghiệp hoá còn tạo tiền đề vật chất vật chất để xây dựng, phát triển và tăng cường củng cố nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá – kinh tế – xã hội. Công nghiệp hoá – hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó thực hiện tốt sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lí theo phương châm chuyên canh tập trung, làm quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở nên thống nhất cao. Do vị trí và tầm quan trọng của các vai trò và tác dụng nói trên của công nghiệp hoá – hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, nên qua tất cả các kì đại hội Đảng ta luôn xác định công nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 2.1. Mục tiêu và quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. 2.1.1. Mục tiêu của công nghiêp hóa – hiện đại hóa. Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá của nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để tiến đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” 1 Theo tinh thần của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ở đây, nước công nghiệp cần được hiểu là một nước có nền kinh tế mà trong đó lao động công nghiệp trở thành phổ biến nhất trong các nghành và các lĩnh vực của nền kinh tế. Tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP cả về lực lượng lao động đều vượt trội hơn so với nông nghiệp. Mục tiêu của công nghiệp hoá – hiện đại hóa có ý nghĩa lớn lao, như vậy nó phải được thực hiện triệt để, sâu rộng trong toàn nhân dân. Có nghĩa là phải tập trung mọi lực lượng trong nhân dân, khuyến khích phát triển nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích mọi doanh nghiệp, các cá nhân trong và ngoài nước cùng tham gia vào sự nghiệp chung góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước như lời tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát biểu tại Hội nghị lần thứ VI ban chấp hành TW Đảng VIII: “ Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp phát huy hoá – hiện đại hóa đất nước, nắm vững lợi thế kinh tế, dựa vào sức mạnh nội lực, cao độ nỗ lực của mọi người, mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế; nắm thời cơ, tranh thủ nguồn lực bên ngoài vựot qua khó khăn thách thức, giữ vững ổn định và phát triển kinh tế xã hội, từng bước tạo điều kiện cần thiết cho sự phát triển nhanh và bền vững khi có điều kiện” Điều kiện quan trọng ở đây là: “ phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhưng trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước”. Đây chính là một bài học quan trọng mà Đảng ta rút ra sau mười năm đổi mới, Sở dĩ chúng ta giành được những thắng lợi khả quan sau mười năm đổi mới, ngoài những bài học khác thì một phần nhờ vào việc Đảng ta xác định chính sách kinh tế đúng đắn. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường tuy có nhiều ưu thế, tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế – xã hội nhưng đồng thời nó cũng cõ những mặt tiêu cực, khuyết tật ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế – xã hội như hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép lẫn nhau, phân hoá giàu nghèo dẫn đến khủng hoảng hoặc gây rối loạn xã hội, làm cho nền kinh tế phát triển không ổn định, gắn liền với hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội…Vì thế nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó Nhà nước phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô nhằm phát huy tính tích cực đi đôi với ngăn ngừa và hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau làm chệch hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. 2.1.2. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá – hiện đại hóa. Từ thực tiễn tiến hành công nghiệp hoá trước đây, căn cứ vào tình hình hiện nay cũng như những yêu cầu của công nghiệp hoá – hiện đại hoá trong thời kì đổi mới. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hoá phải được tiến hành theo những quan điểm của Đảng sau: Giữ vững độc lập dân tộc đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, kết hợp với nguồn lực bên ngoài trên cơ sở xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập khu vực, thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân, của các thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng cường kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá – hiện đại hoá, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở khâu quyết định. Lấy lựa hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có, dựa trên quy mô vừa và nhỏ, công nghiệp tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh trong quá trình đầu tư, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả trong việc bố trí nguồn nhân lực cho các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm đồâng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu cần thiết cho mọi vùng. Kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh. Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải gắn hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong từng bước phát triển. 2.2.. Đặc điểm công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nhằm cải tiến xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Vì trên thế giới hiện nay đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Một số nước phát triển đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức: Mỹ, Anh, Nhật…Vì vậy nước ta phải tiến hành công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá, phải biết tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, tiếp cận với kinh tế tri thức để thực hiện hiện đại hoá nhiều nghành, nhiều khâu, nhiều lĩnh vực có điều kiện phát triển nhảy vọt vì nếu không làm như vậy thì chúng ta sẽ tụt hậu xa hơn so với các nước khác Công nghiệp hóa nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là tất yếu đối với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau. Ở nước ta, công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa với hai công cụ quan trọng: kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế và chức năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước nên quá trình công nghiệp hoá diễn ra trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Do đó quá trình công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay khác với quá trình công nghiệp hóa trong thời kì trước đổi mới. Thời kì trước đổi mới nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hành chính, bao cấp. Công nghiệp hóa được thực hiện theo phương hướng của Nhà nước nên vẫn còn nhiều hạn chế, không huy động được hết nguồn lực của Nhà nước và của nhân dân. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng công nghiệp hoá không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước mà đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường. Công nghiệp hóa – hiện đại hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế và dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín mà phải mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Nếu chúng ta biết vận dụng những thành tựu của thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện “ chiến lược kinh tế mở”có thể hoàn thành nhanh. Bên cạnh đó, công nghiệp hoá trong điều kiện “chiến lược kinh tế mở” cũng gặp không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Hiện nay chủ nghĩa tư bản tuy có thay đổi hình thức áp bức, bóc lột nhưng vẫn không hề thay đổi bản chất, vẫn là nguyên nhân gây ra sự đói nghèo cho các nước chậm phát triển và là nguồn gốc gây ra nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới. Sự đói nghèo làm cho các nước chậm phát triển không thể có độc lập thực sự. Vì thế công nghiệp hóa – hiện đại hoá phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập tự chủ tự cường. 2.3. Thực trạng công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta trong những năm vừa qua. 2.3.1. Những thành tựu đã đạt được. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) là một điểm mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thay đổi toàn diện trong cách nghĩ cách thực hiện của chúng ta với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. Sau cơn suy thoái (1980-1990) từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đang đi vào trạng thái phát triển với tốc độ tương đối cao. Cơ cấu GDP đang chuyển dịch theo hướng có lợi :nếu như năm 1991 nông nghiệp và thuỷ sản đóng góp 40,49% trong tổng số GDP và của công nghiệp- xây dựng và dịch vụ lần lượt là 23,79%và 35,72% thì đến năm 2003 đã có sự biến động lớn đó là nông nghiệp thuỷ sản chỉ còn chiếm 22,54% trong khi công nghiệp –xây dựng và dịch vụ lần lượt chiếm 39,46% và 38% và cho tới năm 2004 vừa qua các con số này ước đạt lần lượt như sau 21,76%.,40,09%và 38,15%. Điều này cho thấy sự chuyển dịch tiến bộ trong cơ cấu nghành thể hiện sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với nền kinh tế của nước nhà. Riêng đối với nghành công nghiệp giá trị sản xuất công nghiệp đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp trong toàn nghành tăng 16% trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước ở trung ương tăng 13% .,ở địa phương tăng 12%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,1%. Việc thu hút vốn đầu tư cũng thu được nhiều kết quả khả quan: từ năm 1988 cho tới năm 2003 ước tính ta đã thu hút được khoảng 47845,5 triệu USD trong đó riêng công nghiệp và xây dựng đã đạt 25503,9 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Những con số nói trên cùng rất nhiều các con số khả quan khác đã cho thấy chúng ta đang đi đúng hướng trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đã và đang gặt hái được nhiều thành công trong tiến trình xây dựng đất nước. 2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại. Bên cạnh những thành tựu nổi bật đã nêu ở trên thì quá trình công nghiệp hoá - hiên đại hoá ở nước ta cũng còn tồn tại nhiều hạnh chế cần sớm được giải quyết và khắc phục nhanh chóng. Trước hết đó là hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn còn nhiều bất cập nhiều dự án đầu tư chỉ tồn tại trên giấy hoặc thực hiện dang dở kém chất lượng gây lãng phí hàng nghìn tỉ đồng. Thủ tục hành chính rườm rà là rào cản không nhỏ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó là việc nguồn vốn đầu tư hầu hết chỉ tập trung vào một số khu vực nhất tạo ra sự mất cân đối trong phát triển nền kinh tế kể từ năm 1988 cho tới năm 2003 chỉ riêng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã là19794,7triệu USD trong tổng số vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam chiếm tới hơn 40% của cả nước. Tiếp đó là những hạn chế trong lĩnh vực khoa học công nghệ: trong những năm gần đây sản lượng dầu chúng ta khai thác được là không nhỏ nhưng lại không hề có khả năng sử lí và chế biến, nhà máy lọc dầu Dung Quất xây xong nhưng lại không thể đi vào hoạt động điều này đã làm cho nước ta phải nhập khẩu rất nhiều dầu đã qua chế biến từ nước ngoài chụi nhiều ảnh hưởng do biến động bất thường của thị trường dầu mỏ thế giới, lãng phí rất nhiều ngoại tệ. Một số các hạn chế cơ bản trên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung. 2.4. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa – hiện đại hoá trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dựa trên những mục tiêu, quan điểm của Đảng ta về quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được cùng với những hạn chế còn tồn tại trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá – hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã đề ra nội dung cơ bản c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0478.doc
Tài liệu liên quan