Cơ hội và thách thức của ngành bán lẻ Việt Nam trước ngưỡng của WTO

Lời nói đầu : Cácdoanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh phải có những vị trí nhất định , chiếm lĩnh những thị phần nhất định . Đây là điều kiện duy nhất duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp đó trong thị trường . Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn bị các đối thủ khác bao vây .Vì vậy để tồn tại các doanh nghiệp phải vận động và biến đổi ít nhất là ngang bằng với đố thủ cạnh tranh . Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO thì các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cơ hội và thách thức của ngành bán lẻ Việt Nam trước ngưỡng của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Ngành bán lẻ Việt Nam là một trong những ngành mở cửa đầu tiên theo lộ trình gia nhập WTO , vì vậy phát triển ngành là hết sức quan trọng và có ý nghĩa sống còn với các doanh nghiệp . Bài viết của tôi chỉ tập trung nói về những cơ hội và thách thức của ngành bán lẻ Việt Nam trước ngưỡng của WTO .Bài viết gồm nhưng phần chính sau :(Trang) Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam(1) Môi trường kinh doanh ở Việt Nam nhìn từ 10 tiêu chí (4) XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM (8) phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam (13) Định vị ngành bán lẻ Việt Nam(19) Bán lẻ Việt Nam: Bắt tay hay sống lay lắt? (21) Thị trường bán lẻ đang hấp đẫn (23) Thấy gì từ thị trường bán lẻ Việt Nam ?(26 Định hướng thương hiệu cho ngành bán lẻ Việt Nam (30) Cạnh tranh với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài: Cần chuyên nghiệp hóa kênh phân phối hàng hóa (35) Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tiến trình đàm phán gia nhập của Việt Nam I. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO): Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) ra đời ngày 1/1/1995. Tiền thân của WTO là Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), thành lập 1947. Trong gần 50 năm hoạt động, GATT là công cụ chính của các nước công nghiệp phát triển nhằm điều tiết thương mại hàng hóa của thế giới… WTO là kết quả của vòng đàm phán Uruguay kéo dài 8 năm (1987 – 1994), để tiếp tục thể chế hóa và thiết lập trật tự mới trong hệ thống thương mại đa phương của thế giới cho phù hợp với nhứng thay đổi mạnh mẽ đang diễn ra trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia. Về cơ bản, WTO là sự kế thừa và phát triển của GATT. Sự ra đời của WTO giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực dệt may và nông nghiệp. Với 152 thành viên (tính đến tháng 25/1/2008), WTO là tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra các quy tắc, luật lệ điều tiết quan hệ thương mại giữa các quốc gia. Khối lượng giao dịch giữa các thành viên WTO hiện chiếm trên 98% giao dịch thương mại quốc tế. Chức năng chính của WTO: Là diễn đàn thương lượng về mậu dịch theo hướng tự do hoá thương mại thông qua việc loại bỏ các rào cản trong thương mại; Đưa ra các nguyên tắc và cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế do các nước thành viên thương lượng và ký kết với mục đích đảm bảo thuận lợi hóa thương mại giữa các thành viên WTO; Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên; Giám sát việc thực hiện các Hiệp định trong khuôn khổ WTO. Phạm vi điều tiết: Hạt nhân của WTO là các hiệp định thương mại hoặc “liên quan tới thương mại" được các thành viên WTO thương lượng và ký kết. Các hiệp định này là cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế, bao gồm Hiệp định về các lĩnh vực nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, dệt và may mặc, hàng rào kỹ thuật trong thưong mại, đầu tư, chống bán phá giá, xác định trị giá tính thuế hải quan, giám định hàng hóa trước khi xếp hàng, quy tắc xuất xứ, thủ tục cấp phép nhập khẩu, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp... Đây là những hiệp định mang tính ràng buộc, các chính phủ phải duy trì chính sách thương mại trong những giới hạn đã thỏa thuận. Các nguyên tắc chính của WTO: - Không phân biệt đối xử (một nước không được phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại của mình dành quy chế tối huệ quốc – MFN cho tất cả các thành viên WTO; không được phân biệt đối xử giữa các sản phẩm, dịch vụ và công dân của nước mình và nước ngoài - tất cả phải được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia - NT); - Thúc đẩy thương mại tự do hơn (thông qua thương lượng loại bỏ các hàng rào cản thuế quan và phi thuế quan); - Đảm bảo tính ổn định/tiên đoán được bằng các cam kết minh bạch hoá (các công ty, các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài phải được đảm bảo rằng, các rào cản thương mại, kể cả thuế, các rào cản phi quan thuế và các biện pháp khác, không được nâng lên một cách độc đoán; ngày càng có nhiều mức thuế và cam kết mở cửa thị trường mang tính ràng buộc tại WTO); - Thúc đẩy cạnh tranh công bằng (bằng cách loại bỏ các hoạt động mang tính "không công bằng" như trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá nhằm tranh giành thị phần); - Khuyến khích cải cách và phát triển kinh tế: Các nước đang phát triển chiếm ¾ thành viên của WTO. WTO có các qui định dành cho các nước này nhiều thời gian hơn, điều kiện linh hoạt hơn và một số ưu đãi đặc biệt hơn để điều chỉnh nền kinh tế trong quá trình thực hiện các cam kết tự do hoá của mình. Tuy nhiên, việc chiếu cố này không phải mặc nhiên, mà có được là trên cơ sở đàm phán với các thành viên WTO. II. Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO tháng 1/1995. Năm 1996, tại WTO, Nhóm Công tác (WP) về Việt Nam gia nhập WTO được thành lập với sự tham gia của trên 20 nước (hiện nay con số này là gần 40). Từ năm 1996 đến 2001, đàm phán tập trung chủ yếu vào việc làm rõ chế độ và chính sách thương mại của ta, với việc ta phải trả lời hơn 2000 câu hỏi có liên quan đến chính sách thương mại, kinh tế, đầu tư. Đến tháng 8/2001, ta chính thức đưa ra Bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Ininitial Offer) để bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên Ban Công tác. Về đàm phán song phương: Với việc ta và Hoa Kỳ ký thỏa thuận chính thức kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO của Việt Nam (TP Hồ Chí Minh, ngày 31/5/2006), ta đã chính thức hoàn tất đàm phán với toàn bộ 28 đối tác yêu cầu đàm phán với ta. Ta đang tích cực vận động Quốc hội Hoa Kỳ sớm thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam. Về đàm phán đa phương: Đến nay, ta đã tiến hành 15 Phiên họp với Nhóm Công tác về Việt Nam gia nhập WTO. Từ Phiên 9 (tháng 12/2004), ta cùng với Ban Công tác đã bắt đầu xem xét và thảo luận Dự thảo Báo cáo (DR) của Nhóm Công tác. Tại các Phiên 14 và 15 (10/2006), ta đã giải quyết được toàn bộ các vấn đề đa phương còn tồn đọng giữa Việt Nam với một số đối tác, hoàn tất về cơ bản đàm phán gia nhập WTO, hoàn chỉnh toàn bộ các tài liệu, chuẩn bị cho phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng WTO xem xét, thông qua việc gia nhập của Việt Nam sẽ được tổ chức vào ngày 7/11/2006. Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm sẽ dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ ta tham dự Lễ kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Tại Lễ gia nhập ngày 7/11/2006, Phó Thủ tướng và các thành viên WTO sẽ chứng kiến việc ký Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy. Sau đó, văn kiện này sẽ được trình lên Quốc hội để xem xét thông qua và gửi lại cho Ban thư ký WTO. 30 ngày kể từ sau khi Ban thư ký WTO nhận được văn bản phê chuẩn này của Quốc hội Việt Nam, Việt Nam sẽ trở thành thành viên chính thức của WTO. Đến ngày 11- 1 – 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO . Tin từ Vụ KTĐP-BNG và các báo ĐT, Môi trường kinh doanh ở Việt Nam nhìn từ 10 tiêu chí : Mỗi năm, Ngân hàng Thế giới (WB) lại công bố các báo cáo nghiên cứu về mức độ thuận lợi môi trường kinh doanh của từng quốc gia dựa trên việc rà soát những quy định pháp luật thúc đẩy hoặc kìm hãm các hoạt động kinh doanh trong từng lĩnh vực của quốc gia. Ngày 26/9, WB đã công bố Bảng xếp hạng môi trường kinh doanh các nước trên thế giới. Báo cáo của WB năm nay đánh giá môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có những cải thiện đáng khích lệ nhưng vẫn đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2008 (Doing Business 2008) của WB chỉ đánh giá mức độ cải cách trong mỗi lĩnh vực chứ không phải hiện trạng của lĩnh vực đó. Môi trường kinh doanh mà nhà đầu tư gặp phải khi làm ăn tại một nước được WB đánh giá theo 10 tiêu chí, từ lúc bắt đầu thành lập một doanh nghiệp cho đến khi giải thể doanh nghiệp. Mỗi tiêu chí được đánh giá theo một số chỉ số và so sánh với các quốc gia khác để xếp hạng Tính tổng thể, Việt Nam xếp hạng 91 trong 187 nền kinh tế được khảo sát và thăng hạng 13 bậc so với xếp hạng năm trước. Trong 10 tiêu chí xếp hạng chỉ có 5 tiêu chí có thứ hạng cao hơn năm ngoái; một tiêu chí không đổi và 4 tiêu chí còn lại đều tụt hạng. Tiêu chí 1: Thành lập doanh nghiệp Để khởi sự một doanh nghiệp, nhà kinh doanh phải trải qua 11 bước thủ tục, mất 50 ngày và một khoản chi phí tương đương với 20% thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên, Việt Nam đã tiến hành một số cải cách nhằm giảm thời gian thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam nhưng chưa được báo cáo cập nhật. Luật doanh nghiệp mới có hiệu lực tháng 7/2006 giảm số ngày cấp phép đăng ký kinh doanh ở Việt Nam nhưng cải cách này chưa được phản ánh trong chỉ số tương ứng của Việt Nam năm nay. Việc thực hiện quy trình một cửa tiến hành tháng 3/2007 với 3 bước chính trong thủ tục thành lập doanh nghiệp là giấy đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế, và giấy phép khắc dấu cũng chưa được đưa vào báo cáo năm nay. Vì vậy, chỉ số “Thời gian thành lập doanh nghiệp của Việt Nam” vẫn giữ nguyên 50 ngày như năm ngoái. So với năm ngoái, vị trí của Việt Nam không thay đổi vẫn ở hạng 97. Tiêu chí 2: Cấp giấy phép Các bước thủ tục, thời gian và chi phí bỏ ra để giải quyết các giấy phép hoạt động kinh doanh trong ngành xây dựng ở Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực. Nhà đầu tư mất 14 bước thủ tục, 194 ngày và 373,6% thu nhập bình quân đầu người, trong khi mức bình quân toàn khu vực là 185% mức thu nhập bình quân; thậm chí nước láng giềng Thái Lan chỉ là 10,7%. Bức tranh về giấy phép ở Việt Nam đã tụt 38 bậc từ hạng 25 xuống hạng 63. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, đây là thứ hạng trung thực hơn so với năm ngoái bởi vì vấn đề giấy phép trên thực tế vẫn đang đặt ra nhiều khó khăn cho Việt Nam hiện nay Tiêu chí 3: Tuyển dụng và sa thải lao động Những khó khăn khi thuê mướn và sa thải công nhân, tập trung ở 6 yếu tố: độ khó khi thuê người, tính khắt khe của giờ làm việc, độ khó khi sa thải lao động, độ khắt khe trong chế độ thuê lao động, chi phí tuyển dụng (tỷ lệ so với tiền lương) và chi phí sa thải (số tuần lương phải bồi hoàn) So sánh với các nước trong khu vực, tuyển dụng lao động ở Việt Nam dễ dàng. Tuy nhiên, việc sa thải lao động ở Việt Nam khó khăn hơn và được xếp ở gần như nhóm khó khăn nhất. Cụ thể, độ khó trong việc sa thải lao động ở Việt Nam là 40%, chi phí sa thải lao động là 87 tuần lương. Tiêu chí 4: Đăng ký tài sản Doanh nghiệp có dễ dàng bảo đảm quyền sở hữu tài sản hay không? Ở Việt Nam doanh nghiệp cần trải qua 4 bước thủ tục, mất 67 ngày và tốn 1,2% giá trị tài sản để có được sự bảo đảm này. Tuy nhiên, so với các nước đứng đầu trong bảng xếp hạng doanh nghiệp Việt Nam vẫn mất nhiều thời gian đăng ký tài sản. Ngoài ra, vẫn còn một số vấn đề bất cập trong lĩnh vực này: giao dịch không chính thức vẫn khá phổ biến, quy trình hợp thức hoá hiện còn khó khăn. Quản lý đất đai chưa hiệu quả nên việc doanh nghiệp thiếu chứng nhận sở hữu đất đai và tài sản là khá phổ biến. Tiêu chí 5: Vay vốn Tiêu chí này xem xét các mức độ quyền lợi theo luật định của người vay và người cho vay, mức độ đầy đủ của thông tin tín dụng, độ phủ của đăng ký công cộng và tư nhân. Ở Việt Nam, năm nay mức độ của quyền lợi theo luật định này được tăng thêm hai điểm 6/10, nghĩa là sự tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp đã dễ dàng hơn. Tuy nhiên, báo cáo cũng cho thấy Việt Nam cần phải cải thiện trong lĩnh vực thông tin tín dụng. Hiện nay, ở Việt Nam, thông tin về độ tin cậy tín dụng của cá nhân cũng như công ty không được chia sẻ và các tổ chức đăng ký thông tin tín dụng tư nhân chưa phát triển. Nếu không có các dữ liệu về độ tin cậy tín dụng, ngân hàng sẽ rất e ngại việc cho vay, và vì thế việc tiếp cận tín dụng sẽ bị hạn chế. Việt Nam đang xúc tiến việc xây dựng tổ chức đăng ký thông tin tín dụng tư nhân. Khi tổ chức này được hình thành và các điều kiện pháp lý cần thiết cho hoạt động của nó được ban hành chắc chắn sẽ giúp cho việc tiếp cận thông tin tín dụng ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Tiêu chí 6: Bảo vệ nhà đầu tư Tâm lý ngần ngại khi đầu tư vào Việt Nam thể hiện trong các chỉ số này. Tiêu chí 6 xem xét ba phương diện bảo vệ nhà đầu tư gồm có tính minh bạch trong giao dịch, trách nhiệm pháp lý của giám đốc và khả năng của cổ đông kiện các nhà quản trị có hành vi sai trái. Tính tổng thể Việt Nam chỉ đạt 2,7/10. Chỉ số về trách nhiệm của giám đốc nằm trong nhóm thấp nhất thế giới (0/10), quyền khiếu kiện của cổ đông và tính minh bạch đều thấp (2/10 và 6/10). Năm nay, thứ hạng của tiêu chí này là 165/178. Tiêu chí 7: Đóng thuế Theo báo cáo, các doanh nghiệp Việt Nam thuộc nhóm tiêu tốn nhiều thời gian nhất để đáp ứng các yêu cầu về thuế. Nhưng thủ tục thuế nhiêu khê, làm mất nhiều thời gian của doanh nghiệp là vấn đề đáng lưu ý. Bình quân doanh nghiệp phải nộp 32 lần và mất 1.050 giờ làm việc trong khi ở Indonesia là 266 giờ làm việc. Tiêu chí 8: Thương mại quốc tế Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ở Việt Nam đã cải thiện nhiều, chi phí và thủ tục đã giảm nhưng vẫn còn mất thời gian. Để xuất một container hàng, doanh nghiệp phải có sáu loại hồ sơ, mất 24 ngày và tốn 669 USD. Trong khi đó, Trung Quốc chi phí thời gian không thấp hơn Việt Nam là 21 ngày nhưng chi phí tiền bạc lại thấp hơn đáng kể, chỉ 390 USD. Tương tự để nhập khẩu một container, doanh nghiệp cần có 8 loại hồ sơ, mất 23 ngày và 881 USD. Việc phải chịu chi phí cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực đang gây ảnh hưởng không nhỏ cho tính cạnh tranh của Việt Nam. Năm nay, Việt Nam xếp hạng trung bình 63/178. Tiêu chí 9: Thực thi hợp đồng Ở Việt Nam, doanh nghiệp chỉ phải trải qua 34 bước thủ tục tốn 295 ngày và 31% giá trị món nợ là hợp đồng được thi hành. Với các chỉ số này năm nay Việt Nam đang ở vị trí 40/178. Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, Việt Nam không nên quá lạc quan về vị trí này bởi vì thực tế việc chấp hành thực thi các phán quyết của toà án vẫn chưa ổn, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, việc thu hồi nợ quá hạn đang là khó khăn lớn. Tiêu chí 10: Giải thể doanh nghiệp Việc giải quyết các trường hợp phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam còn kém hiệu quả, xếp hạng 121/178. Thủ tục phá sản phải mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài sản. Vì thế, rất ít doanh nghiệp tuân theo các quy định và thủ tục chính thức khi muốn đóng cửa hoạt động. Chi tiết của 10 tiêu chí đánh giá kể trên cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam được cải thiện nhiều so với trước đây và so với các nước láng giềng. Tuy nhiên, do các nước đang phát triển khác cũng đang tích cực thực hiện cải cách thậm chí nhanh hơn ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao Việt Nam dù thăng hạng trong bảng xếp hạng chung nhưng vẫn cần cải cách mạnh mẽ và liên tục hơn nữa. Thông điệp ở đây là: nếu không tiếp tục cải cách, các nước khác sẽ vượt lên. Bởi vì trên thực tế, ở Đông Nam Á, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn còn kém xa so với các nước Singapore (hạng 1), Thái Lan (15) và Malaysia (24), song tốt hơn nhiều so với Indonesia (123), Philippines (133), Campuchia (145). Quốc gia kinh tế lớn lân cận là Trung Quốc cũng “thăng hạng” trong lần đánh giá năm nay (từ hạng 93 lên 83). Đây chính là một cảnh báo cho thấy Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách nhanh hơn nữa, triệt để hơn nữa nếu muốn cạnh tranh về thu hút đầu tư. Nhận định chung của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước là Việt Nam không thể chỉ so sánh với chính mình mà phải nỗ lực cải cách triệt để trong bối cảnh các nước khác cũng đang cải cách mạnh mẽ mới mong cải thiện vị trí xếp hạng trong những năm sau XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM Cam kết quốc tế đối với dịch vụ phân phối : Cho đến tháng 3 năm 2005, nước ta đã có cam kết về mở cửa thị trường phân phối cho hai nước là Mỹ (BTA) và Nhật Bản (Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật), Việt Nam cũng đang tiến hành đàm phán về mở cửa thị trường phân phối trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO và trong 1-2 năm tới, nước ta cũng sẽ tham gia đàm phán về dịch vụ phân phối trong khuôn khổ các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác (ASEAN Cộng). Phạm vi cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) (có hiệu lực từ ngày 10/12/2001) về dịch vụ phân phối bao gồm 4 phân ngành chính của dịch vụ phân phối là bán buôn, bán lẻ, đại lý và nhượng quyền thương mại. Trong BTA, Việt Nam không cam kết về việc pháp nhân Mỹ được mở đại lý phân phối, dịch vụ nhượng quyền thương mại thực hiện cam kết theo tiến trình xây dựng pháp luật và quy định về nhượng quyền thương mại trong nước. Phương thức: Không cam kết Phương thức 1 (đồng nghĩa với việc kiểm soát phân phối theo đơn đặt hàng qua mạng) và 4 (không cam kết về việc công dân Mỹ vào Việt Nam để phân phối hàng độc lập). Không hạn chế Phương thức 2. Phương thức 3 có 3 mốc quan trọng: 10/12/2004: Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp không vượt quá 49% 10/12/2007: Cho phép thành lập liên doanh với vốn góp trên 49% nhưng chưa được 100%. 10/12/2008: Cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Việc mở thêm điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét cấp phép trên cơ sở từng trường hợp. Đến thời điểm này, có thể nói mức độ cam kết về dịch vụ phân phối dành cho các nhà đầu tư Nhật Bản trong Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật của nước ta là cao nhất, thậm chí còn cao hơn cam kết trong BTA. 3 mức vốn cam kết là 49%, hơn 49% và 100% sẽ được cho phép vào thời điểm Việt Nam cho phép bất kỳ nhà đầu tư của nước thứ 3 nào hoặc thời điểm cam kết của Việt Nam với bất kỳ nước thứ 3 nào có hiệu lực, tùy thời điểm nào diễn ra trước. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà phân phối Nhật hiện nay được phép vào Việt Nam với sự đối xử tương đương như với các Tập đoàn phân phối Pháp, Đức, Malaysia đã vào Việt Nam. Danh mục loại trừ bao gồm dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ, khí đốt, phân bón, thuốc trừ sâu, bia, rượu, thuốc lá điếu và xì gà, dược phẩm, kim loại và đá quý, chất nổ, gạo và bột mỳ (tổng cộng chỉ có 13 mặt hàng thấp hơn số lượng 18 mặt hàng loại trừ hoàn toàn trong BTA) Như vậy, với các cam kết quốc tế, Việt Nam sẽ từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các nước, trước hết là Mỹ và Nhật Bản, sau đó là các thành viên khác của WTO (sau khi gia nhập). Hiện nay Việt Nam trở thành thành viên WTO, bức tranh toàn cảnh về hệ thống phân phối trong nước đã rất sôi động, nổi bật là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các nhà phân phối nước ngoài. Làn sóng các nhà phân phối nước ngoài : Thời gian gần đây đã xuất hiện một làn sóng các nhà phân phối nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam-một thị trường năng động, dân số đông và trẻ hứa hẹn nhu cầu tiêu dùng lớn. Và cuộc đua kiểm soát kênh phân phối giữa các nhà phân phối trong và ngoài nước đã bắt đầu nhen nhóm và đã nổi lên trên hai lĩnh vực: dược phẩm và hàng tiêu dùng. Về dược phẩm, sau sự kiện Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), bất chấp hàng loạt chế tài mới và cam kết của các doanh nghiệp dược nước ngoài tại Việt Nam, giá thuốc lại rục rịch tăng. Các đại gia phân phối thuốc chuyển sang chiến lược tăng giá từ từ, mỗi ngày một ít. Điều này chứng tỏ, các biện pháp mạnh tay của Bộ Y tế đã chưa hoàn toàn phát huy tác dụng. Về hàng tiêu dùng, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã cấp phép cho ba Tập đoàn kinh doanh siêu thị nước ngoài là Metro Cash & Carry (Đức), Big C (Pháp) (Big Customer), Parkson (tập đoàn Lion Group-Malaysia). Metro mới được cấp phép kinh doanh bán buôn, Big C đã được cấp phép bán lẻ tại 4 siêu thị và Big C Thăng Long trở thành siêu thị bán lẻ lớn nhất Việt Nam với tổng số vốn đầu tư 12 triệu USD. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu của người dân sử dụng các loại hình phân phối hiện đại văn minh ở các thành phố lớn có xu hướng tăng lên, dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu các loại hình phân phối và các nhà phân phối nước ngoài đã nhanh chóng nắm bắt và đáp ứng được xu thế này. Người dân đã chán phong cách bán hàng nhỏ lẻ manh mún, chất lượng, giá cả không ổn định ở các điểm bán hàng nhỏ và các chợ và họ sẽ đổ xô đến các siêu thị lớn để mua hàng với cơ sở hạ tầng hiện đại, hàng hóa đa dạng, chất lượng giá cả ổn định và có nhiều hình thức khuyến mãi. Số lượng các điểm phân phối nhỏ lẻ sẽ giảm dần và được thay thế bằng các hình thức phân phối mới như siêu thị, trung tâm thương mại. Một câu hỏi được đặt ra về sự tồn tại của các chợ, cửa hàng quy mô nhỏ bán hàng tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên, trong vòng 10 năm tới, hình thức phân phối nhỏ lẻ vẫn giữ được vai trò của mình ngay cả trong các thành phố lớn do tập quán tiêu dùng của người Việt Nam và vị trí nằm sát khu vực có nhiều dân cư sinh sống do đó có thể bán hàng trực tiếp cho các hộ tiêu dùng. Phân phối qua mạng cũng đang thu hút được sự quan tâm vì những tiện ích đáng kể của nó. Hiện nay ở Việt Nam đang có một làn sóng phân phối trực tuyến vừa chính thức vừa ngầm nhưng rất mạnh mẽ, có vô số trang web tiếng Việt khác nhau thực hiện các giao dịch trên mạng. Nhượng quyền thương mại (franchising) cũng có nhiều tiềm năng phát triển với Trung Nguyên và Kinh Đô là 2 nhà tiên phong, mặc dù các nhà kinh doanh trong nước cũng chưa nhận thức được đầy đủ tính hai mặt của hình thức phân phối này. Nhìn chung, đối với những loại hình phân phối hiện đại, hiển nhiên đây là một thế mạnh của các nhà phân phối nước ngoài. Gần đây, tuy các nhà phân phối Việt Nam có nhiều động thái củng cố lại hệ thống của mình để chống lại áp lực cạnh tranh từ các nhà phân phối nước ngoài, nhưng đây có thể là một cuộc đua không cân sức vì các tập đoàn phân phối nước ngoài đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường các nước đang phát triển, nguồn vốn rất lớn; họ lại tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, tổ chức kinh doanh, thậm chí vận động hành lang rất bài bản và đưa ra giá bán buôn thấp hơn nhiều so với các nhà bán buôn trong nước, các dịch vụ bán hàng thuận tiện và các chương trình khuyến mại hấp dẫn. Việc thu hút số lượng lớn các khách hàng của các siêu thị và trung tâm thương mại có thể dẫn đến tình trạng phá sản dây chuyền của hàng triệu hộ cá thể buôn bán nhỏ lẻ, đe dọa đời sống của người dân. Sự mở rộng của hệ thống các siêu thị có thể dẫn tới các vấn đề về môi trường vì siêu thị là nơi tập trung các phương tiện đi lại của người dân nhất là vào các dịp cuối tuần. Sự phụ thuộc vào các Tập đoàn phân phối nước ngoài cũng có thể sẽ phải trả một giá đắt vì nó đe dọa cuộc sống của người nông dân và các hộ buôn bán nhỏ. Các siêu thị thường đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và chất lượng rất cao đối với người nông dân, nếu đáp ứng thì họ sẽ mua với khối lượng khổng lồ. Để đáp ứng được yêu cầu rất cao của các siêu thị, người nông dân phải đầu tư máy móc thiết bị, giống, phương pháp canh tác, nhưng họ lại không có vốn và phải đi vay ngân hàng, nếu các nhà phân phối nước ngoài không mua hàng, họ sẽ bị rơi vào tình trạng nợ nần chồng chất. Điều này không dễ dàng gì so với trước đó khi họ chỉ phải chuyển tất cả các nông sản làm ra với các hình thức khác nhau tới các chợ. Đối với hàng gia dụng và trang trí là mặt hàng có thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam, các tập đoàn phân phối nước ngoài thường áp dụng mức giá cao trong các đơn đặt hàng các sản phẩm gia công đồng thời cũng đặt ra các quy định ngặt nghèo về thời hạn giao hàng, sử dụng lao động, nguồn nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ. Có đối tác lo đầu ra, các doanh nghiệp nhỏ chỉ phải tập trung sản xuất, không phải lo các khâu bao bì, thiết kế, makerting, xây dựng hệ thống phân phối và tạo dựng thương hiệu nên họ rất ham. Lúc đầu, các nhà sản xuất ăn theo còn ăn nên làm ra, nhưng sau đó, phía nước ngoài càng giảm giá đặt hàng, các nhà sản xuất trong nước bị lỗ nặng. Tiền vốn đổi mới công nghệ theo yêu cầu của nhà phân phối nước ngoài lại là vay của ngân hàng, không bán được hàng nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản. Với vốn đầu tư lớn, mặt bằng kinh doanh rộng, hệ thống quản lý bán hàng, lưu kho, vận chuyển có tính ưu việt, các khâu logistics được thực hiện với độ chuyên nghiệp cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước; các tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ dần khống chế hệ thống phân phối nội địa. Tuy nhiên, việc tham gia của các tập đoàn phân phối quốc tế lớn trên thị trường Việt Nam cũng mang lại một số lợi ích. Sự xuất hiện của các đại siêu thị góp phần vào việc giải quyết tình trạng lao động trình độ trung bình dư thừa ở các thành phố lớn. Đặc biệt là ngành bán lẻ là một ngành tuyển dụng rất nhiều lao động nên có thể giảm bớt gánh nặng về công ăn việc làm cho chính quyền địa phương. Ngươi tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ các chương trình khuyến mại, được sử dụng hàng hóa có chất lượng ổn định, đảm bảo vệ sinh an toàn, các nhà phân phối trong nước có thể học hỏi được các kinh nghiệm quản lý điều hành tiên tiến từ nước ngoài. Nhà nước nhà quan sát hay trọng tài? Có thể nói, ngành phân phối là ngành rất nhạy cảm trong nền kinh tế nước ta vì nó ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu người bán hàng và hàng chục triệu người tiêu dùng, đặc biệt là hệ thống phân phối của một số mặt hàng thiết yếu. Ngay cả một số quốc gia có trình độ phát triển kinh tế cao như Nhật Bản, Ấn Độ cũng có xu hướng bảo hộ ngành phân phối của mình rất chặt chẽ. Ví dụ, hệ thống phân phối ở Nhật Bản được tổ chức theo kiểu khép kín giữa nhà sản xuất và các nhà bán buôn bán lẻ và có xu hướng bài ngoại, hàng hóa Nhật Bản xuất hiện khắp nơi trên thế giới nhưng hàng của các nước khác rất khó khăn để có thể len chân vào hệ thống phân phối của Nhật Bản. Mô hình quản lý hệ thống phân phối của các nước này có những ưu điểm mà ta có thể học tập vận dụng một cách chọn lọc. Ở trong nước, tốc độ tăng chóng mặt của chỉ số giá tiêu dùng kể từ đầu năm 2004 đến nay do có “đóng góp” của các “dịch sốt giá” của các mặt hàng nhạy cảm như thép xây dựng, xi măng, dược phẩm, thực phẩm đã đánh động các cơ quan chức năng cũng như Chính phủ. Các Bộ chuyên ngành, các Tổng công ty đã có nhiều động thái tích cực để xốc lại hệ thống phân phối nhằm bình ổn giá. Gần đây, Chính phủ còn có những biện pháp mạnh, kể cả đưa ra chế tài kỷ luật Lãnh đạo các Tổng Công ty phụ trách các mặt hàng thiết yếu, nhưng đây mới chỉ là các biện pháp tình thế vì chính các Tổng Công ty này cũng chưa thể kiểm soát được hệ thống phân phối của mình. Bộ Thương mại cũng đã tổ chức một số hội thảo, tọa đàm nhằm tìm biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối trong nước, tuy nhiên kết quả đạt được chưa rõ. Trên nguyên tắc, trong nền kinh tế hàng hóa, Nhà nước không thể quản lý hệ thống phân phối bằng các mệnh lệnh hành chính. Trước mắt, các cơ quan quản lý Nhà nước cần tạo ra một môi trường pháp lý công bằng, tạo điều kiện cho các nhà phân phối thuộc mọi thành phần kinh tế (trong đó có tư nhân và đầu tư nước ngoài) hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tránh tình trạng xuất hiện những nhà phân phối độc quyền cả trong nước và nước ngoài thao túng, lũng đoạn thị trường. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có một số ưu đãi về cho thuê đất, thuế ... để hỗ trợ cho các nhà phân phối trong nước, nắm cổ phần chi phối trong hệ thống phân phối của các mặt hàng thiết yếu với đời sống xã hội như xi măng, sắt thép, xăng dầu, dược phẩm, ... Các doanh nghiệp vừa nhỏ vốn chiếm đa số trong số các doanh nghiệp nước ta cần hoạch định chính sách phân phối tự chủ, không nên chỉ phụ thuộc vào một nhà phân phối nước ngoài để phân tán rủi ro. Hướng phát triển dịch vụ phân phối trong thời gian tới: Có thể đánh giá, ngành dịch vụ phân phối ở nước ta trong thời gian tới sẽ phát triển theo hướng sau: 1/ Các rào cản về việc gia nhập và rút khỏi hệ thống phân phối sẽ dần được loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế (WTO, BTA, Hiệp định bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt-Nhật, ASEAN Cộng) và các cải cách của chính phủ nhằm tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài. 2/ Sự thâm nhập ngày càng nhiều các Tập đoàn phân phối đa quốc gia trên thị trường Việt Nam, ngoài Big C, Metro Cash & Carry, Cora; nhiều khả năng sẽ có thêm Wal-mart của Mỹ, Carrefour của Pháp, các tập đoàn phân phối của Nhật, Trung Quốc, ... tạo nên một bức tranh đa dạng trong hệ thống phân phối trong nước. Hệ thống phân phối không còn là mảnh đất đặc quyền của các doanh nghiệp trong nước, buộc các doanh nghiệp trong nước phải động não chủ động tham gia nếu không muốn bị loại “ra rìa” 3/ Quá trình tích tụ và tập trung sẽ diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà phân phối trong nước tạo thành các chuỗi liên kết với các nhà sản xuất, các ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh (đại lý phân phối độc quyền cho thương hiệu Việt Nam, đặt các điểm giao dịch, máy ATM tại các siêu thị, chợ...). Một số nhà phân phối có tiềm lực sẽ mở rộng hoạt động phân phối ra nước ngoài thông qua liên doanh, liên kết với các tập đoàn phân phối nước ngoài hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thương mại của Việt Nam ở nước ngoài. Lực lượng người Việt Nam kinh doanh ở Nga và các nước Đông Âu cũng sẽ trở thành những mắt xích quan trọng trong hệ thống dây phân phối hàng “made in Viet Nam” nhưng mang thương hiệu quốc tế thay vì hàng Trung Quốc như hiện nay. Nhiều doanh nghiệp, các hộ nông dân, ngư dân, các làng nghề truyền thống do không đủ khả năng xây dựng hệ thống phân phối riêng sẽ tìm cách vươn ra thị trường thế giới bằng hình thức giao dịch điện tử. 4/ Phương thức phân phối truyền thống, mua đứt bán đoạn vẫn tồn tại song song với các hình thức phân phối hiện đại nhưng sẽ dần thu hẹp và suy yếu, các nhà phân phối trong nước sẽ trưởng thành và học hỏi được nhiều kinh nghiệm tổ chức quản lý và hiện đại hóa hệ thống của các nhà phân phối nước ngoài để tự củng cố hệ thống của mình. Người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ những cải cách này. Trước mắt, các Tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ tập trung vào mở các siêu thị bán buôn và bán lẻ, nhưng dân dần họ sẽ mở rộng sang các hình thức bán lẻ không có cửa hàng, chuyên kinh doanh bán hàng qua catalogue, điện thoại, internet, máy bán hàng và giao hàng._. tận nhà... Các hình thức này sẽ được du nhập, từng bước hình thành và phát triển ở nước ta. Các công ty sản xuất trong nước, đặc biệt là các công ty sản xuất và xuất khẩu nông thủy sản sẽ phân phối qua thị trường nước ngoài dưới các hình thức mới như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng chọn ... Tóm lại, hệ thống phân phối ở nước ta đang chuyển mình theo hướng hiện đại hóa nhưng vẫn còn mang nặng đặc điểm của một nền thương nghiệp quy mô nhỏ. Cùng với quá trình thực hiện các cam kết quốc tế và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, trên “sân chơi” sẽ xuất hiện nhiều “gã khổng lồ” đến từ nước ngoài, các loại hình phân phối cũng sẽ phát triển đa dạng. Trong bối cảnh đó, yếu tố sống còn quyết định sự tồn tại của hệ thống phân phối quốc gia là ý thức liên kết của các doanh nghiệp và vai trò hỗ trợ của Nhà nước. Sự liên kết giữa các nhà sản xuất, các nhà phân phối trong nước cộng với ý thức thay đổi trong phương thức kinh doanh tập hợp thành một khối, đủ sức làm đối trọng với các nhà phân phối nước ngoài. Nhà nước bên cạnh việc tìm biện pháp tổ chức lại hệ thống phân phối bán lẻ, cần phải có những quyết sách ưu đãi về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tập hợp các nguồn lực nhỏ lẻ thành hệ thống nhất quán, có chiều sâu. Nhưng hơn hết, Nhà nước cần phải khẳng định vai trò điều tiết thị trường theo hướng lành mạnh hóa, tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà phân phối không phân biệt thành phần kinh tế, đồng thời nắm các nhà phân phối lớn để có thể chủ động trước những biến động của thị trường. Phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam Một loạt sự kiện trong nước và thế giới đang diễn ra khẳng định một điều: người bán lẻ, người tiêu dùng Việt Nam đang là tâm điểm của thế giới kinh doanh hiện nay. Nhiều nhà đầu tư đang nhắm đến Việt Nam… Theo nhận định của Hội đồng Quốc tế Các trung tâm mua sắm (ICSC) năm 2006, Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng GDP đáng ngạc nhiên 8,2%, và hiện là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh thứ hai châu Á. Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỉ USD mỗi năm, Việt Nam hiện đứng vị trí thứ tư thế giới về cơ hội bán lẻ hấp dẫn sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Với tốc độ tăng trưởng 20%/năm, nhóm chi tiêu tiêu dùng lớn nhất đang ở tuổi 22 - 55, chiếm tới 70,29% dân số Việt Nam. Chi tiêu tiêu dùng tại Việt Nam dự kiến đạt 53 tỉ USD vào năm 2010. Dẫn đầu tiêu dùng hàng hi-tech Trong tuần qua, công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen công bố: Người tiêu dùng Việt Nam xếp thứ năm về chỉ số lạc quan tiêu dùng (Global Consumer Confidence Index). Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và tăng lên 1 điểm, trong khi chỉ số này trên toàn cầu giảm 2 điểm, chỉ còn 97 so với cuối năm 2006. Trong số 10 quốc gia lạc quan nhất về tình hình tài chính cá nhân, 72% người Việt Nam tham gia cho biết họ sẵn sàng bỏ tiền trang bị vật dụng kỹ thuật cao, các loại hình giải trí và quần áo mới. Khát khao sở hữu những phương tiện hiện đại của người Việt Nam đang dẫn đầu các quốc gia được khảo sát và cao hơn cả những nước đang phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil. Cuộc khảo sát chỉ số niềm tin diễn ra từ tháng 4 đến tháng 5 và phản ánh tâm lý người tiêu dùng trong 6 tháng đầu năm 2007. Với nhận định trên, chắc chắn Việt Nam sẽ là địa điểm phát triển bán lẻ lớn trong thời gian tới. Ông Tang Guan Heng, giám đốc ICSC châu Á - Thái Bình Dương cho rằng những điều kiện trên báo hiệu một cơ hội lớn cho sự phát triển và duy trì một thị trường bán lẻ thuận lợi. Cơ cấu bán lẻ tại Việt Nam sẽ có sự thay đổi lớn trong những năm sắp tới. Đây là thời điểm thuận lợi, cơ hội tốt cho các nhà đầu tư bán lẻ nước ngoài thâm nhập, mở rộng thị phần và tăng lợi nhuận tại đây. Theo một khảo sát về hành vi tiêu dùng của người Việt Nam được tiến hành vào tháng 4/2006, người tiêu dùng hiện nay cân nhắc kỹ trong việc chọn một nơi mua phù hợp. Về kênh bán lẻ, các siêu thị, cửa hàng chuyên, đại lý trở thành các kênh phân phối được đa số người tiêu dùng lựa chọn. Tăng tốc Các doanh nghiệp phân phối trong nước cũng không ngừng tăng tốc mở thêm nhiều siêu thị mới. Đến nay cả nước đã có 160 siêu thị và 32 trung tâm thương mại. Ông Ngô Văn Hải, phó giám đốc Công ty TNHH Đông Hưng, cho rằng việc “bùng nổ” hàng loạt siêu thị mới không chỉ ở các trung tâm thành phố lớn, mà còn lan rộng các tỉnh, thành. “Chúng tôi buộc phải chạy đua với thời gian, tìm chỗ “dừng chân” thích hợp trước thời điểm Chính phủ cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền mở siêu thị, trung tâm phân phối”, ông Hải nói. Gần đây Saigon Co-op cùng ba doanh nghiệp trong nước là Tổng công ty Thương mại Hà Nội (HAPRO), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn và Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái đã sáng lập Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) nhằm nâng cao sức cạnh tranh của Saigon Co-op. Hiện VDA đang khảo sát mặt bằng, triển khai các dự án đầu tư theo kế hoạch, liên hệ các địa phương xin quy hoạch và tìm địa điểm xây dựng trung tâm thương mại và nhà kho để không bị chậm chân. Triển vọng của ngành bán lẻ rất lớn nhưng bài toán cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt. Nâng cao chất lượng phục vụ, áp dụng công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại, hiệu quả để giảm chi phí vẫn là những bài toán khó cho các doanh nghiệp Việt Nam. (Vneconomy, 24/7/2007. Nguồn Sài Gòn tiếp thị) Hàng hóa tại các siêu thị phong phú giúp khách hàng dễ chọn mua mặt hàng mình cần. Ảnh chụp tại Siêu thị Sài Gòn. Có nhiều ý kiến cho rằng, ngoại trừ hệ thống phân phối xăng dầu đã được các bộ, ngành và doanh nghiệp triển khai khá tốt, thì các ngành hàng còn lại và ngay cả một thị trường bán lẻ rộng lớn, cho đến thời điểm này vẫn còn lúng túng khi bước vào một sân chơi mới. Phát triển tự phát, thiếu ổn định… Theo số liệu của Bộ Thương mại, tính đến cuối năm 2005, cả nước có 9.063 chợ ở nông thôn và 2.275 chợ ở khu vực thành thị. Cũng vào thời điểm này, cả nước đã có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động trên 30/64 tỉnh, thành. Theo tính toán, có khoảng 40% lượng hàng hóa lưu thông qua hệ thống phân phối truyền thống; 44% qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập; 10% qua hệ thống phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại; số còn lại là do các nhà sản xuất bán trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Riêng tại hai TP lớn là Hà Nội và TPHCM, lượng hàng lưu thông qua kênh phân phối hiện đại đã tăng từ 18% năm 2004 lên 23% trong năm 2005. Với thực tế nêu trên, nếu các nhà bán lẻ nước ngoài có vào VN thì thị phần đầu tiên họ sẽ phải giành là 10%. Bị cạnh tranh trực tiếp sẽ là các siêu thị, các trung tâm thương mại và các DN đang có hệ thống phân phối riêng của mình. Tuy nhiên, con số này sẽ nhanh chóng bị đảo ngược bởi theo dự báo của Bộ Thương mại, đến năm 2010 kênh phân phối hiện đại sẽ chiếm tỷ lệ khoảng 30%-40% và đến năm 2020 sẽ là 60%. Theo các chuyên gia, hệ thống bán lẻ của VN đã và đang bộc lộ rõ 3 điểm yếu rất cơ bản cần phải khắc phục ngay, đó là tài chính, hậu cần (logistics) và tính chuyên nghiệp. Ở yếu điểm đầu tiên thì khỏi cần bàn vì nguồn vốn của hầu hết các nhà phân phối trong nước hiện nay rất yếu. Về hậu cần, kinh doanh siêu thị ngoài việc đòi hỏi phải mạnh về vốn, nó còn đòi hỏi một hệ thống hậu cần chuyên nghiệp từ nhập hàng cho đến các khâu chứa hàng, dự trữ và bảo quản. Để làm tốt về hậu cần, hệ thống siêu thị Metro đã phải đầu tư 20-25 triệu euro để trang bị hệ thống cung ứng hàng. Theo đó, Metro cũng đã chi tới 800.000 euro cho công tác huấn luyện liên quan đến nghiệp vụ mua, trưng bày, bán hàng và cách bảo quản. Về tính chuyên nghiệp cũng đòi hỏi rất cao trong kênh phân phối hiện đại. Nói cách khác, làm việc không chuyên nghiệp thì sẽ không đạt hiệu quả cao. Bài học từ một số trung tâm thương mại của TP bị chết yểu như Nhật Nam, Trung tâm thương mại Sài Gòn Tourist đã minh chứng rất rõđiều này. Nhìn vào thực trạng của ngành bán lẻ của VN hiện nay, nhiều chuyên gia cũng nhưcácDN đều có chung nhận xét: nhỏ bé, phát triển tự phát và thiếu tính ổn định. Choáng vì tốc độ cấp phép : Trong khi thị trường phân phối trong nước còn bộc lộ khá nhiều yếu kém thì các tập đoàn nước ngoài mạnh về tài chính, dày dạn về kinh nghiệm quản lý đã bắt đầu đổ bộ vào VN. Chỉ trong tuần đầu tiên của tháng 6-2006, Bourbon đã nhận giấy phép mở rộng mạng lưới kinh doanh, Dairy Farm được Chính phủ bật đèn xanh để thành lập công ty 100% vốn nước ngoài xây dựng một hệ thống siêu thị và cửa hàng tại VN . Hàng loạt tập đoàn được phép đổ vốn vào VN cũng đang rốt ráo triển khai kế hoạch xây dựng những điểm bán mới như Metro Cash&Carry, Big C Sắp tới chắc chắn sẽ là người khổng lồ Wall Mart. Mặc dù chưa có số liệu chính thức về số liệu các tập đoàn nước ngoài đã có mặt tại VN là bao nhiêu và hiện có bao nhiêu hồ sơ đang nằm trên bàn của các bộ, ngành nhưng với những siêu thị và trung tâm thương mại đang hiện hữu thì số DN có vốn đầu tư nước ngoài đã vượt qua 2 con số. Thêm vào đó, mới đây, Công ty Đông Hưng đã tuyên bố sẽ bán bớt một siêu thị Citimart cho một tập đoàn đaquốcgia càng làm cho các DN bán lẻ lên ruột! Giám đốc một công ty thương mại tại Hà Nội cho biết, cứ mỗi lần nghe Chính phủ cho phép các tập đoàn nước ngoài mở rộng địa bàn kinh doanh hoặc được cấp phép mới là ông lại bị choáng! Theo lý giải của vị giám đốc này, trước đây trong sản xuất, nhà nước đã có giai đoạn bảo hộ các DN trong nước đủ sức mạnh so với các nước trong khu vực, sau đó mới thực hiện mở cửa. So với sản xuất thì hệ thống phân phối quan trọng hơn rất nhiều bởi nó có đủ sức mạnh để quyết định tới việc các DN phải sản xuất mặt hàng nào. Còn trong thời điểm hiện nay và với tốc độ cấp phép như thế này thì cứ mở cửa là hệ thống phân phối phải cạnh tranh, phải đối mặt ngay trong khi lực của chúng ta còn rất yếu. Cứ như thế này thì nhiều DN trong nước sẽ chết ngay lập tức - vị giám đốc này bức xúc. Ông Phạm Đình Đoàn, Tổng Giám đốc Tập đoàn phân phối Phú Thái kể rằng, khi nghe tin VN cấp phép một lúc cho Metro với 8 siêu thị mà toàn là ở nội thành các TP lớn với số vốn lên tới 120 triệu USD thì một đồng nghiệp của ông ở nước ngoài đã không thể tin nổi. Không có một nước nào lại dễ dãi quá mức đối với nhà đầu tư nước ngoài. Thử nhìn sang một số nước trong khu vực, chẳng hạn như Philippines cấp phép cho Metro quy định khoảng cách từ trung tâm thành phố đến siêu thị phải là 40km. Tương tự, Ấn Độ, một thị trường lớn như vậy chính phủ nước này chỉ cho phép Metro mở 2 siêu thị với tổng vốn đầu tư 40 triệu USD. Phải có chính sách khôn ngoan! Trước thực trạng trên, ông Nguyễn Hữu Thắng, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thương mại Hà Nội lo ngại, các tập đoàn nước ngoài không chỉ mạnh vì gạo, bạo vì tiền vì mức vốn đăng ký không chỉ là hàng chục triệu USD mà rất nhiều dự án lên tới hàng trăm triệu USD, ví dụ như Metro và Bourbon đều có mức vốn là 120 triệu USD. Chưa cần đến chúng ta mở cửa, chỉ cần cạnh tranh ngay với các tập đoàn đã có mặt như Metro, Bourbon thì nhiều DN đã bở hơi tai ông Thắng nói. Ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Giám đốc Công ty Trung Nguyên cũng đặt vấn đề: Điều gì sẽ xảy ra khi các siêu thị nước ngoài quay lưng với các DN trong nước rồi liên kết với các DN nước ngoài để đưa hàng vào siêu thị? Tương đồng với những quan điểm nêu trên, tại cuộc hội thảo WTO và Việt Nam do Quỹ Hòa bình và Phát triển VN vừa tổ chức tại TPHCM, TS Alain Levourieux, chuyên viên cao cấp của ATTAC (Pháp) đã lưu ý, để hạn chế rủi ro khi gia nhập WTO, VN cần phải vận dụng các chính sách một cách khôn khéo, cố gắng bảo hộ lĩnh vực sản xuất công nghiệp, đặc biệt là những sản phẩm chiến lược, tập trung nguồn lực để các phát triển sản phẩm nông nghiệp, đồng thời hạn chế sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế ở một số lĩnh vực nhạy cảm như phân phối, vận tải, viễn thông, ngân hàng . Nếu VN không định vị ngay từ đầu mình đang đứng ở đâu trong WTO thì hệ quả tất yếu là VN sẽ mất quyền tự kiểm soát ngay trên sân nhà - TS Alain nhấn mạnh. Từ thực tế cấp phép cho các DN nước ngoài và thực trạng của ngành bán lẻ VN, ông Phạm Đình Đoàn đã đưa ra cảnh báo: Hội nhập gắn liền với việc mở cửa thị trường nhưng Nhà nước cần nghiên cứu kỹ liều lượng và phân vùng quy hoạch để DN trong nước có thời gian chuẩn bị. Để các DN trong nước có thêm thời gian chuẩn bị bước vào cuộc chơi mới, ngay từ bây giờ Nhà nước cần có một lộ trình và một chính sách khôn ngoan, nếu không thị trường VN sẽ có nguy cơ trở thành thuộc địa của các tập đoàn bán lẻ trên thế giới và thành vùng trũng tiêu thụ các sản phẩm nước ngoài! Cùng với nông nghiệp, ngành phân phối được đánh giá là một trong những ngành sẽ gặp nhiều bất lợi nhất sau khi VN gia nhập WTO. Tuy nhiên, những người lạc quan lại tự hỏi rằng, liệu người tiêu dùng VN có ưu tiên hệ thống phân phối bán lẻ trong nước khi mua sắm hay không? Hệ thống phân phối của Hàn Quốc vẫn đứng vững và phát triển sau khi tham gia vào sân chơi toàn cầu nhờ vào yếu tố này. Vậy liệu nó có được lặp lại ở VN trong thời gian tới không? Th.S Lê Minh Phiếu -Nghiên cứu sinh ĐH Montesquieu (Pháp) Lo ngại tâm lý “sính ngoại” Vào năm 2003, khi tập đoàn Metro của Đức vừa mở cửa siêu thị bán sỉ trên đường Phạm Văn Đồng (Hà Nội), bãi xe rộng mênh mông trước siêu thị này luôn đông nghịt xe của người tiêu dùng đến mua sắm. Hiện tượng này cũng tương tự đối với các siêu thị của Metro ở TP.HCM. Qua trường hợp trên, cộng với tâm lý chuộng ngoại vốn tồn tại trong không ít bộ phận dân cư, các nhà phân phối trong nước khó có thể chờ đợi một hiện tượng như đã xảy ra ở Hàn Quốc trước đây. Không ít cửa hàng bán lẻ trên địa bàn Hà Nội, có phong cách phục vụ khách hàng rất kém. Người tiêu dùng Việt Nam có thể dễ dàng chấp nhận lựa chọn các cửa hàng bán lẻ khi chất lượng dịch vụ và giá cả của nó bằng với các cơ sở có vốn nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực tương tự. Đến khi ngành phân phối bán lẻ được mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài (1-1-2009), các tập đoàn phân phối khổng lồ của nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam. Với tiềm lực khổng lồ về vốn, trình độ quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, chắc chắn họ sẽ thiết lập được những hệ thống phân phối bán lẻ chuyên nghiệp, với phong cách lịch sự, quy mô khổng lồ và có hệ thống. Chắc hẳn là đến lúc đó, những người bán hàng trên các phố cổ Hà Nội sẽ không thể nào còn giữ quan niệm rằng “người này không mua thì người khác sẽ mua” để nói với khách hàng rằng “không mua thì biến”. Là thành viên chính thức của WTO, chúng ta đã thật sự bước vào cuộc chơi của toàn cầu hóa, đã thật sự sống trong một “thế giới phẳng”. Như vậy, nhất thiết hiện nay là các cơ sở bán lẻ Việt Nam nên thức giấc, và điều tối thiểu cần làm ngay trước mắt là cải thiện văn hóa phục vụ. Định vị ngành bán lẻ Việt Nam Thói quen tiêu dùng của người Việt ngày càng phát triển theo hướng hiện đại hoá. Những món “bình dân” nhất đều có tại siêu thị. Đằng sau hàng loạt những tích cực, những chỉ số xếp hạng cao ngất của những tổ chức uy tín về thị trường bán lẻ Việt Nam, có một sự thật khác, một mối lo ngại khác về khả năng thất thế của hệ thống bán lẻ Việt trước ngưỡng cửa 1/1/2009, khi mở cửa thị trường. Một thị trường ồn ã Tốc độ phát triển khá nhanh của thị trường bán lẻ trong nước đang hấp dẫn các tập đoàn phân phối đa quốc gia. Mức hấp dẫn này dẫn đến một nguy cơ tiềm ẩn mà nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển phải thốt lên: “Vừa rồi, chúng ta cho phép Metro hình thành đến tám điểm, phát triển thành một chuỗi hệ thống bán buôn. Mà trong thị trường, ai hình thành được chuỗi liên kết, nắm được yếu tố cạnh tranh thì người ấy thắng. Với tốc độ tăng trưởng 20%/năm, nhóm chi tiêu tiêu dùng lớn nhất đang ở tuổi 22 - 55, chiếm tới 70,29% dân số Việt Nam. Chi tiêu tiêu dùng tại Việt Nam dự kiến đạt 53 tỉ USD vào năm 2010. Trong báo cáo “Phân tích công nghiệp bán lẻ Việt Nam” của Công ty nghiên cứu, tư vấn toàn cầu RNCOS dự báo sẽ có thêm hàng loạt đại gia bán lẻ nước ngoài đến Việt Nam trong những năm tới. Chúng ta cam kết nhưng chúng ta vẫn có quyền hạn chế việc mở thêm các điểm bán lẻ. Do đó không nên cấp phép ồ ạt cho các nhà phân phối mở thêm đại lý lập thành chuỗi, gây ra sự cạnh tranh quá khốc liệt”. Sự khốc liệt này được diễn giải qua việc Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỉ USD mỗi năm, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ dự kiến sẽ đạt 7.000 tỉ đồng, tăng 23% so với năm ngoái. Việt Nam cũng đang dẫn đầu về tiêu dùng hàng hi-tech. Công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen công bố: người tiêu dùng Việt Nam xếp thứ năm về chỉ số lạc quan tiêu dùng (Global Consumer Confidence Index). Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và tăng lên 1 điểm, trong khi chỉ số này trên toàn cầu giảm 2 điểm, chỉ còn 97 so với cuối năm 2006. Chủ nhà đang lúng túng Hiệp hội siêu thị Hà Nội đã chỉ ra những điểm yếu đang tồn tại trong hệ thống phân phối Việt Nam: tính chuyên nghiệp yếu vì nguồn nhân lực chưa qua đào tạo, chỉ có khoảng 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành, 60-70% các đơn vị kinh doanh chưa sử dụng công nghệ thông tin vào lãnh vực quản lý và khoảng 20% đơn vị mới xây dựng web đơn giản với nội dung nghèo nàn. Ngoài ra hậu cần cho hệ thống phân phối như kho bảo quản, các kho lạnh, xe tải chuyên dùng thiếu đồng bộ, chưa đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Việc tổ chức cung ứng hàng hoá chủ yếu là có gì bán nấy, chưa xây dựng được vùng cung cấp nguồn hàng ổn định để tiêu thụ. Tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc. Do vậy, hệ thống thương mại bán lẻ của Việt Nam tuy đã có nhiều, nhưng còn mang nặng tính đại lý, thu lợi nhuận thấp. Chính vì thế các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã tìm mọi cách vào Việt Nam khai thác cơ hội từ sự sơ khai, thiếu chuyên nghiệp này. Điều này được chứng minh qua những thành quả thực tế từ doanh thu, tốc độ tăng trưởng đạt trên 40%/năm mà Metro, Big C, Parkson… đạt được khi mạnh dạn mở kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Như Metro Cash & Carry của Đức kiếm lời khoảng 500 triệu USD/năm và tăng trưởng hàng năm đạt 45%. Theo ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công thương, mặc dù các nhà phân phối Việt Nam có nhiều động thái củng cố lại hệ thống của mình để chống lại áp lực cạnh tranh từ các nhà phân phối nước ngoài, nhưng phải thừa nhận các tập đoàn phân phối nước ngoài đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường các nước đang phát triển. Theo Nhóm PV Báo Sài Gòn tiếp thị Bán lẻ Việt Nam: Bắt tay hay sống lay lắt? (VietNamNet) - Các đơn vị, DN bán lẻ trong nước đang xoay xở tìm biện pháp để có thể "sống sót" trước khi nhiều tập đoàn bán lẻ 100% vốn nước ngoài dự báo sẽ đổ bộ vào Việt Nam từ 1/1/2009. Việc có làm chủ được hệ thống bán lẻ hay không, theo nhiều chuyên gia, phụ thuộc vào chính nội lực và sự liên kết, hợp tác giữa các DN bán lẻ nội địa.    >> Thị trường bán lẻ VN sẽ đạt trên 40 tỷ USD năm 2007 Xác lập dần chỗ đứng  Tại Hội thảo về Thị trường bán lẻ Việt Nam: cơ hội và thách thức, do Bộ Công thương và Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam tổ chức ngày 23/1, Phó Chủ tịch Hiệp hội Đinh Thị Mỹ Loan cho biết, có một chuyển động mới đáng ghi nhận ở các DN bán lẻ trong nước, đó là sự tấn công "âm thầm" về thị trường nông thôn. Đơn cử HTX Thuận Thành - đơn vị thành viên hiệp hội - vừa khai trương 3 siêu thị bán lẻ tại Thừa Thiên - Huế và bước đầu kinh doanh có lãi.  Ông Phan Thế Ruệ, Chủ tịch Hiệp hội nói thêm, thị trường nông thôn rất tiềm năng - với hơn 60 triệu dân - đang và đáng được các DN bán lẻ để mắt tới. Thu nhập của bà con nông dân ngày càng tăng, sớm hay muộn cũng sẽ bùng phát sức mua. Thị trường bán lẻ ở nông thôn sẽ rất sôi động, đặc biệt đối với những vùng có tốc độ đô thị hoá nhanh.  Nhiều DN "đỏ mắt" tìm mặt bằng tốt để xây dựng các khu thương mại, siêu thị (ảnh VTV). Đại diện Vụ Chính sách thị trường trong nước (Bộ Công thương) nhẩm tính, chỉ cần mỗi ngày một người dân nông thôn tăng mua 1.000 đồng hàng hoá, tổng mức bán lẻ tại khu vực này sẽ tăng thêm 60-70 tỷ đồng.  Bà Loan nói rằng, việc Bộ Công thương vừa ban hành Quy hoạch phát triển mạng lưới chợ toàn quốc sẽ giúp các nhà bán lẻ Việt Nam nghiên cứu, xem xét, vận dụng trong chiến lược kinh doanh của mình. "Chúng tôi quan tâm tới việc quy hoạch đất đai xây các chợ, hạ tầng cơ sở, khuyến khích đầu tư hay ưu đãi của Nhà nước trong việc mở trung tâm, điểm bán lẻ có tính chất quyết định với nền sản xuất trong nước, đặc biệt là chợ đầu mối chuyên ngành, chợ đầu mối cấp vùng, chợ đầu mối nông sản, chợ đầu mối hoa quả... ", bà Loan xác nhận. Tại các thành phố lớn, phương thức bán lẻ hiện đại đang thay thế dần phương thức truyền thống. Trước đây, phương thức bán lẻ hiện đại rất ít, chỉ đạt khoảng 3% (năm 2001) thì nay đã lên tới 10-15% (năm 2007). Phân tích của Công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen còn chỉ ra rằng, đến năm 2010, phương thức này sẽ chiếm lĩnh 24% trong thị trường phân phối; riêng tại TP.HCM và Hà Nội, việc người dân đến các trung tâm, siêu thị, chuỗi cửa hàng... để mua sắm sẽ chiếm tới 37% trong vài ba năm nữa. Thị trường bán lẻ Việt Nam như miếng bánh vô cùng hấp dẫn khi vừa qua Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới (chỉ sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc). Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỷ USD mỗi năm, dự kiến tăng trưởng sức mua trong nước luôn đạt trên 20%. Bà Đinh Thị Mỹ Loan cho rằng, điều quan trọng là chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và đứng thứ 5 thế giới trong khi chỉ số này trên toàn cầu đang giảm. Đó chính là vì người tiêu dùng Việt Nam ngày càng được hưởng nhiều hơn sự tiện dụng của hệ thống bán lẻ, từ đó, thói quen mua sắm cũng như xu hướng tiêu dùng sẽ thay đổi.  Theo Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, cũng trong năm qua, đã có ít nhất 140 siêu thị/đại siêu thị, 20 trung tâm thương mại và gần 1 triệu m2 mặt bằng kinh doanh bán lẻ đang được đầu tư phát triển. Tồn tại như thế nào? "Ai sẽ làm chủ hệ thống phân phối bán lẻ Việt Nam trong tương lai, DN trong nước hay các tập đoàn nước ngoài?" là câu hỏi "nóng" được nhiều người quan tâm trên một diễn đàn gần đây.  Ông Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội siêu thị Hà Nội, thẳng thắn, việc có làm chủ được hệ thống phân phối hay không chính là ở bản thân các DN bán lẻ nội địa. Nếu không liên kết, hợp tác để cùng phát triển thì các tập đoàn nước ngoài sẽ thay thế vị trí này; còn nếu các DN nội địa làm tốt, chúng ta có thể mạnh lên như Hàn Quốc từng đẩy hệ thống cửa hàng Wal-Mart ra khỏi địa bàn của mình. Song, đến thời điểm này tại Việt Nam, ông Vinh thừa nhận sự liên kết này rất yếu ớt và hiếm hoi. Kể từ đầu năm ngoái đến nay, thị trường phân phối trong nước mới biết đến sự ra đời của Công ty CP Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (quy mô vốn lên tới 6.000 tỷ đồng), từ sự liên kết của 4 DN phân phối hàng đầu nội địa là Hapro, Satra, Saigon Co.op và Tập đoàn Phú Thái. ẻ Việt Nam đang rất khuyến khích xu hướng này (có thể là liên kết là giữa là bán lẻ Việt Nam v Hiệp hội Các nhà bán l ới nhà sản xuất hoặc giữa nhà bán lẻ với nhau) nhằm tăng sức mạnh của DN, với giá cả hợp lý, phương thức dịch vụ và thanh toán tốt nhất cho người tiêu dùng.  Một chuyên gia thương mại nhận xét, trong lĩnh vực bán lẻ, cái chúng ta đang thiếu nhất là hoạt động của hệ thống hậu cần - khâu hỗ trợ cho chuỗi bán hàng cuối cùng của hệ thống bán lẻ và các đại siêu thị ở các đô thị lớn. Các DN bán lẻ cần liên kết để đủ sức tiếp quản các mặt bằng lớn, với sự tập trung vốn và nguồn nhân lực cao.  Ông Vũ Vinh Phú cho biết, 70% hàng hoá tại các siêu thị hiện là hàng Việt Nam, song sản xuất của chúng ta không đủ lớn, năng suất thấp nên không đủ cung ứng. Trong khi, sản xuất chính là cái gốc, là dạ dày của bán lẻ. Hơn nữa, hệ thống phân phối từ trang trại đến kho dự trữ, sơ chế, bán lẻ... bị cắt khúc, phân tán, dẫn tới chi phí đầu vào cao. Đơn cử, một một ký tôm tại nơi sản xuất ở Thái Bình giá có 80.000 đồng nhưng về đến Hà Nội tăng lên 120.000 đồng. Do vậy, cần thành lập các sàn giao dịch để nông dân bán được với giá cao nhất, cắt bớt khâu lưu thông, đưa thẳng hàng hoá từ nơi sản xuất đến các siêu thị. Ngoài ra, ông Vinh cũng chỉ ra những điểm yếu của hệ thống phân phối trong nước: thiếu tính chuyên nghiệp do chỉ 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành, 60-70% đơn vị kinh doanh chưa sử dụng CNTT vào lĩnh vực quản lý... chưa kể khó khăn về mặt bằng, vốn ít ỏi, khó tiếp cận đất đai.  Đây là những tồn tại mà một đại biểu tại hội thảo nhận xét, đều là các vấn đề đã cũ, bàn đi bàn lại nhiều lần. Song, vấn đề đặt ra là giải quyết như thế nào và việc kêu ca, thắc mắc của DN có đến với các cơ quan quản lý Nhà nước không trong khi Hiệp hội còn non trẻ, mới thành lập được 3 tháng. ) Thị trường bán lẻ Việt Nam đang hấp dẫn Doanh thu bán lẻ từ hệ thống phân phối hiện tại của Việt Nam chiếm chưa tới 10%. Phần lớn hệ thống phân phối còn rất non trẻ. Bên cạnh đó, thị trường bán lẻ Việt Nam đã manh nha xuất hiện các hoạt động phản cạnh tranh… Với “Chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2007” (GRDI) đạt 74 điểm, Việt Nam xếp thứ tư sau Ấn Độ và Nga, Trung Quốc. Đó là kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30/185 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, vừa được tập đoàn tư vấn AT Kearney công bố. Đây là một thứ hạng cao, thể hiện triển vọng phát triển sáng sủa và sức hút mạnh mẽ của thị trường bán lẻ Việt Nam đối với các nhà kinh doanh toàn cầu. Nhưng vị trí này đã tụt một bậc so với năm 2006. Nguy cơ chết yểu… Theo nhiều chuyên gia, hiện nay thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn đang ở dưới mức phát triển do cơ sở hạ tầng kinh doanh còn thiếu và yếu kém, kỹ năng kinh doanh chưa chuyên nghiệp, dịch vụ hậu cần hầu như chưa có gì. Ngoài ra, hậu cần cho hệ thống phân phối như kho bảo quản, các kho lạnh, xe tải chuyên dung thiếu đồng bộ, chưa đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Việc tổ chức cung ứng hàng hoá chủ yếu là có gì bán nấy, chưa xây dựng được vùng cung cấp nguồn hàng ổn định để tiêu thụ. Tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc. Do vậy, hệ thống thương mại bán lẻ của Việt Nam tuy đã có nhiều nhưng còn mang nặng tính đại lý, thu lợi nhuận thấp. Sự yếu kém của thị trường này được bà Đinh Thị Mỹ Loan, Cục trưởng Cục quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) tổng kết lại là do thiếu tính chuyên nghiệp, năng lực tài chính, thiếu tính liên kết và chiến lược dài hạn. Doanh thu bán lẻ từ hệ thống phân phối hiện tại của Việt Nam chiếm chưa tới 10%. Phần lớn hệ thống phân phối còn rất non trẻ. Bên cạnh đó, thị trường bán lẻ Việt Nam đã manh nha xuất hiện các hoạt động phản cạnh tranh như so sánh trực tiếp các sản phẩm cùng loại, khuyến mại gian dối về sản phẩm, tặng hàng cho khách dùng thử để đổi sản phẩm của doanh nghiệp khác, hành vi liên kết của các doanh nghiệp để phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiệp mới gia nhập thị trường, thống nhất giá cả dịch vụ… Các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết sử dụng công cụ pháp lý để tự bảo vệ trước các hành vi phản cạnh tranh. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, đã xuất hiện một số nhà bán lẻ nước ngoài tại Việt Nam như Big C, Metro Cash and Carry, Cora… Từ nay tới thời điểm 1/1/2009, các rào cản gia nhập thị trường dần được loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế, sự bảo hộ của nhà nước đối với những lĩnh vực nhạy cảm của nền kinh tế như dịch vụ bán lẻ sẽ giảm dần. Với sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài như hiện nay, ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch tập đoàn Phú Thái, cho rằng nếu không có một chiến lược tổng thể thì e rằng các doanh nghiệp phân phối bán lẻ của Việt Nam sẽ chết yểu. Ông Đoàn phân tích, tại Ấn Độ mới chỉ có 2 đại siêu thị Metro, Cash & Cary, trong khi đó, ở Việt Nam đã xuất hiện 8 siêu thị. Có một doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động trên lĩnh vực phân phối bán lẻ ở Việt Nam dự định mở 40 siêu thị để kết nối hệ thống kinh doanh ngầm. Ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công Thương nhấn mạnh hiện nay tất cả các ưu đãi cho các doanh nghiệp bán lẻ phân phối Việt Nam là không còn. Thị trường bán lẻ năm 2009 sẽ sôi động hơn rất nhiều với sự tham gia của các nhà bản lẻ phân phối nước ngoài. Sẽ xuất hiện nhiều doanh nghiệp hùng mạnh, chuyên nghiệp đồng thời sẽ có sự ra đi của nhiều doanh nghiệp yếu kém. Các nhà bán lẻ thế giới vào Việt Nam với công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp. Song, chúng ta không bàn đến chuyện các doanh nghiệp Việt Nam phải thắng hay phải đối đầu với các “ông lớn” mà cạnh tranh để chúng ta trưởng thành. Trăn trở của doanh nghiệp Điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là thiếu tính liên kết. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia kinh tế, khi các doanh nghiệp biết kết hợp với nhau sẽ phát huy được thế mạnh của từng doanh nghiệp, đồng thời tiết kiệm được nhiều chi phí nhỏ lẻ về cửa hàng, kho vận… Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng nhận thức đầy đủ về lợi ích mà khi mình toàn tâm hợp tác với các doanh nghiệp khác. Bà Nguyễn Thị Hồng Hương- Tổng Giám đốc hệ thống siêu thị Vinatex đưa ra nhận xét: “Nhiều khi doanh nghiệp tìm đến nhau về hình thức, còn thực chất chỉ chăm bẵm cho lợi ích của mình, thủ thế với nhau, chứ chưa thực sự cùng nhau mổ xẻ, chia sẻ thông tin, lợi ích để biết rằng mình phải dành cho đối tác cái gì và mình chỉ được nhận phần nào”. Một trăn trở nữa mà các doanh nghiệp đưa ra là mối quan hệ giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Thời gian qua, cả nhà sản xuất và nhà bán lẻ mặc dù có nhiều nỗ lực để tìm đến với nhau nhưng quá trình thực hiện còn nhiều bất cập. Nhà bán lẻ chủ trương bán hàng ra phải sòng phẳng, khách quan để lựa chọn nhà sản xuất; nhà cung cấp đưa ra những mặt hàng tốt, có chất lượng và có giá cả phù hợp bán trong hệ thống, nhưng thực tế quá trình thực hiện lại rất nhiêu khê. Liên tục xảy ra cảnh nhà bán lẻ chèn ép nhà sản xuất. Nhà sản xuất cũng chỉ cần có cơ hội là “chơi” lại nhà bán lẻ. Tình trạng này được bà Hồng Hương ví với hình ảnh “Cá ăn kiến rồi kiến ăn cá”. Thêm một trăn trở nữa của những nhà bán lẻ được ông Nguyễn Minh Phú-Chủ tịch ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34967.doc
Tài liệu liên quan