BỘ GIÁO DỤC VÀ ÐÀO TẠO
TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________
Doãn Thị Hồng
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
BỘ GIÁO DỤC VÀ ÐÀO TẠO
TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________
Doãn Thị Hồng
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ÐOÀN THỊ THU VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, tập
146 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1749 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Cảm hứng thời gian trong thơ đời Trần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể Thầy cô khoa Ngữ
văn trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng Khoa học- Công
nghệ sau đại học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đoàn Thị Thu
Vân, người đã tận tâm, chu đáo hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Và tôi cũng xin cảm ơn những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
khích lệ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin trân trọng cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2009
Người thực hiện luận văn
Doãn Thị Hồng
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong mỗi một tác phẩm văn học, người nghệ sĩ luôn thể hiện các
quan điểm về nghệ thuật, về cuộc sống qua hình tượng thời gian và không
gian. Thơ đời Trần cũng vậy. Đó là thơ của một triều đại đặc biệt với những
biến cố lịch sử lớn lao, với tầm vóc phi thường của những con người bình
thường trong thời đại phục hưng dân tộc. Một số công trình nghiên cứu trước
đây cũng đã từng đề cập đến phương diện thời gian trong thơ đời Trần nhưng
mới chỉ nêu khái quát bên cạnh nhiều phương diện nghệ thuật khác. Vấn đề
chưa được đi sâu, khảo sát chuyên biệt nên chưa giúp người đọc thấy thật rõ
sự khác biệt của phương diện này trong các loại hình thơ ca đời Trần và thơ
đời Trần so với thơ ca trung đại.
1.2. Văn học là một hình thái ý thức xã hội, do đó, nó là tấm gương phản
ánh cuộc sống một cách sinh động và chân thực. Là một thể loại quan trọng
của văn học, thơ ca góp phần thể hiện thế giới nội tâm phong phú của con
người, hơn thế, người đọc của những thế hệ sau có thể dùng thơ ca làm chiếc
cầu nối để “liên lạc” với những con người sống cách xa họ hàng bao nhiêu thế
kỷ. Chúng ta rất muốn biết con người thời Trần đã sống và suy nghĩ như thế
nào về những vấn đề của cuộc sống, của thời đại. Chúng ta cũng muốn cắt
nghĩa những hiện tượng của lịch sử bằng con đường đi vào thế giới tâm hồn
của họ. Tất nhiên thơ ca không phải là con đường duy nhất để ta tìm đến với
cha ông. Nhưng nếu ta muốn bắt đầu từ con đường mà ở đó, thế hệ đi trước đã
không ngại bộc bạch những suy nghĩ rất riêng tư, rất trung thực thì qua thơ ca
có lẽ là cách tương đối hữu hiệu. Và cũng ở địa hạt thơ ca, con người đời
Trần đã thể hiện những quan niệm nhân sinh của mình một cách khá rõ nét.
Họ nghĩ về thiên nhiên, về con người, về lịch sử với lẽ hưng phế… Họ nghĩ
về tất cả những điều đó trong sự trôi chảy của thời gian, trong giới hạn của
không gian. Bởi vậy, đọc những biểu hiện về thời gian trong thơ đời Trần
cũng giúp ta rõ hơn về những suy nghĩ, cảm xúc, quan niệm nhân sinh của các
nhà thơ đời Trần. Từ đó thấy được vẻ đẹp tâm hồn của con người thời Trần
cùng một phương diện giá trị độc đáo của thơ ca thời đại này.
2. Mục đích nghiên cứu
Tuy chưa có một công trình riêng biệt nào nghiên cứu vấn đề thời gian
trong thơ đời Trần nhưng rải rác trong các bài nghiên cứu, các tác giả ít nhiều
đều đề cập đến vấn đề này. Do đó, mục đích nghiên cứu của công trình này
không phải là khai thác một vấn đề hoàn toàn xa lạ và mới mẻ, tất nhiên, càng
không phải là sự nhắc lại một cách máy móc và không cần thiết. Trên cơ sở
nghiên cứu và kế thừa những công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi
muốn tổng kết một cách có hệ thống những biểu hiện của thời gian nghệ thuật
trong thơ đời Trần. Từ đó đi đến phát hiện những nét độc đáo của cảm thức
thời gian trong thơ thời ấy nhằm thấy được những đóng góp của phương diện
nghệ thuật này cho thơ ca đời Trần nói riêng, thơ ca trung đại nói chung. Bên
cạnh đó cũng đồng thời đi đến hiểu sâu hơn về văn học của một thời đại huy
hoàng trong lịch sử dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng
Thơ ca đời Trần tuy không thật nhiều về số lượng nhưng cũng không
phải là ít. Ở luận văn này, chúng tôi muốn đi tìm một quan niệm cụ thể về
thời gian của các nhà thơ đời Trần thông qua các bài thơ có thể hiện trực tiếp
hoặc gián tiếp yếu tố thời gian. Thời gian qua cách nhìn, cách cảm nhận của
tác giả đối với thế giới chung quanh, từ quá khứ đến hiện tại, có tác dụng soi
tỏ cuộc sống trong quá khứ của cha ông không chỉ giúp ta hiểu hơn về cuộc
sống tâm hồn, tính cách của các bậc tiền bối mà còn giúp ta gạn đục khơi
trong cho cuộc sống mỗi ngày trở nên tốt đẹp hơn, nhân ái hơn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là cách nhìn, cách cảm nhận, và
từ đó, quan niệm về thời gian được thể hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
trong thơ đời Trần. Đây cũng là một phương diện trong quan niệm nhân sinh
sẽ góp phần soi rõ những vấn đề liên quan như tư tưởng, tâm hồn, nhân
cách… của các tác gia đời Trần.
3.2. Phạm vi
1. Nhắc đến thơ đời Trần, người ta nghĩ ngay đến thơ Thiền, một thành
tựu kế thừa từ đời Lý với những bước phát triển vượt bậc. Trong thơ Thiền, ta
gặp được những con người đạt đến sự tự do gần như tuyệt đối của tâm hồn.
Bởi vậy, khảo sát thơ Thiền giúp ta nhìn rõ hơn những quan niệm nhân sinh
của con người đời Trần, trong đó có vấn đề thời gian.
2. Một bộ phận quan trọng của thơ ca thời kì này là những vần thơ tràn
đầy tinh thần dân tộc, những vần thơ cất lên trước trận đánh, trong trận đánh
để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân dân, và sau trận đánh với cảm xúc tự
hào, tràn đầy niềm tin. Nghiên cứu về cảm thức thời gian trong thơ đời Trần,
không thể không khảo sát mảng thơ này, đó là thơ ca thời thịnh Trần.
3. Khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, thơ ca chuyển từ cảm
hứng hướng ngoại sang cảm hứng hướng nội với những vần thơ đầy suy tư và
trăn trở. Do đó, tất cả những quan niệm nhân sinh trước đây cũng có phần
thay đổi, kéo theo sự thay đổi về cảm thức thời gian. Vì vậy, phạm vi nghiên
cứu của đề tài này sẽ bao gồm toàn bộ thơ ca thời Trần với nhiều cảm hứng
khác nhau, từ cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc, cảm hứng thiên nhiên, cảm
hứng Thiền tông thời thịnh Trần đến cảm hứng thế sự thời vãn Trần.
4. Lịch sử vấn đề
Tuy chưa có một công trình chuyên biệt nào dành riêng để khảo sát,
nghiên cứu vấn đề cảm thức thời gian trong thơ đời Trần nhưng thời gian
nghệ thuật vốn được coi là một biểu hiện quan trọng của thi pháp nên trong
quá trình nghiên cứu các vấn đề của văn học trung đại, các tác giả đều lưu tâm
xem xét, đề cập đến nó.
Đầu tiên phải kể đến công trình Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam
của tác giả Trần Đình Sử. Trong công trình này, tác giả đã dành hơn bốn trang
viết để nói về thời gian trong thơ trung đại nói chung với các nội dung như
mô hình chung của thời gian, thời gian vũ trụ bất biến, thời gian con người.
Nội dung và các khái niệm mà Trần Đình Sử xác lập tuy không phải dành
riêng cho thơ đời Trần nhưng nó đã bao quát được những biểu hiện dễ thấy
nhất của thời gian trong thơ trung đại, giúp người đọc nhận rõ những đặc
trưng cơ bản nhất của thơ ca trung đại, đồng thời có thể phân biệt dễ dàng với
thời gian trong thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại. Tác giả nghiên cứu thời
gian trong thơ ca trung đại Việt Nam dựa trên việc so sánh và lí giải sự ảnh
hưởng về quan niệm, biểu hiện của thời gian trong thơ ca Trung Quốc.
Về thời gian trong thơ trung đại, tác giả đã xác lập được các khái niệm
như sau: Thời gian vũ trụ bất biến trong thơ từ thế kỉ X- XVII; Vô thời gian
trong thơ Thiền - loại thời gian “bất biến, thường trụ, bởi vì không sinh không
diệt” [58, tr.197]; Thời gian lịch sử trong thơ tương quan với thời gian vũ trụ -
kiểu thời gian được không gian hóa với “tính bất biến của lịch sử hóa thân
vào dấu tích” [58, tr.204]; Và cuối cùng là thời gian con người với nỗi buồn
thương u uất cá nhân.
Tác giả đã phát hiện và lí giải vấn đề tương đối chặt chẽ. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu của công trình khá rộng nên tác giả chỉ dừng lại ở bốn
trang viết cho vấn đề này với mức độ khái quát. Đi vào chiều sâu vấn đề thời
gian trong thơ ca trung đại vẫn còn chờ đợi sự tiếp tục của các nhà nghiên cứu
sau này.
Trong công trình Văn học trung đại Việt Nam, tác giả Lê Trí Viễn
(Chủ biên) cũng đã đề cập đến vấn đề thời gian trong thơ ca trung đại Việt
Nam. Khi nói về đặc điểm của văn học trung đại, điều đầu tiên tác giả quan
tâm là cách người xưa cảm nhận thế giới. Tác giả cố gắng lí giải những điểm
khác biệt trong nhận thức và cảm xúc của con người trung đại so với con
người hiện đại. Tuy không tách ra thành một chương mục riêng nhưng trong
phần này, tác giả cũng đã phát hiện và lí giải những biểu hiện của thời gian,
không gian nghệ thuật trong văn học trung đại. Về cơ bản, có thể thấy, ở phần
thời gian, tác giả nhấn mạnh một số những biểu hiện cơ bản như thời gian
trung đại là “thời gian tuyến tính trôi chảy không ngừng, một qua không trở
lại” [91, tr.19] và là “ thời gian chu kỳ đi rồi quay trở lại chứ không đi mất”
[91, tr.19]; Đồng thời đó còn là “thời gian không trống rỗng trừu tượng mà
chất chứa một nội dung cụ thể” [91, tr.19]; “Thời gian nhuốm màu thiêng
liêng và đạo đức” [91, tr.19]. Tác giả cho rằng, trong hai loại biểu hiện của
thời gian nghệ thuật thì thời gian chu kì có tác động sâu sắc hơn đến cảm quan
con người trung đại. Đó là “thời gian vĩnh cửu (…). Ý thức về thời gian chu kì
sâu hơn và có sức xóa mờ thời gian tuyến tính” [91, tr.20].
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài giảng đại học, tác giả cũng chỉ
khám phá những biểu hiện có sức khái quát nhất mà chưa đi sâu phân tích các
dẫn chứng. Vấn đề được đặt ra giúp người đọc có thể hình dung những nét
tiêu biểu nhất của văn học trung đại. Có thể xem những nội dung mà tác giả
đề cập, luận giải là cái “nền” để trên cơ sở đó, ta có thể đi tìm những nét đặc
trưng một cách sâu hơn, rõ hơn trong một triều đại văn học cụ thể.
Trong chuyên đề bài giảng cao học Thơ Thiền Việt Nam thời Lý -
Trần, khảo sát từ góc độ nghệ thuật, tác giả Đoàn Thị Thu Vân cũng quan
tâm đề cập và lí giải khá rõ những biểu hiện của thời gian trong thơ Thiền Lý-
Trần như là một biểu hiện của thi pháp thơ Thiền. Với khoảng một trang viết,
tác giả chuyên đề cố gắng truyền tải một cách cô đọng những đặc điểm về
thời gian nghệ thuật trong thơ Thiền Lý - Trần với những biểu hiện cơ bản sau:
Một là thơ Thiền đề cập đến “Thời gian hiện thực của trần thế vô cùng
ngắn ngủi và chóng vánh” [87, tr.14].
Hai là tác giả thơ Thiền “đặc biệt đề cao thời gian hiện tại, chủ trương
sống cho trọn vẹn cái “giây phút này”” [87, tr.14]
Ba là “thời gian vĩnh hằng nằm trong thời gian chuyển động”[87, tr.15]
Bốn là “thời gian đóng vai trò cột mốc cho một bước ngoặt của tâm
thức, đánh dấu sự đổi khác giữa sau và trước” [87, tr.15]
Cuối cùng là thời gian trong thơ Thiền “thường là mùa thu, ban đêm
(với trăng sáng, gió trong và hơi đêm mát lạnh). Đó là thời điểm của sự hòa
điệu giữa con người và vạn vật, vũ trụ” [87, tr.15].
Như vậy, tiếp cận chuyên đề này, người đọc cũng phần nào nắm rõ
được những đặc trưng cơ bản của vấn đề thời gian trong thơ Thiền đời Trần.
Nhưng như tên chuyên đề đã xác định, trọng tâm của chuyên đề vẫn là sự
khảo sát tất cả các yếu tố nghệ thuật của thơ Thiền Lý - Trần nói chung. Cho
nên, để tìm hiểu cảm thức thời gian trong toàn bộ thơ đời Trần sẽ là không đủ.
Mặt khác, xét về bản chất, khi tìm hiểu thơ Thiền đời Trần, chúng ta cũng
khám phá ra nhiều nét rất khác biệt so với thơ Thiền đời Lý. Bên cạnh đó, vấn
đề được tác giả trình bày dưới dạng những luận điểm cơ bản cùng với các dẫn
chứng thật tiêu biểu. Thế nên, vẫn cần thiết để khám phá vấn đề ở một mức
độ sâu hơn, chuyên biệt hơn.
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, có hai công trình đề cập đến vấn đề thời gian
trong thơ đời Trần với vị trí là một phần nhỏ của luận văn.
Một là công trình Tìm hiểu thơ các vua thời thịnh Trần (Từ Trần
Thái Tông đến Trần Minh Tông) (2003) của tác giả Trần Thị Hồng Y.
Để đọc ra chân dung tâm hồn của các vị vua thời thịnh Trần, tác giả
Trần Thị Hồng Y đã đi khảo sát tất cả các yếu tố nghệ thuật, trong đó có thời
gian. Tác giả xếp chung không gian, thời gian thành một tiểu mục trong luận
văn. Điều này khiến cho có một số yếu tố riêng biệt của thời gian hoặc không
gian đã không được khai thác triệt để. Tác giả đã phân chia và định danh
thành ba kiểu thời gian, không gian như sau: Một là thời gian - không gian bất
tử của hào khí Đông A với đặc điểm: “Không gian hiện thực được nâng lên
thành không gian sử thi của những năm kháng chiến chống Nguyên”; “Một
thời gian, không gian tổng hợp từ quá khứ đến hiện tại và tương
lai”[95,tr.100]; Hai là thời gian - không gian của khuynh hướng cá nhân với
chút ít tâm sự đời thường. Tác giả cũng nhận thấy đó là một kiểu thời gian -
không gian thiếu ấm áp, vắng vẻ; Ba là thời gian - không gian siêu thoát. Tác
giả chủ yếu khảo sát mảng thơ Thiền để chứng minh cho sự tồn tại của thời
gian - không gian siêu thoát. Đó là kiểu thời gian mà “Tâm hồn trong trẻo,
lặng lẽ, cái tiểu ngã hòa vào cái đại ngã của vũ trụ, tìm thấy giây phút an
nhiên tư tại, đó là những khoảnh khắc bừng sáng của trí tuệ và tâm hồn, vượt
cả không gian và thời gian. Nó là thời gian, không gian của tâm linh huyền
diệu, siêu thoát của Thiền Tông”[95, tr.105]
Vì đây chỉ là một phần nhỏ của luận văn nên tác giả hầu như chỉ đề cập
đến mà chưa có sự đi sâu một cách cặn kẽ, thấu đáo. Sự điểm qua ấy dù sao
cũng đã cho ta thấy những nét cơ bản của yếu tố thời gian trong thơ của các
Thiền sư đời Trần - một lực lượng cầm bút quan trọng đã tạo nên diện mạo
của văn học đời Trần.
Công trình thứ hai là Con người trong thơ Thiền Lý Trần dưới góc
nhìn thi pháp học hiện đại (2005) của tác giả Trần Hoàng Hùng. Trong công
trình này, tác giả cũng xem xét thời gian, không gian như những yếu tố nghệ
thuật quan trọng trong việc thể hiện tâm hồn con người. Tác giả phân biệt sự
khác nhau trong quan niệm về thời gian của Nho gia, Đạo gia và Phật giáo, từ
đó nhấn mạnh những yếu tố đặc trưng trong thơ Thiền. Theo tác giả, thời gian
trong thơ Thiền Lý - Trần là thời gian thực tại vận động tuần hoàn gắn liền
với quy luật “sinh, trụ, dị, diệt”; “sinh, lão, bệnh, tử” của đời người. Bên cạnh
đó, còn có “khoảnh khắc chợt tỉnh” khi con người ở giữa mốc giao điểm giữa
mê và ngộ [36, tr.18]. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến một số thời điểm đặc
biệt trong thơ Thiền như mùa thu, ban đêm…. Mặc dù những ý kiến của tác
giả mới dừng lại ở mức độ mang tính kế thừa nhưng những đóng góp của nó
cũng không thể phủ nhận. Đó là sự khai thác sâu, cặn kẽ qua các dẫn chứng.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, vấn đề vẫn chưa được khai thác một cách
triệt để, ngõ hầu giúp người đọc có thể chứng kiến toàn bộ những biểu hiện
của thời gian trong thơ Thiền. Điều này có lẽ cũng xuất phát từ chính đối
tượng nghiên cứu của công trình, đó là tác giả chỉ nghiên cứu những bài thơ
tiêu biểu, những bài thơ có khả năng thể hiện hình tượng con người của một
dòng thơ đặc biệt trong văn học Lý - Trần.
Ở cấp độ các bài báo, tạp chí, các tác giả cũng quan tâm đến vấn đề
này, tuy chưa sâu rộng và chuyên biệt. Đâu đó, ta thoáng gặp những ý kiến,
những nhận định có liên quan đến vấn đề thời gian, tuy mới chỉ là các hiện
tượng riêng biệt, đơn lẻ.
Ở bài viết Về diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần của tác giả Nguyễn
Phạm Hùng (Đã đăng trên tạp chí văn học số 4/1983; In lại trong trong công
trình Trên hành trình văn học trung đại (sđd)), thời gian cũng được đề cập
đến qua một số phương diện như sau: Ở thời thịnh Trần là “những cảm xúc
thơ về một quá khứ vô cùng vinh quang và đầy chiến thắng” [33, tr.166];
“Cảm xúc trữ tình của các thi sĩ cùng gặp nhau trong sự hồi tưởng lại những
chiến công của cha ông trên sông Bạch Đằng” [33, tr.166]; Thời vãn Trần thì
“thời gian được phản ánh trong thơ co giãn theo tâm trạng con người . Ngày
vui thường qua nhanh mà nỗi buồn sao đằng đẵng” [33, tr.170]; Trong thơ
Phạm Nhân Khanh, Trần Nguyên Đán, thời gian “buồn bã, nặng nề như cuộc
đời vô vị trôi đi”. Rồi có lúc lại “giật mình, cảm thấy thời gian trôi đi nhanh
quá, rồi cả thời gian, tuổi tác, cuộc đời rồi cũng sẽ một đi không trở lại” [33,
tr 170]; Trong thơ Nguyễn Tử Thành thì “nghe tiếng thời gian đang tan theo
những giọt mưa đêm xuân trong một sự nuối tiếc đến tuyệt vọng” [33, tr.171].
Trong bài viết Huyền Quang và những trang đời nhiều huyền thoại,
những vần thơ nhiều hàm nghĩa (Đã đăng TCVH số 3/1994, đăng lại trong
công trình Những nghĩ suy từ văn học trung đại (sđd)), tác giả Trần Thị
Băng Thanh, trong quá trình lí giải những điểm mờ trong hành trạng vị sư nổi
tiếng này đồng thời với việc cắt nghĩa những vẫn thơ đầy hàm ý của ông,
cũng đã đề cập đến kiểu thời gian tồn tại trong tác phẩm Huyền Quang. Đó là
kiểu thời gian chất chứa nhiều tâm sự trễ nãi, buồn chán. Tất nhiên thơ ông có
niềm vui những nỗi buồn vẫn là cái đọng lại sâu sắc hơn cả. Trong nỗi cô đơn
ngập tràn, nhà thơ đã “phó mặc cho ngày tháng cứ trôi đi chậm chạp còn con
người thì gần như trở nên vô cảm hoặc “lười biếng” ngay cả với công việc
hàng ngày của tăng chúng” [70, tr.78].
Ở một bài viết khác Trương Hán Siêu và tư tưởng nghệ thuật thời Lý
Trần (Đã đăng trên Tạp chí nghiên cứu Phật học số 2/1996, đăng lại trong
công trình Trên hành trình văn học trung đại (sđd)), tác giả Nguyễn Phạm
Hùng cũng tìm thấy hai kiểu tư duy tiêu biểu trong thơ văn Trương Hán Siêu
nói riêng và thơ văn Lý - Trần nói chung, đó là kiểu tư duy hướng ngoại thời
thịnh Trần và tư duy hướng nội thời Vãn Trần. Ở kiểu tư duy thứ hai, tác giả
tìm thấy ‘cảm giác trông vắng, hiu quạnh, hẫng hụt của con người khi quá
khứ huy hoàng đã đi qua’ [34, tr.391]; là lời cảnh tỉnh con người trước sự suy
thoái của xã hội, nhắc nhở con người không được quên quá khứ huy hoàng
[34, tr.392]…
Trên đây là một số công trình, bài viết có liên quan đến vấn đề thời
gian thơ đời Trần. Sự điểm qua ấy có lẽ chưa thật đầy đủ. Tuy nhiên, chúng
tôi cũng cố gắng nêu lên những nhận xét có tính bao quát và điển hình đối với
vấn đề cần khảo sát để giúp người đọc thấy được những mặt đã được khai
thác, những mặt chưa đi sâu và phần nào sẽ được tiếp tục trong luận văn này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đặc trưng của đối tượng nghiên cứu, trong quá trình giải
quyết vấn đề, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp sau:
- Một là phương pháp thống kê phân loại. Phương pháp này được sử
dụng để phân chia thơ ca đời Trần thành hai mảng: thơ Thiền và thơ thế tục.
Mặt khác, chúng tôi cũng tập hợp và thống kê được số lượng những câu thơ,
bài thơ có biểu hiện trực tiếp hoặc gián tiếp yếu tố thời gian.
- Hai là phương pháp thống kê miêu tả. Sau khi xác định được những câu
thơ, bài thơ có biểu hiện yếu tố thời gian, chúng tôi tiến hành mô tả sự biểu
hiện ấy nhằm làm rõ đặc trưng thời gian của từng loại hình thơ.
- Bên cạnh các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các
thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp để giải quyết vấn đề. Thao tác phân tích
được sử dụng khi mô tả loại hình thơ nhằm làm rõ những biểu hiện đặc trưng
nhất của thời gian trong thơ đời Trần. Thao tác so sánh được sử dụng thường
xuyên trong luận văn nhằm tìm ra những nét chung mang tính phổ quát của
thời gian trong văn học trung đại, nét độc đáo của thời gian trong thơ đời
Trần, cá tính sáng tạo của mỗi tác giả… Thao tác tổng hợp giúp người viết
thâu tóm vấn đề sau khi đã được phân tích, lí giải.
Trên đây là một số phương pháp, thao tác chủ yếu được sử dụng trong
luận văn. Việc vận dụng các phương pháp, thao tác trong luận văn được tiến
hành phối hợp với nhau nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận.
Phần mở đầu: Lí do chọn đề tài; Mục đích nghiên cứu; Đối tượng nghiên
cứu và phạm vi khảo sát; Lịch sử vấn đề; Phương pháp nghiên cứu; Cấu trúc
luận văn.
Phần nội dung: Gồm 4 chương:
- Chương 1: Thời đại và cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại Việt Nam.
- Chương 2: Cảm thức thời gian trong thơ Thiền đời Trần .
- Chương 3: Cảm thức thời gian trong thơ thế tục đời Trần.
- Chương 4: Nghệ thuật thể hiện thời gian trong thơ đời Trần.
Phần kết luận.
Chương 1:
THỜI ĐẠI VÀ CẢM THỨC THỜI GIAN
TRONG THƠ CA TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
1.1. Thời đại của hào khí Đông A- một mốc son trong lịch sử dân tộc
Cho đến hôm nay, khi lịch sử dân tộc đã bước sang một trang mới thì
những dấu ấn vẻ vang của triều đại nhà Trần vẫn còn vang vọng những âm
hưởng hào hùng, sảng khoái.
Thời đại ấy đã bắt đầu bằng một sự chuyển giao tương đối êm thấm,
hợp tình hợp lý. Người đời đã quên những toan tính, thủ đoạn của Trần Thủ
Độ khi tìm mọi cách lấy ngôi báu về cho nhà Trần. Vì thời đại ấy đã ba lần
chiến thắng quân Nguyên – Mông, một thế lực hung hãn, hiếu chiến từng
chiếm trọn châu Á và nửa châu Âu. Triều đại ấy đã biết tập hợp, kích thích
lòng dân để tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc được phát huy một cách
cao độ: Từ trang thiếu niên Trần Quốc Toản từng bóp nát quả cam ở hội nghị
Bình Than cho đến các cụ già nhất tề hô “đánh” ở hội nghị Diên Hồng; Từ
Trần Thủ Độ tuy không ưa An Sinh Vương vẫn căn dặn vua Thánh Tông nên
để cho Quốc Tuấn nắm giữ binh quyền trong nước cho đến Trần Hưng Đạo
bỏ thù riêng, gác chữ hiếu để toàn tâm toàn ý phụng sự cho sự nghiệp chống
giặc ngoại xâm. Đoàn quân Mông Cổ hùng mạnh, thiện chiến, đông đảo,
hừng hừng tham vọng bá chủ ba lần đặt chân lên lãnh thổ Đại Việt đều rước
lây thất bại ê chề. Mỗi người dân Việt Nam đều hằn sâu trong lòng nỗi nhục
của ngàn năm Bắc thuộc, niềm tự hào sâu sắc về chiến công của Ngô Quyền
đánh lui quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chiến công phá Tống của Lê
Đại Hành, Lý Thường Kiệt… Và bây giờ, vua tôi nhà Trần tiếp tục hun đúc
những nỗi căm thù và lòng tự hào ấy để nó mãi mãi là nguồn động viên tinh
thần trên mỗi bước đường bôn tẩu chống giặc. Vua quan nhà Trần còn là
những người dìu dắt, quan tâm đến quyền lợi của nhân dân để vua tôi đồng
lòng tiễu trừ giặc mạnh. Nhà Trần đã viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân
tộc một cách xứng đáng bằng những chiến công oai hùng và hiển hách.
Xét về văn hóa tư tưởng, thời Trần cũng để lại những dấu ấn sâu sắc
đặc biệt. Tinh thần Tam giáo đồng nguyên đã xuất hiện, phát triển dưới triều
Lý. Và đời Trần đã tiếp thu tinh thần Tam giáo ấy một cách mạnh mẽ. Phật
giáo đời Trần có một vai trò thật đặc biệt. Phật giáo được nâng ngang tầm thời
đại, chứng kiến, đóng góp vào những sự kiện trọng đại của đất nước. Vị vua
đầu tiên của đời Trần đồng thời cũng là ngọn đuốc sáng của Thiền học Việt
Nam Trần Thái Tông. Tuệ Trung thượng sĩ được xem là vị Bồ Tát tại gia với
một tâm hồn siêu thoát ngay cả trong cảnh đời nhiều bụi bặm. Trần Nhân
Tông, vị anh hùng dân tộc đồng thời là người khai sáng phái Trúc Lâm Yên
Tử. Pháp Loa, con người cống hiến trọn đời cho sự nghiệp hoằng dương
chánh pháp. Và Huyền Quang, vị trạng nguyên bác học, nhà phật học uyên
thâm… Chính họ đã tạo nên những nét văn hóa đặc sắc chỉ có được ở đời
Trần. Tinh thần bao trùm lên thời đại này là tự do và phóng khoáng. Bởi thế,
nó đã thúc đẩy sự trỗi dậy của bản sắc văn hóa dân tộc một cách tối ưu. Người
nắm vận mệnh đất nước có bản lĩnh, có sự mẫn cảm phi thường, có sự cởi mở
về quan điểm chính trị… Thế nên, thời Trần còn là thời cực thịnh của sự hòa
hợp tôn giáo. Triều đình cho dựng chùa đồng thời với lập các đạo cung đạo
quán, dựng Văn Miếu và Quốc Tử Giám, quan tâm đến việc đặt giai phẩm
cho tăng đạo, lại sắc phong cho các vị Nho thần. Sự dung hợp Nho, Phật, Đạo
phải chăng cũng là biểu hiện cho tinh thần kêu gọi khối đoàn kết dân tộc, phát
huy sức mạnh của nó trong công cuộc chống ngoại xâm?
Bên cạnh đó, khi nói đến triều đại nhà Trần không thể không nói tới
tinh thần nhân văn rộng mở. Thời đại ấy không chỉ được ghi nhận bởi âm
hưởng hào hùng của công cuộc chống ngoại xâm vĩ đại. Nó còn là âm hưởng
của một thứ nhạc trầm, trầm của cái sâu thẳm trong tâm hồn nhạy cảm tinh tế
trước thiên nhiên và con người, trầm của giây phút riêng tư không vướng bận
bởi nghĩa vụ…
Khi nhà Trần đi vào bước suy vi, vẫn còn đó những trí thức phong kiến
nặng lòng với dân với nước. Và tuy âm hưởng hào hùng đã trở thành một thứ
âm hưởng chủ đạo của thời đại này nhưng những con người đầy tài năng và
tâm huyết mà bất lực trước thời cuộc cũng đã tạo nên một sắc thái độc đáo
riêng. Ấy là tiếng nói đầy trăn trở băn khoăn. Suy cho cùng, đó cũng chính là
biểu hiện của tinh thần nhân văn sâu sắc, tuy nó đã khác về sắc thái so với
thời thịnh Trần.
Nhà Trần, theo quy luật lịch sử, cũng trăn trở lo toan dựng nghiệp, cũng
cống hiến hết mình để xã hội đạt đến độ cực thịnh, và rồi cũng đi đến chỗ suy
thoái. Nhưng hôm nay nhìn lại, giữa biết bao nhiêu thăng trầm sóng gió của
cuộc đời, ta vẫn thấy tươi nguyên một cảm xúc tự hào về những trang sử của
thời đại một đi không trở lại. Người đời sẽ vẫn nhớ, vẫn tưởng như đâu đây
tiếng hô “đánh” quyết liệt của các vị bô lão ở hội nghị Diên Hồng, vẫn tưởng
như Quốc Toản trẻ mãi tuổi mười sáu với một bầu nhiệt huyết căng tràn. Thời
đại ấy không chỉ thuộc về quá khứ, bởi lẽ, tinh thần đặc biệt của nó đã hóa
thân vào từng bước chuyển mình của dân tộc. Và dù dân tộc ấy có mang một
khuôn mặt mới như thế nào, vẫn thấy thấp thoáng đâu đó rất gần gũi tinh thần
yêu nước nồng nàn, tinh thần nhân văn rộng mở, sâu sắc. Bởi đó là những giá
trị không bao giờ cũ, không bao giờ lỗi thời.
1.2. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại
1.2.1. Về khái niệm “Cảm thức thời gian”
Thời gian vốn là hình thức tồn tại của thế giới vật chất với ba chiều quá
khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng khi đề cập đến khái niệm cảm thức thời gian
tức là nói đến kiểu thời gian tâm lí thường tồn tại trong tác phẩm nghệ thuật.
Cảm thức là cách con người nhận thức, đánh giá, xem xét một vấn đề
nào đấy trong cuộc sống bằng con mắt chủ quan, bằng cảm nhận của chính
của họ chứ không phải của một ai khác. Bởi thế, thời gian khách quan khi đi
vào tác phẩm nghệ thuật dường như đã không còn là chính nó. Người ta có
thể thấy thời gian nhanh như thoi đưa, hoặc chậm đến nỗi một ngày như nghìn
thu; Hoặc thời gian không còn là một khái niệm trừu tượng mà có khi tồn tại
ở dạng cụ thể như hương vị, như màu sắc, như vật thể hiện hữu. Thời gian
được cảm nhận không phải bằng các đại lượng vật lý thông thường như giây,
phút, giờ, tháng, năm… mà bằng chính cảm xúc mang rất rõ yếu tố chủ quan
của con người . Tâm lí trong cảnh li biệt có thể làm cho con người ta cảm thấy
thời gian trôi đi sao thật lâu. Thời gian đời người, đối với mỗi cá nhân mà nói,
cũng khác nhau hoàn toàn. Có người thấy đời người dài dằng dặc mà con
người phải tồn tại để gánh chịu sự đày ải; Có người thấy cuộc đời sao ngắn
ngủi như một cái chớp mắt, ngắn ngủi như giấc mộng, thở ra chưa kịp hít vào
đã hết một đời …
Con người thông qua cách cảm nhận về thời gian để trình bày quan
niệm, sự hiểu biết, đánh giá của mình về cuộc đời, về con người, về cái đã
qua, cái hiện tại, cái sắp tới… Thời gian là một đại lượng tồn tại khách quan.
Thế nhưng, đối với mỗi cá nhân, nó lại mang một màu sắc, một dấu ấn riêng
độc đáo. Bởi thế, thông qua cách con người nhìn nhận, đánh giá về thời gian,
ta có thể phần nào đọc được tâm hồn, tính cách của họ.
Thời gian không phải là một yếu tố duy nhất hé mở thế giới tâm hồn
con người. Bên cạnh đó còn có cảm thức về không gian, về con người, về các
hiện tượng tự nhiên… Thế nhưng có một điều rất dễ nhận ra là không một ai
lại có thể đứng ngoài bước đi của thời gian, không một ai lại không một đôi
lúc thấy cuộc đời hoặc ngắn ngủi hoặc đằng đẵng. Có nghĩa là cảm thức về
thời gian là một hiện tượng mang tính phổ quát. Thế nên xem xét và đánh giá
cảm thức thời gian của một lớp người nào đấy trong xã hội, ta có thể đọc ra
phần nào chân dung của thời đại ấy. Họ đã dùng yếu tố thời gian như một
phương tiện để lí giải con người, cuộc đời. Thời gian không còn là một đại
lượng trôi đi theo chiều tuyến tính giản đơn nữa. Quá khứ có thể sống mãi với
một cá nhân nào đấy nếu trong quá khứ chứa đựng một biến cố có tác động
sâu sắc đến đời sống tinh thần của họ. Hay tương lai có thể đem đến cho
người ta sự chán nản, vô vọng nếu nó mờ mịt mất phương hướng hoặc nôn
nóng, chờ đợi, hi vọng nếu nó đầy hứa hẹn. Thực tại cũng có lúc thật vô nghĩa
hay sẽ trở nên bất tử… Tóm lại, thời gian trong cảm thức của con người như
một cơ thể sống với các trạng thái cảm xúc phong phú, phức tạp được mở
rộng các đường biên để sống hết các chiều kích của nó, để đánh dấu những
thời khắc đặc biệt trong cuộc sống của mỗi cá nhân hay của cả cộng đồng.
Như vậy, con người có thể cảm nhận, đánh giá về mọi vấn đề của cuộc
sống, trong đó có thời gian. Con người thông qua đó để giãi bày thế giới tâm
hồn của mình với những nghĩ suy, những trăn trở... Cảm thức thời gian
thường in đậm dấu ấn lên các tác phẩm nghệ thuật. Và dường như chính sức
mạnh biểu hiện đa dạng, phong phú của ngôn ngữ đã giúp văn học lưu lại dấu
ấn về cảm thức thời gian một cách sâu sắc, sinh động hơn hẳn các loại hình
nghệ thuật khác. Nó không chỉ là một mảnh vỡ về thời gian được lưu lại bằng
hình khối, màu sắc hay âm thanh mà với một dung lượng ngôn từ ít ỏi, nó có
thể bao gồm những biến cố lớn lao của cả một đời người hay cả một thời đại.
Quan trọng hơn cả là nhìn những thời khắc được người đời cảm nhận có thể
giúp ta thấu hiểu họ, đọc được con người bên trong với những biến thái tinh
vi của tâm hồn để chiêm nghiệm lại chính con người và cuộc sống của mình,
để tìm niềm vui và ý nghĩa cuộc sống ngay trong nỗi buồn, trong những mất
mát vì bài học tâm hồn là bài học luôn mới mẻ, ngay cả khi ta nhận được nó
từ những người cách ta hàng ngàn năm.
1.2.2. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại Việt Nam
Kéo dài gần mười thế kỉ, văn học trung đại tuy vẫn được nhìn nhận như
một nền văn học tồn tại trong tính quy phạm chặt chẽ nhưng thật ra, ở mỗi
thời đại, mỗi cá nhân, ta vẫn nhận ra những nét c._.á tính độc đáo, tinh tế.
Phương diện thời gian nghệ thuật trong thơ ca trung đại tuy bị chi phối bởi
những quan niệm được kế thừa của văn học Trung Hoa nhưng không vì thế
mà không lưu lại dấu ấn cho mỗi thời đại.
Về cơ bản, theo giáo sư Trần Đình Sử, như đã đề cập trong phần lịch sử
vấn đề, thời gian trong văn học trung đại được nhìn nhận dưới hai khía cạnh.
Thứ nhất, thời gian luôn gắn liền với cảm hứng lịch sử. Ở khía cạnh này, thời
gian biểu hiện qua những nghĩ suy về thời cuộc, về dân tộc, về lẽ thịnh suy
của thời đại. Thứ hai, con người trung đại nhận thức về thời gian dưới hai
bình diện đối lập: đó là thời gian vũ trụ trôi chảy vĩnh hằng và thời gian đời
người ngắn ngủi chóng vánh. Và cũng theo giáo sư Trần Đình Sử, dấu ấn về
thời gian trong thơ ca trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm
thời gian trong thơ ca Trung Quốc. Tuy nhiên, đọc thơ ca trung đại Việt Nam,
ta vẫn nhận ra những nét hồn hậu, giản dị rất đặc trưng của con người phương
Nam vốn có một nền văn hiến riêng biệt. Thời gian vì thế cũng mang cái cốt
cách dân tộc ấy.
Khi phản ánh thời gian lịch sử, thơ ca trung đại thường có xu hướng bất
tử hóa khoảng thời gian mà cha ông ta đã đạt được những chiến công hiển
hách trong công cuộc chống giặc ngoại xâm vĩ đại. Điều này được thể hiện
khá rõ trong Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Thuật hoài của
Phạm Ngũ Lão, Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu… Họ hoặc
đứng ở thời điểm diễn ra chiến công như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão
mà ca ngợi những thời khắc thiêng liêng ấy, hoặc nhìn về quá khứ để cảm
phục và ngậm ngùi như Trương Hán Siêu. Mặt khác, thời gian ở đây còn được
không gian hóa, nó gắn liền với tên sông, tên núi, nơi ghi dấu những trận đánh
của cha ông. Dù lịch sử có nhiều biến đổi nhưng kiểu thời gian và không gian
này sẽ luôn được nhắc tới như một điển cố, tượng trưng cho tinh thần dân tộc
sâu sắc và mạnh mẽ, một giá trị luôn được huy động bởi hoàn cảnh lịch sử
đặc biệt của dân tộc.
Thời gian không chỉ đọng lại ở những chiến công vang dội, thời gian
còn được cảm nhận qua những nỗi niềm ưu tư trước sự suy vi của thời đại. Đó
là nỗi niềm nhớ tiếc một quá khứ vàng son, là nỗi trăn trở đau đáu của những
con người trí thức mà bất lực trước sự suy thoái của lịch sử. Ta thường gặp
kiểu thời gian này vào thời điểm cuối của các triều đại, khi giai cấp phong
kiến không còn nắm giữ vai trò lịch sử tích cực nữa. Đó là tiếng nói trong thơ
Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh ở giai đoạn vãn Trần, là thơ Nguyễn
Du ở thế kỷ XVIII, thơ Nguyễn Đình Chiểu thế kỷ XIX… Thời gian có vai
trò khắc họa chân dung người nghệ sĩ “ngơ ngác” nhìn sự biến đổi của thời
cuộc mà nhớ tiếc, đớn đau, nghĩ suy, dằn vặt… Tóm lại, thời cuộc với những
biến đổi lớn lao đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm về thời gian của các tác
giả văn học trung đại. Họ không đứng ngoài thời gian lịch sử vốn gắn liền với
vận mệnh dân tộc. Và hôm nay nhìn lại những biểu hiện về thời gian trong
các trang viết của họ, ta đọc được niềm lo lắng, sự thương yêu con người của
họ. Có lúc họ đành bất lực nhìn lịch sử xoay vần điên đảo. Nhưng một cái
Tâm sáng trong, vị tha là điều đã vượt qua thời gian để đến hôm nay những
thế hệ đi sau còn thấy ấm lòng và ngưỡng vọng.
Mặc dù thơ ca trung đại chủ yếu đề cập đến những vấn đề lớn lao của
thời đại và dân tộc nhưng bản chất của thơ bao giờ cũng là sự bộc lộ thế giới
nội tâm, nội cảm. Khi đối diện với thế giới khách quan, con người trung đại
thường cảm thấy mình bé nhỏ, hữu hạn trong cái bao la trường cửu của không
gian và thời gian vũ trụ. Thế nên, trong thơ, đặc biệt là thơ Thiền, ta cảm nhận
được chiều dài vĩnh hằng của thời gian vũ trụ và thời khắc ngắn ngủi, chóng
vánh của kiếp người. Khác với kiểu thời gian lịch sử như đã trình bày ở phần
trên, thời gian ở phương diện này luôn hiện lên bằng một cặp phạm trù đối
lập: đó là cái vĩnh hằng, vô hạn, vô thủy, vô chung của thời gian khách quan
và cái ngắn ngủi, hữu hạn, vô nghĩa trong đời con người. Chúng hiện lên khi
là sự nuối tiếc thiết tha, khi là thái độ chấp nhận bình thản. Nuối tiếc vì con
người cảm thấy còn nặng nợ với đời, cảm thấy bất lực và nhỏ bé trước sự vận
động vĩnh hằng của thời gian vũ trụ. Bình thản khi con người đã đạt đến trạng
thái tự do tuyệt đối của tâm hồn, quên hết thảy nỗi ám ảnh về cái chóng lụi
tàn của kiếp người mà sống vui, sống khỏe, sống tự tại… Nỗi lo lắng thường
có trong con người thi sĩ – nhà Nho bởi lẽ, con người nhà Nho là con người
của trách nhiệm. Còn sự bình an tuyệt đối thường được cảm nhận bằng con
mắt và tâm hồn của các Thiền sư – thi sĩ. Tất nhiên sự lí giải này chưa thật sự
mang tính phổ quát bởi vì khi đi sâu vào thế giới thơ của mỗi cá nhân, ta cũng
có thể thấy sự chuyển hóa các kiểu quan niệm về thời gian. Đây chỉ là điều
người đọc dễ nhận thấy nhất mà thôi..
Tính quy phạm chặt chẽ của văn học trung đại đã không làm mất đi vẻ
đẹp riêng trong những quan niệm rất chung về thời gian. Bên cạnh đó, cha
ông ta cũng đã lựa chọn một cách thông minh, tinh tế, đầy cá tính những ảnh
hưởng từ quan niệm thời gian của văn học Trung Quốc để chuyển hóa nó trở
thành thanh âm đậm đà bản sắc dân tộc.
Là một yếu tố của thế giới hình tượng thơ ca trung đại, thời gian phần
nào đã hé mở một phần quá khứ tinh thần phong phú, sâu sắc của một nền văn
học tuy có phần mượn của người về hình thức thể loại, về hệ thống thi liệu, về
những quan niệm nhân sinh… nhưng bên trong nó là tâm hồn, là tính cách
của một dân tộc luôn biết ứng xử linh hoạt và tự trọng. Chính lòng tự trọng
dân tộc đã tạo nên sự sáng tạo độc đáo cho một thời đại văn học quan trọng
trong lịch sử văn học dân tộc.
Chương 2:
CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ THIỀN ĐỜI TRẦN
2.1. Vị trí của thơ Thiền trong văn học đời Trần
Thơ Thiền không chiếm vị trí độc tôn trong văn học đời Trần. Làm nên
diện mạo của văn học thời kì này còn là những vần thơ với cảm hứng yêu
nước sôi nổi, hào hùng, là giọng thơ thống thiết bi ai của những trí thức yêu
nước mà bất lực trước sự suy vi của thời đại… Thế nhưng, chính thơ Thiền đã
hé lộ những biểu hiện rất quan trọng trong tâm hồn và tính cách con người
thời đại nhà Trần.
Người cầm bút viết thơ Thiền cũng chính là người cầm vũ khí đánh
giặc. Người làm thơ Thiền có khi cũng là người nhập thế tích cực hơn ai
hết… Và thơ Thiền, qua những vần thơ đạm bạc, nhẹ nhàng đã biểu lộ tinh tế
những rung động sâu xa, những nghĩ suy, chiêm nghiệm trong cuộc sống của
thiền sư – thi sĩ. Thơ Thiền là mảnh đất bình yên nuôi dưỡng tâm hồn con
người sau những ồn ào triều chính, sau những được mất ở cuộc sống vốn rất
nhiều những lo toan và phiền lụy. Bởi vốn dĩ, tự trong sâu thẳm tâm hồn, con
người vẫn chuộng cõi riêng tư, tự do. Trải thân chốn xa trường, tham gia triều
chính là bổn phận, là nghĩa vụ của bậc chí nhân quân tử. Nhưng thẩm mĩ dân
tộc cũng hướng họ biết yêu và rung cảm trước những gì thanh nhã, tinh tế…
Cho nên, đọc tâm hồn của con người đời Trần, nhất là cái khoảng tâm hồn
trong những khoảnh khắc trống không, vắng lặng trước cuộc đời, không thể
không đọc thơ Thiền. Đạo trong Thiền vốn không phải là thứ đạo dạy con
người sợ hãi và trốn tránh cái chết, trốn tránh cuộc đời. Thơ Thiền hướng con
người trở về cái bản ngã đích thực, trở về cái gốc hồn nhiên trong sáng như
trẻ thơ. Bởi thế, thơ Thiền là thứ thơ của tình yêu người, yêu đời hơn hết. Và
khái niệm yêu đời và ham sống ở đây được hiểu là: Người theo Thiền không
bám riết lấy cuộc sống trần tục vốn rất nhiêu khê, thậm chí, ngay cả ngai vàng
điện ngọc, đối với họ cũng như chiếc giày rách, có thể dễ dàng từ bỏ mà
không nuối tiếc.
Thơ Thiền cho phép ta “ ngộ” ra rất nhiều phần tâm linh sâu kín của
các bậc tiền nhân. Nó ra đời từ thời Lý cùng với những thành tựu của Phật
giáo. Thế nhưng, chỉ đến đời Trần, thơ Thiền mới thật sự thoát thai khỏi chức
năng tôn giáo – triết học, trở thành một thứ thơ ca thật sự với yếu tố trữ tình
mềm mại.
Thơ Thiền đã song hành cùng với thơ thế tục để phản ánh đầy đủ chân
dung, tính cách và tâm hồn con người đời Trần – con người của một thời đại
đặc biệt biết bám chắc mặt đất để thực hiện nghĩa vụ công dân đồng thời lại
biết nâng bổng đôi cánh tâm hồn để sống cho chính mình với một cuộc sống
nội tâm đủ đầy, phong phú.
2.2. Thời gian thực tại đắm say của giây phút đạt đạo - Sự vĩnh hằng hoá
khoảnh khắc
Đối với con người đời Trần, cái vui chiến thắng giặc ngoại xâm là một
niềm vui lớn, niềm vui của toàn dân tộc. Thế nhưng, cảm xúc ấy không hoàn
toàn chiếm lĩnh đời sống tâm hồn của họ. Họ biết sống vì đã biết góp nhặt
từng niềm vui nhỏ bé trong cuộc sống thường nhật – cuộc sống thực tại. Và
điều đó đã tạo nên cho văn học đời Trần một kiểu thời gian khá đặc biệt – Đó
là thời gian thực tại đắm say của giây phút đạt đạo – và giây phút ấy đã được
vĩnh hằng hóa.
Không phải ngẫu nhiên mà con người có thể cảm nhận được niềm hạnh
phúc trong cuộc sống thanh đạm, bình dị. Có khi thời tuổi trẻ đã đi qua với rất
nhiều những nông nổi, sai lầm. Đến khi bạc đầu, ngoảnh nhìn lại, con người
tự cười mình sao mải miết chạy theo những điều phù phiếm xa xôi. Có khi,
chỉ một khoảnh khắc rất ngắn, rất nhanh, con người lập tức ngộ ra những điều
tưởng bí ẩn trong nhận thức và tâm linh. Thơ Thiền đã ghi lại những khoảnh
khắc đặc biệt ấy bằng những vần thơ bình đạm, nhẹ nhàng và tinh tế. Kiểu
thời gian này được tìm thấy không ít trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung
thượng sĩ, Trần Thánh Tông, Trần Minh Tông, Huyền Quang… Mỗi người
đều tự tạo cho mình một phong cách riêng độc đáo. Tuy nhiên, lòng ham
sống, yêu mến từng khoảnh khắc của thực tại đã giúp họ gặp nhau trong sự
cảm nhận về thời gian.
Trước hết, ta hãy đọc thơ Trần Thái Tông. Người đến với thơ Thiền để
đi tìm niềm thanh thản cho tâm hồn sau những bi kịch mà thời đại và sứ mệnh
lịch sử đã khoác lên số phận của mình. Trần Thái Tông làm vua, đánh giặc,
chống ngoại xâm, xây dựng một triều đại vừa thoát thai từ sự suy vi của nhà
Lý. Và Trần Thái Tông còn là một nhà thơ với những rung cảm tinh tế trước
thiên nhiên, với những trăn trở thao thức trước thế sự, cuộc đời. Thơ Trần
Thái Tông nổi bật với cảm hứng sám hối. Tuy nhiên không vì thế mà thơ ông
thiếu vắng niềm vui trần thế. Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn là một
minh chứng điển hình:
Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình,
Tâm kì phong cảnh cộng thê thanh.
Cá trung tư vị vô nhân thức,
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh.
(Gió đập cửa thông, trăng sáng trước sân,
Lòng hẹn với phong cảnh cùng trong sạch lặng lẽ,
Bao nhiêu thú vị trong đó không ai hay,
Mặc cho nhà sư trong núi vui đến sáng.)
Bài thơ đã đề cập đến một thời khắc đặc biệt: đó là lúc con người và
cảnh vật hòa điệu trong một niềm an lạc bất tận. Và niềm vui đã nhẹ nhàng
lan tỏa vào cảnh và lòng người, không chút ồn áo, náo nhiệt. Niềm vui tràn
đầy được tìm thấy, không phải ở chốn nào xa lạ với con người. Đó là gió, là
trăng, là lòng người đã cùng hòa điệu ở giây phút thực tại. Niềm vui giản dị
không thể gọi thành lời, không thể giải thích tại sao con người lại cảm thấy
say mê đến vậy. Có một thứ trực giác đặc biệt đã quán xuyến sự cảm nhận
của nhà thơ trước thiên nhiên. Hình ảnh sơn tăng (sư trong núi) với niềm vui
không dứt như quên cả bước đi của thời gian đã làm cho bài thơ có một sức
ngân vang lạ lùng. Thường thì thơ ca vốn rất nhạy cảm với nỗi buồn. Thế
nhưng, không hiểu sao, niềm vui trong bài thơ cứ như những âm thanh tuy
nhẹ nhàng nhưng thấm thật sâu vào cảm quan người đọc. Niềm vui từ bài thơ
không tan biến mà lẩn quất đâu đó rất gần như thể chỉ chạm tay là hái ngay
được nó. Không phiền lụy, không đau đớn, con người tự hòa mình vào thiên
nhiên để sống cho trọn vẹn mối duyên lành ấy. Có lẽ, ở giây phút này, Trần
Thái Tông cho phép mình tạm quên những tháng ngày bôn tẩu chống giặc,
tạm quên những phiền lụy trong cuộc đời làm vua đầy trách nhiệm nặng nề.
Ông chỉ nhớ mình là một phần của cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ giữa gió, trăng
lặng lẽ, trong trẻo. Phải chăng, thời khắc thực tại đặc biệt ấy bắt nguồn từ một
kinh nghiệm mỹ cảm thâm thúy? Chính nó đã biến sự vận động của vũ trụ trở
thành sự vận động của tâm thức con người – con người đứng giữa nhân quần
náo nhiệt phiền lụy vẫn để tâm trong sáng, hướng về cái đẹp, cái đáng sống
của thiên nhiên.
Đọc thơ Trần Thái Tông dường như chưa đủ. Thái Tông là bó đuốc dẫn
đường cho cảm hứng nghệ thuật thấm đẫm mỹ cảm của Thiền phát triển. Sau
ông, người khai sáng, còn có Tuệ Trung thượng sĩ, Trần Thánh Tông, Trần
Nhân Tông, Trần Minh Tông, Huyền Quang…
Tuệ Trung thượng sĩ là một trường hợp đặc biệt. Ông từng trực tiếp
tham gia cầm quân chống giặc trong cả ba cuộc đại phá quân Nguyên –
Mông. Sau đó lại tiếp tục đi tu nhưng là tu tại gia. Ông trở thành một nhà
Thiền học lớn với khuynh hướng phá vỡ khuôn phép giáo điều của tu giới
thời bấy giờ. Những vần thơ về thời gian trong thơ ông không thật nhiều
nhưng không thể không đề cập đến, vì chủ nhân của nó là một thứ hương sắc
đặc biệt của vườn Thiền.
Thời gian thực tại say đắm trong thơ Tuệ Trung là kiểu thời gian hưởng
thụ trọn vẹn hương vị của cuộc sống vốn tràn ngập niềm vui. Trong Giang hồ
tự thích, ông viết:
Thanh phong minh nguyệt sinh nhai túc,
Lục thủy thanh sơn hoạt bế đa.
Hiểu quải cô phàm lăng hãn mạn.
Vãn hành đoản địch lộng yên ba.
(Gió mát, trăng thanh sinh nhai đủ,
Non xanh, nước biếc, kế sống dồi dào.
Buổi sớm kéo cánh buồm cô đơn băng mặt nước mênh mông,
Chiều hôm cầm ngang chiếc sáo ngắn đùa với khói sương.)
Thời gian có sự vận động từ buổi sáng cho tới chiều hôm. Nhưng chiều
hôm trong thơ Tuệ Trung vốn chỉ như một cột mốc đánh dấu những thời khắc
mà con người đang sống chứ không chứa đựng sự tàn lụi, héo úa như thơ xưa.
Ở thời khắc ấy, con người cảm thấy mình đầy đủ và giàu có. Tuệ Trung
thường hay nhìn cuộc đời với tính chất hư ảo và ngắn ngủi của nó. Tuy nhiên,
ở Giang hồ tự thích, ta chỉ gặp sự bình yên giản dị mà ông đã chắt lọc từ
cuộc sống thiên nhiên. Sự say mê mở rộng theo các chiều kích của không
gian. Nhưng ấn tượng về thơ Tuệ Trung không chỉ có thế. Thời gian ở nhiều
bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt làm con người “đốn ngộ”, không phải
bằng những triết lí cao siêu xa vời mà gần gũi, giản dị. Trong một bài thơ
cùng tên Giang hồ tự thích khác, ông viết:
Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn,
Trắc giác thu phong biến thập châu.
(Từ đâu vẳng lại một tiếng nhạn mới,
Bất giác thấy gió thu hiện lên khắp mười cõi.)
Thu phong là một dấu hiệu cho thấy sự chuyển đổi của thời gian. Thế
nhưng, trong cảm nhận của Tuệ Trung, thu lại được đánh thức bằng một tiếng
nhạn bất ngờ. Và thời gian như một làn hương lan tỏa trong không khí, rộng
khắp cả không gian và cõi lòng của thiền sư – thi sĩ. Cứ như mọi vật trong vũ
trụ đã hẹn nhau từ muôn kiếp nào để bây giờ, nhận thấy tín hiệu ấy, chúng bắt
đầu hòa hợp với nhau trong một mối duyên đằm thắm, trọn vẹn. Thật lạ kì là
thời gian không được đánh dấu bằng ngày, tháng, năm… mà lại bằng một thứ
âm thanh bất ngờ, rộn ràng của một loài tượng trưng cho mùa: chim nhạn.
Tiếng chim nhạn không chỉ làm thức dậy cả một không gian mà còn có khả
năng chuyển đổi khí thu – một mùa đặc biệt trong năm – thay thế cho mùa hạ.
Mùa thu đến bằng âm thanh của tiếng chim nhạn. Và mùa xuân cũng là
một mùa trong năm được nhà thơ khơi dậy bằng một chấm sáng đầy tính gợi
hình đồng thời cũng mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:
Báo quân hưu ỷ tha môn hộ,
Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa.
(Báo cho anh biết đừng có dựa dẫm vào cửa nhà người khác,
Chỉ một chấm sáng mùa xuân vừa lóe hiện lên thì khắp chốn đều
nở hoa.)
(Thị học)
Không gian, thời gian, con người và tạo vật, trong phút chốc hòa điệu
với nhau, đợi chờ nhau tỏa sáng trong mối tương quan gần gũi. Cái nhất điểm
xuân quang vốn trừu tượng giờ trở nên cụ thể qua hình ảnh xứ xứ hoa. Mùa
xuân không chỉ được gợi ra bằng không khí mà còn bằng hình ảnh qua cảm
nhận trực giác của nhà thơ. Và cái không khí mùa xuân mơ hồ ấy đã được hữu
hình hóa qua hình ảnh những đóa hoa nở khắp chốn. Hay trong Phúc Đường
cảnh vật, ông cũng viết:
Thông môn đào lý lộng xuân quang.
(Suốt từ ngõ đi vào, đào mận đùa giỡn ánh xuân.)
Ánh xuân cũng như gió xuân được nhìn nhận qua một hình ảnh khác.
Mận và đào vốn đặc trưng cho mùa xuân hay chính cái không khí mùa xuân
đã mang lại sức sống cho chúng? Thơ Tuệ Trung không giải thích cái nào là
điều kiện cho cái nào vì dường như chúng xuất hiện và tồn tại đồng thời.
Trạng thái tồn tại của chúng cũng là thời điểm non tơ đầy sức sống. Lộng là
đùa giỡn vốn được dùng để chỉ hành động của con người. Bây giờ nó được
dùng để chỉ hành động của sự vật. Điều đó đã mang đến cho câu thơ sự sống
động. Sức sống ấy có từ trạng thái tràn đầy xuân sắc của vạn vật trong vũ trụ.
Không quá khứ của mùa đông lạnh lẽo thê lương, không ngày mai của mùa hè
chói gắt nắng nôi, thơ Tuệ Trung tập trung vào cái sinh động vui tươi của
ngày hôm nay, của giây phút thực tại, của sự hòa nhịp giữa vạn vật trong vũ
trụ. Cái thần của sự hòa hợp ấy được thâu nhận bằng một nhãn quan tinh tế
say đắm. Thế nên nói tới vạn vật trong vũ trụ còn là nhắc tới sự tồn tại của
con người vốn nhạy cảm và trân trọng sự sống. Có thế, ánh xuân quang mới
toàn vẹn.
Dù Thị học hay Nhập trần, xuân cũng đến với Tuệ Trung bằng một
dấu hiệu rất đặc trưng, đó là sắc của hoa và gió của xuân:
Tự đắc nhất triêu phong giải đống,
Bách hoa nhưng cựu lệ xuân đài.
(Một sớm gió đông thổi tan băng giá,
Trăm hoa như cũ reo trước gió xuân.)
Chính ngọn gió đông tưởng đã thành quy luật thế mà vẫn đem đến sự
say đắm ngất ngây cho tâm hồn con người ở thời khắc hiện tại. Bức tranh
phong cảnh không có hình bóng con người nhưng không vì thế mà thiếu sự
reo vui ấm áp.
Tuệ Trung thượng sĩ vốn là một người nhập thế tích cực. Điều này đã
được minh chứng qua cuộc đời tham gia triều chính của ông. Thế nhưng công
danh, đối với ông là một vấn đề không quan trọng. Có lẽ, do ông đã thấu đạt
được một điều thật giản dị mà cũng thật sâu sắc: lẽ sống của cuộc đời là sự
hòa hợp cùng thiên nhiên vạn vật ở giây phút đắm say trước mắt:
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.
(Tài rường cột chưa được dùng, người đời chớ lấy làm lạ,
Nơi đây cỏ nội hoa nhàn đầy trước mắt.)
(Giản đề tùng)
Sự thiếu hay đủ đối với một con người có lẽ không phải ở vấn đề nhiều
hay ít mà do ở chính nhãn quan thấu lẽ đời. Cái đầy trước mắt là cái đầy của
thiên nhiên tạo vật chứ không phải công danh phú quý. Đối với thiền sư, khi
cuộc sống có hoa cỏ, mây núi… là đủ, là đầy, là hài lòng, hài lòng đến sảng
khoái, hài lòng đến say đắm.
Nhập trần đã giúp Tuệ Trung sống trọn vẹn với giây phút thực tại.
Nhưng ở Thoái cư, con người này vẫn hưởng thụ trọn vẹn từng phút giây của
cuộc sống quanh mình:
Dạ mộng Quan Âm nhập hương thảo,
Thu giang thanh thiển lộ hoa hành.
(Đêm mơ thấy Phật Quan Âm vào chốn cỏ hoa,
Sông mùa thu vừa trong vừa cạn, hoa sương bay khắp nơi.)
Phật cũng nhập vào đời sống của chúng sinh để có thể cảm nhận được
cái trong mát, bay bổng của cuộc sống trần thế. Không gian mở rộng, thoáng
đãng, thời gian được tái hiện qua giấc mơ đêm thế nhưng ấn tượng còn lại về
thời gian lại là thực gần gũi, ấm áp. Hai khoảng thời gian thường gặp trong
thơ Tuệ Trung là mùa xuân với sự rộn ràng vui tươi và mùa thu với cái trong
trẻo tĩnh lặng. Ở đâu cũng gặp một con người dường như đang im lặng, không
phải để trăn trở đau đời mà để cảm nhận hết cái không gian thấm đẫm ý vị của
sự sống trong lành, bình đạm. Là tấm lòng rộng mở thâu nhận hết sự sống
đang cựa quậy, đang sinh sôi, đang rộn ràng. Và dường như càng hướng về
thiên nhiên, con người càng trở nên bình yên đến lạ lùng, sự bình yên ấy có
được từ sự bằng lòng trước cái đủ đầy mà thiên nhiên mang lại.
Ấn tượng sâu sắc nhất về Tuệ Trung, đối với nhiều người, thường là
những vần thơ ngang tàng, phóng túng. Thế nhưng, ở một phương diện khác,
ông lại như một ông già hiền lành giản dị đưa con mắt bình thản đã trải
nghiệm nhiều nhọc nhằn gian khổ, nhiều vinh quang ở đời để đón nhận những
ban tặng hào phóng của thiên nhiên hoa cỏ. Dù đó không phải là âm hưởng
chủ đạo trong thơ Tuệ Trung nhưng những vần thơ sinh động một cách nhẹ
nhàng ấy vẫn nói thật nhiều về con người ông nói riêng và con người thời
Trần nói chung. Có lẽ con người chỉ có thể cảm thấy hạnh phúc khi biết trân
trọng từng giây phút đang có chứ không phải là nuối tiếc những vinh quang
trong quá khứ hay mong chờ những điều còn chưa xảy ra ở tương lai. Và điều
này thật đúng với Tuệ Trung thượng sĩ.
Vị vua thứ hai của đời Trần là Trần Thánh Tông, người từng ở ngôi hai
mươi mốt năm, đồng thời cũng là người có sáng kiến triệu tâp hội nghị Diên
Hồng để khích lệ tinh thần đoàn kết, tinh thần yêu nước, là người phát động
phong trào thích chữ Sát Thát đầy hào khí lên cánh tay mỗi chàng trai Đại
Việt để giữ lửa cho quyết tâm chống giặc của quần chúng. Cùng với Trần
Nhân Tông, với tư cách là thái thượng hoàng, Trần Thánh Tông đã lãnh đạo
nhân dân Đại Việt làm nên chiến thắng 1285, 1288 lừng lẫy.
Từng ấy nét phác họa đã cho ta thấy vị thế, vai trò của Trần Thánh
Tông đối với đất nước. Thế nhưng cũng như Trần Thái Tông, sau rất nhiều
nhọc nhằn trăn trở, Trần Thánh Tông vần dành cho mình những giây phút
riêng tư. Thơ Trần Thánh Tông không nặng lòng sám hối giống vua cha.
Dung lượng cũng không thật nhiều. Đến nay còn lại chỉ khoảng bảy bài. Tuy
ít nhưng cũng phần nào cho ta thấy được tâm thế của ông trong cuộc đời, và
đặc biệt là quan niệm về thời gian trong thơ ông.
Trong Hạnh An Bang phủ, thời gian hiện lên là thời gian rong chơi,
thời gian vui thú, thưởng ngoạn, thời gian khơi dậy nguồn cảm hứng của hình
tượng thơ:
Triêu du phù vân kiệu,
Mộ túc minh nguyệt loan.
Hốt nhiên đắc giai thú,
Vạn tượng sinh hào đoan.
(Sáng chơi ngọn núi có đám mây nổi,
Tối về nghỉ ở eo biển trăng sáng.
Bỗng nhiên được hứng thú hay,
Muôn hình tượng nảy sinh nơi đầu ngọn bút.)
Thời gian trôi chảy với một nhịp điệu chậm rãi và mỗi thời khắc đặc
biệt của cảm xúc được đánh dấu bằng một hình tượng thơ: Sáng: ngọn núi có
đám mây nổi; Tối: eo biển trăng sáng. Và thời gian đã khắc họa nên bước
chân thong thả, con mắt say đắm của con người ở mỗi thời khắc đi qua, mỗi
thời khắc trải nghiệm vẻ đẹp của cuộc sống.
Trong Hạ cảnh, thời gian lại ngưng đọng trong tiếng ve kêu rộn rã.
Và tiếng kêu ấy đã làm lay động cái tĩnh lặng rất đặc trưng của buổi chiều:
Yểu điệu hoa đường trú ảnh trường,
Hà hoa xuy khởi bắc song lương.
Viên lâm vũ quá lục thành ác,
Tam lưỡng thiền thanh náo tịch dương.
(Nhà hoa thăm thẳm, bóng ngày rủ dài,
Hoa sen đưa hương, mát đến cửa sổ phía bắc.
Vườn rừng sau mưa trở thành tấm màn biếc,
Vài ba tiếng ve kêu rộn bóng chiều.)
Bóng chiều trong thơ trung đại là một khoảng thời gian thường mang
nặng những tâm sự u uẩn, những nỗi buồn nặng trĩu. Thế nhưng bóng chiều
trong Hạ cảnh lại chứa đựng cái tươi sáng, quang đãng của bầu trời sau cơn
mưa, âm thanh của tiếng ve rộn rã… Bởi lẽ, đó là giây phút vạn vật hòa hợp
vào nhau, nương tựa vào nhau để dệt nên một sắc chiều không hề bi lụy mà
tươi sáng rộn ràng. Trong khung cảnh ấy, con mắt thi nhân cũng dõi theo với
một niềm say đắm vô biên.
Tuy nhiên, đối với Trần Thánh Tông và rất nhiều thi sĩ đời Trần khác,
thời điểm thực tại đắm say không chỉ thể hiện sự hòa hợp giữa cảnh vật và
lòng người mà đó còn là giây phút tâm linh được khai mở, thấu hiểu lẽ thật về
con người và cuộc đời., Trong Độc Đại Tuệ ngữ lục hữu cảm, Trần Thánh
Tông viết:
Đã ngõa toàn quy tam thập niên,
Kỷ hồi hãn xuất vị tham thiền.
Nhất triêu thức phá nương sinh diện,
Tỵ khổng nguyên lai một bán biên.
(Ba mươi năm dùi rùa đập ngói,
Mấy lần toát mồ hôi vì tham cứu đạo Thiền.
Một sớm mai bỗng thấy hết được khuôn mặt của mẹ,
Thì ra khuôn mặt ấy chỉ còn một nửa.)
Đoạn thơ có sự đối lập giữa hai thời điểm trong cuộc đời con người:
ba mươi năm đằng đẵng lao tâm khổ tứ trên con đường đi tìm chân lí và một
sớm mai ngắn ngủi lại bất chợt nhìn thấy lẽ đạo qua hình ảnh nương sinh diện
– tức là mẫu, là người mẹ, là cái “đạo” hay cái “tâm” làm nảy sinh ra thế giới
hiện tượng. Cái “đạo” ấy được tác giả khám phá ra bởi giây phút bất chợt
trong một khoảnh khắc rất nhỏ. Và thời điểm khám phá ra chân lí ấy quan
trọng hơn rất nhiều so với bao nhiêu năm làm những việc vô ích thừa thãi một
cách máy móc. Cái sớm mai bất chợt ấy đã làm thay đổi quan niệm về cuộc
đời của nhà thơ. Không còn lo lắng trăn trở vì lẽ đạo chưa đạt. Cuộc sống đã
trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
Vẫn trong dòng cảm xúc ấy, Tự thuật là một sự bổ sung. Khi chưa đạt
đạo thì:
Tự tòng quán dốc nhập Thiền lưu,
Đả ngõa toàn quy một ngoại cầu.
(Từ thưở còn để trái đào đã gia nhập dòng Thiền,
Dùi rùa đập ngói không cầu gì khác.)
Cho đến lúc chợt tỉnh thì:
Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm,
Nhàn môn vô sự khả quan tâm.
(Suốt ngày thảnh thơi gảy cây đàn muôn điệu,
Trong cánh cửa nhàn không có việc gì đáng để tâm)
Một con người hoàn toàn khác ở giây phút thực tại: Không cầu Thiền,
không canh cánh nỗi trăn trở vì chưa đạt đạo. Đó là con người của sự nhàn
tâm, nhàn thân, không vướng bận lo toan. Nhàn môn phải chăng là cửa lòng
rộng mở, bình an trước tất cả những xao động của cuộc đời? Âm hưởng thơ
cũng thay đổi. Thơ của tuổi trẻ bồng bột, sôi nổi. Thơ ở giây phút thực tại
chậm rãi, nhẹ nhàng, bình lặng. Nó chứa đựng lòng yêu đời đằm thắm, tinh tế.
Nó là biểu hiện của thái độ trân trọng sự sống một cách điềm tĩnh, sâu sắc.
Có lẽ Trần Thánh Tông là tác giả thơ Thiền tiêu biểu cho thái độ nhận
chân giá trị thực tại. Ông luôn nêu lên hai phương diện đối lập trong cuộc đời
tu hành của mình: Cái đằng đẵng của tuổi trẻ dốc toàn tâm toàn lực vào dòng
Thiền cao thâm; Cái thực tại nhẹ nhàng thanh thản. Trong Hạnh Thiên
Trường hành cung, Trần Thánh Tông cảm thấy:
Kim niên du thắng tích niên du.
(Cuộc đi chơi năm nay hơn hẳn cuộc đi chơi năm ngoái).
Theo dự đoán, có thể Trần Thánh Tông làm bài thơ này khi đã là thái
thượng hoàng và sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba vào tháng 5 năm
Kỷ Sửu (1289). Có lẽ vì thế mà trong bài thơ này, ta đã gặp được niềm hứng
khởi của nhà vua trước thực tại thanh nhã, nhàn hạ. Cái hơn hẳn của năm nay
làm cho con người không cần phải nói gì. Cái im lặng mênh mông của cảnh
vật trùng khít với cái im lặng trong lòng người – Đó là giây phút trùng phùng
cảm động trong cái “vô ngôn” thâm trầm. Cứ thế, con người trải lòng đón
nhận thiên nhiên để cảm nhận, trải nghiệm phút giây bình yên quý báu. Ta chỉ
thấy phút giây này, phút giây đem đến niềm an lạc cho tâm hồn.
Cảm hứng của giây phút thực tại này còn chảy tràn đến thơ Trần Nhân
Tông – một ông vua yêu nước và anh hùng, một thi sĩ Thiền nổi tiếng với tư
tưởng “Cư trần lạc đạo” (Ở trong cõi trần vui với đạo).
Thời gian trong bài thơ Xuân hiểu dường như có lại dường như không.
Dường như không bởi vì con người hầu như không quan tâm đến sự chuyển
dịch của nó. Nhưng lại dường như có bởi một phút giây ngỡ ngàng trước
thiên nhiên giúp con người nhận ra một thời khắc tươi non, đầy sức sống nhất
trong năm. Mùa xuân về trong sự chuyển động rất đỗi bình yên và thân thiết,
đó là hình ảnh bay lượn của đôi bướm trắng:
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ qui.
Nhất song bạch hồ điệp,
Phách phách sấn hoa phi.
(Ngủ dậy mở cánh cửa sổ,
Không ngờ mùa xuân đã về.
Một đôi bướm trắng,
Phần phật cánh bay đến với hoa.)
Sự sinh động trong bức tranh còn bởi âm thanh phách phách của đôi
bướm trắng nữa. Chúng tìm đến với hoa trong trạng thái say mê rộn ràng. Chỉ
hình ảnh của sự hòa hợp ấy thôi đã đánh thức sự cảm nhận thời gian bằng mọi
giác quan của con người.
Nhân Tông luôn rất nhạy cảm với mùa xuân. Ông đón nhận nó trong
trạng thái đầy bất ngờ. Và phải chăng vì thế, cảm hứng về mùa xuân trong thơ
Nhân Tông thường rất tự nhiên và tròn đầy. Có khi thời gian cũng được
không gian hóa trong cảm nhận của tác giả:
Thế số nhất sách mạc,
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng xuân.
(Số đời hoàn toàn mù mịt,
Tình người đổi thay qua đôi mắt,
Khi cung ma bị quản chặt,
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân.)
Hoặc trong Đăng Bảo Đài sơn, dù Thời lai xuân vị thâm (Theo thời tiết
mùa xuân về chưa lâu) nhưng ấn tượng về bài thơ lại tập trung ở những câu
cuối, khi tâm đối diện với tâm để nhận ra giá trị của cuộc sống:
Bách niên tâm ngữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.
(Trăm năm lòng lại nhủ lòng.
Tựa lan can nâng ngang chiếc sáo ngọc,
Ánh trăng sáng chan hòa trước ngực.)
Trong suốt chiều dài của cuộc đời với dòng thời gian cuồn cuộn trôi,
không gian luôn chuyển mình theo quy luật sinh diệt, có lẽ không gì đáng quý
hơn ánh trăng đang hiện hữu trước mặt. Đó là cái có thực, cái gần gũi, nâng
đỡ tâm hồn con người. Ánh trăng là một hình tượng có tác dụng gợi ra không
gian vắng lặng, trong trẻo. Nhưng bản thân nó cũng là một hình tượng có tác
dụng gợi thời gian – thời gian về đêm – là lúc con người thường hay đối diện
với phần tâm tư yếu đuối thẳm sâu nhất của mình. Nhưng con người trong
Đăng Bảo Đài sơn không hề cô đơn, không hề yếm thế. Mãn nghĩa là tràn
đầy, là dư thừa. Trăng hiện lên thật nhiều, thật tràn trề. Con mắt yêu đời đã
làm cho ánh trăng ban đêm không có cái vẻ lạnh lẽo mà từ cái trong trẻo ấy,
rộn lên niềm vui và sự chan hòa giữa thiên nhiên và con người. Chỉ thế thôi,
chẳng trông mong vị lai, không hối tiếc quá khứ - con người nhà thơ lặng lẽ
nhưng nhiệt tình đón nhận sự sống và sống hết mình với giây phút thực tại
này.
Vẫn con người say đắm một cách bình ._.
Niên thiếu hà tằng lẽ sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
(Thời tuổi trẻ chưa từng hiểu rõ lẽ”sắc” với“không”,
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng theo trăm hoa.
Ngày nay đã khám phá ra bộ mặt của chúa xuân,
Ngồi trên nệm cỏ, giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng.)
(Xuân vãn)
Mặt khác, trong thơ Thiền, ta còn gặp thủ pháp đối lập khi tác giả đề
cập đến sự vận động của thời gian mang đến cho con người tuổi già:
Dạ sắc sơ phân hiểu,
Thần quang tiệm xuất không.
Ám thôi tân phát bạch,
Tiệm cải cựu nhan hồng.
(Sắc đêm mới vừa hửng sáng,
Ánh ban mai hiện dần trên bầu trời.
Ngầm giục mái tóc xanh điểm trắng,
Dần thay vẻ hồng của dung nhan xưa.)
(Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông)
Sắc đêm và ánh ban mai tái hiện sự đối lập trong thời gian ban ngày và
ban đêm tuần hoàn. Sự tuần hoàn ấy phủ bóng lên thân thể con người bằng
một sự đối lập khác, đó là mái tóc bạc thay mái tóc xanh, vẻ hồng trên khuôn
mặt ngày nào cũng đổi thay…
Ngoài ra, thơ Thiền còn dùng hình ảnh đối lập để thể hiện hai trạng thái
tồn tại trái ngược nhau của con người, đó là sống và chết. Chúng được Trần
Thánh Tông quan niệm:
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
(Sống như mặc áo,
Chết như trút bỏ quần ra.)
(Sinh tử)
Như vậy, thơ Thiền đã dùng thủ pháp đối lập để biểu thị sự thay đổi
trong nhận thức con người cũng như để thể hiện sự tương phản trong quan
niệm về thời gian vũ trụ và thời gian đời người, sự tương phản giữa sự sống
và cái chết… Các mạch thời gian hiện lên khá rõ nét qua những hình ảnh đối
lập ấy. Và trên hết là nó đã khắc họa được vẻ đẹp tâm hồn con người đời
Trần: biết nhìn vào các quãng đời của mình để tự vấn, để trăn trở; biết trân
trọng, say mê những thời khắc đời người tuy ngắn ngủi nhưng lại đầy ý nghĩa
khi trải nghiệm không ngừng chính cuộc sống phong phú của mình để đạt đến
cái tâm thanh thản, bình yên.
Trong thơ thế tục, cảm thức về thời gian đã có sự thay đổi. Do đó,
những hình ảnh đối lập về thời gian cũng có ý nghĩa khác với thơ Thiền. Nó
bắt đầu chứa đựng những trăn trở suy tư về thế sự, về cuộc đời với lẽ hưng
phế. Trong Ô Giang Hạng Vũ miếu, Phạm Sư Mạnh thể hiện niềm cảm khái
trước bước đi của thời gian minh chứng cho cái ngắn ngủi và vô nghĩa của đời
người, đó là sự đối lập nghiệt ngã và gay gắt khi con người còn sống và đã chết:
Kỷ đa cái thế bạt sơn lực,
Tận tại nhàn hoa dã thảo trung.
(Biết bao chí trùm đời sức nhổ núi,
Đều nằm trong đám hoa dại và cỏ đồng.)
Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng thể hiện niềm bâng khuâng của mình
trước bãi chiến trường xưa còn lưu biết bao dấu vết mà con người thì mất hút
trong bóng thời gian:
Thiên hoang địa lão cổ chiến trường,
Thiên tải anh hùng kim dĩ hỷ.
(Chiến trường xưa trong cảnh trời đất hoang vu,
Anh hùng ngàn xưa nay còn đâu.)
(Đăng Hoàng Lâu tẩu bút thị Bắc sứ thị giảng Dư Gia Tân)
Sự đối lập giữa xưa và nay trong cảnh chiến trường hoang vu hẳn đã
khiến cho Phạm Sư Mạnh, một người từng hăng hái xông pha chiến trường
không khỏi ngậm ngùi, nhận ra quy luật thời gian thật nghiệt ngã. Những con
người đã để lại trên chiến trường, trong cuộc đời biết bao dấu ấn của tráng chí
anh hùng, rốt cuộc rồi cũng bị trôi vào sự quên lãng của người đời.
Đối với Nguyễn Trung Ngạn, thời gian cũng là một yếu tố chứa đầy sự
nghiệt ngã đối với đời người khi mà:
Hào kiệt tiêu ma oán vị hưu.
(Hào kiệt đã tiêu ma nhưng nỗi oán hận vẫn chưa tan.)
(Ung Châu)
Sự đối lập ở đây là sự tương phản giữa thân thế con người và nỗi oán
hận về chiến tranh đã gây cảnh chết chóc tang thương. Thân thế đã tan vào hư
không nhưng nỗi oán hận thì không tan. Cuộc đời vẫn nhắc tới nó với sự trách
móc. Nhấn mạnh đến điều này, phải chăng, Nguyễn Trung Ngạn muốn hướng
con người đến một lối sống nhàn tâm, nhàn thân hơn là phải bằng mọi giá có
được trong tay công danh phú quý?
Với Nguyễn Ức, sự đối lập trong không gian, thời gian xưa và nay
khiến thơ ông chìm trong cảm xúc bùi ngùi xót xa với nỗi niềm hoài cổ:
Hệ lãm giang đình mịch thắng du,
Tiền triều hành điện dĩ hoang khưu.
(Buộc thuyền cạnh đình ven sông tìm chơi thắng cảnh,
Hành cung triều trước đã thành gò hoang.)
(Bạc chu ứng Phong Đình ngẫu đề)
Cái gò hoang ở thì hiện tại là một minh chứng cho sự tàn phá mãnh liệt
của thời gian. Nó đã san bằng mọi thứ, kể cả những dấu tích huy hoàng trong
quá khứ. Là người đang chứng kiến sự suy vi của một triều đại huy hoàng như
triều Trần, Nguyễn Ức làm sao tránh khỏi bùi ngùi, không chỉ về chuyện của
triều đại trước, mà còn là ở ngay chính triều đại mình đang sống. Có lúc,
Nguyễn Ức nhận thấy sự đối lập, phân thân ngay trong chính con người của
mình ở mỗi thời kỳ của cuộc đời:
Hòa nguyệt dị sinh kim tịch mộng,
Điểm song do đới cựu niên sầu.
(Hòa với trăng dễ sinh ra giấc mộng đêm nay,
Điểm bên song, còn mang nỗi buồn nhớ năm xưa.)
(Lạc mai – Nguyễn Ức)
Con người hôm nay nhớ về con người năm xưa, nhìn lại thấy có vẻ xa
xăm. Thế nhưng, nỗi buồn là sợi dây liên kết giữa hai con người. Nó làm câu
thơ oằn nặng nỗi xót xa cho những giấc mơ chưa thành hiện thực. Nhà thơ đã
ngoái nhìn lại cả cuộc đời để nhận ra thời gian mang đi tuổi trẻ nhưng thời
gian lại không xóa hết được nỗi buồn. Năm xưa hay đêm nay đều khiến con
người không thanh thản với những băn khoăn trước cuộc đời và thế sự.
Tuy vậy, trong dòng chảy u buồn của thơ ca thời vãn Trần, thảng hoặc
vẫn bắt gặp đâu đó những niềm vui nho nhỏ. Niềm vui đến trong chốc lát chứ
không lâu dài thường tại như trong thơ Thiền. Để có được niềm vui ấy, con
người phải góp nhặt, phải nâng niu bởi dường như đó là điều hết sức hiếm hoi
trong cả cuộc đời:
Bách niên phù thế nhân giai mộng,
Bán nhật thâu nhàn ngã diệc tiên.
(Cuộc phù thế trăm năm, người người đều như mộng,
Trộm cái nhàn nửa ngày, ta cũng là tiên.)
(Du Côn Sơn- Nguyễn Phi Khanh)
Câu thơ cho thấy con người của thời vãn Trần đã nhìn thời gian bằng
một con mắt lãnh đạm, mặc kệ thời gian trôi, mặc kệ tháng ngày qua đi. Niềm
vui sống trở nên nhỏ bé so với cuộc phù thế trăm năm. Tuy thế, dường như
thơ ca thời kỳ này vẫn không nguôi cảm giác nuối tiếc vì chí làm trai chưa
thỏa, vì lòng chưa thanh thản giấc mơ được báo đáp và cống hiến cho đại
nghiệp của dân tộc. Thế nên, Đặng Dung trong Cảm hoài mới viết:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch.
(Nợ nước chưa trả mà đầu đã sớm bạc.)
Đầu bạc là dấu hiệu của tuổi già. Con người ở đây băn khoăn giữa khả
năng và nghĩa vụ. Chúng cũng là sự đối lập gay gắt giữa thời gian đời người
và quỹ thời gian để thực hiện lý tưởng. Nhìn xuyên suốt cả quá trình phát
triển của thơ ca thời vãn Trần, có thể thấy thấy sự bất đắc chí chủ yếu vì con
người cảm thấy không còn đủ thời gian và sức lực để thực hiện lí tưởng và
nghĩa vụ. Thế nên, dù là những vần thơ được viết lên khi tự hào về chiến công
hay day dứt ưu tư về thời cuộc thì nhìn chung thơ đời Trần vẫn luôn là tiếng
nói của một thời kì hào hùng đặc biệt trong lịch sử dân tộc.
Thủ pháp đối lập đã có mặt cả trong thơ Thiền lẫn thơ thế tục để cảm
thức về thời gian của mỗi một nhà thơ được hiện lên một cách rõ nét và sâu
sắc. Nó góp phần xác lập một hệ thống các hình ảnh, các khái niệm đối lập,
tương phản để chúng soi chiếu cho nhau, giúp người đọc nhìn thấy rõ hơn
những biểu hiện của tư tưởng, tâm hồn và tính cách con người đời Trần.
4.4. Dùng thủ pháp so sánh, ẩn dụ
Khi thể hiện cảm thức về thời gian, thơ đời Trần luôn cố gắng tìm
những cách thức diễn đạt sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Bên cạnh việc sử
dụng các hình ảnh giàu sắc thái biểu cảm, các điển tích, điển cố và thủ pháp
đối lập, các tác giả còn thường xuyên sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ
nhằm thể hiện quan niệm và thái độ của mình về thời gian.
Các hình ảnh so sánh ẩn dụ xuất hiện khá nhiều trong những vần thơ
thể hiện cảm thức về thời gian. Chúng tôi tiến hành khảo sát bằng một bảng
hệ thống như sau, trước hết là ở thơ Thiền:
Tác giả Câu thơ, bài thơ
Biện
pháp
nghệ
thuật
Hình ảnh Ý nghĩa
Trần
Nhân
Tông
Nhất thiên như thủy,
nguyệt như trú.
(Nhị nguyệt thập nhất
nhật dạ)
So
sánh
- trời trong như
nước
- trăng sáng
như ban ngày
Trần
Thái
Tông
Thân như băng kiến
hiệu,
Mệnh tự chúc đương
phong.
(Sơ nhật vô thường kệ)
So
sánh
- thân như
băng gặp nắng
- mệnh như
ngọn đuốc
trước gió
Đời người
ngắn ngủi,
Quang âm như tiễn hựu
như thoa
(Giang hồ tự thích)
So
sánh
Thời gian như
tên, như thoi
Tam sinh thúc hốt chân
phong chúc,
(Đốn tỉnh) So
sánh
đời người như
ngọn đuốc
trước gió
Y cẩu phù vân biến thái
đa
(Thế thái hư huyễn)
So
sánh
cuộc đời như
mây nổi
Đốt đốt phù vân hề phú
quý,
Hu hu quá khích hề niên
quang.
(Phóng cuồng ngâm)
So
sánh
- giàu sang như
mây nổi
- thời gian như
bóng ngựa qua
kẽ vách
Công danh phú quý
đẳng phù vân,
Thân thế quang âm,
nhược phi tiễn.
(Phàm thánh bất dị )
So
sánh
- công danh,
giàu sang như
mây nổi
- thân thế và
tháng năm như
mũi tên bay
Tuệ
Trung
Quang âm lưu thủy,
Phú quí phù vân.
(Trữ từ tự cảnh văn)
So
sánh
- ngày tháng
như nước trôi
- giàu sang như
mây nổi
hữu hạn, kiếp
người mong
manh, công
danh phú quý
phù du, thời
gian cuộc đời
trôi đi hối hả,
không ngừng
trong dòng
chảy vô tận,
vĩnh hằng của
thời gian vũ
trụ.
Bách tuế quang âm
nhiễn chỉ trung.
(Quá Vạn Kiếp)
So
sánh
bóng quang âm
như nháy mắt
Huyền
Quang
Phú quý phù vân trì vị
đáo,
Quang âm lưu thủy cấp
tương thôi.
(Tặng sĩ đồ tử đệ)
So
sánh
- giàu sang như
mây nổi
- thời gian như
nước chảy
Đến thơ thế tục, khi thể hiện quan niệm về thời gian, các tác giả cũng
sử dụng biện pháp so sánh và ẩn dụ với những hình ảnh rất quen thuộc:
Tác giả Câu thơ, bài thơ
Biện
pháp
nghệ
thuật
Hình ảnh Ý nghĩa
Trần
Nhân
Tông
Sơn hà thiên cổ điện kim
âu.
(Tức sự)
So
sánh
núi sông vững
như âu đồng
Khẳng định
nền thái bình
vững chắc,
trường tồn
Trần
Quang
Triều
Tự tòng trích lạc hạ
nhân gian,
Lục thập dư niên nhất
thuấn khan.
(Lâm chung thị ý)
So
sánh
Sáu mươi năm
như một cái
nháy mắt.
Biểu thị sự
ngắn ngủi
nhanh chóng
của kiếp
người
Như vậy, cả trong thơ Thiền và thơ thế tục, thơ đời Trần có một mảng
lớn dùng các hình ảnh so sánh và ẩn dụ, chủ yếu là so sánh để thể hiện sự
ngắn ngủi của cuộc đời. Hình ảnh so sánh thường gặp nhất là năm tháng như
mũi tên, bóng quang âm như nháy mắt, công danh, giàu sang như mây nổi,
đời người như ngọn đuốc trước gió… Biện pháp so sánh được lặp lại rất nhiều
lần như vậy đã mang đến cho người đọc một ấn tượng sâu sắc về cảm thức
thời gian đời người của thơ đời Trần. Họ luôn nhìn thấy tính chất ngắn ngủi
hư vô của kiếp người và cái phù phiếm của công danh phu quý. Điếu đáng
quý ở đây là nhận thức điều đó họ lại càng thêm yêu giây phút thực tại đáng
sống, đặc biệt là trong thơ Thiền. Thơ thế tục thời vãn Trần tuy không có
được cái âm hưởng yêu đời như thế nhưng nó cũng chứng minh một phương
diện cao quý trong nhân cách con người trí thức đời Trần: khi cảm thấy không
thể cứu vãn được tình thế nữa, họ chấp nhận sống một cuộc đời thanh bạch
chốn làng quê như Chu An, Trần Nguyên Đán… Tuy vậy, trong sâu thẳm tâm
hồn của họ vẫn là một tấm lòng đau đáu tình đời, không nguôi day dứt, trăn
trở về thời cuộc. Không thể hoàn toàn quay lưng với thế sự nên họ vẫn nhìn
thời gian và cuộc đời bằng một con mắt chứa đầy nỗi tiếc nuối và cô đơn.
Mặt khác, chính những hình ảnh so sánh và ẩn dụ đã giúp cho thơ
Thiền đời Trần không đơn thuần chỉ là thơ để truyền bá giáo lý nhà Phật mà
trở thành thơ ca thực sự với yếu tố trữ tình mềm mại, với những hình ảnh có
sức gợi sâu sắc về nhân sinh. Tuy những hình ảnh này vẫn mang tính lặp lại vì
nó thuộc tư duy nghệ thuật trung đại với tính quy phạm chặt chẽ, với tinh thần
sùng cổ nhưng ở mỗi một tác giả, ta vẫn gặp được những nét riêng biệt. Điều
đó đã góp phần tạo nên sắc thái độc đáo cho thơ ca đời Trần trong quá trình
phát triển của thơ ca dân tộc.
KẾT LUẬN
Sau khi tiến hành khảo sát toàn bộ những bài thơ, câu thơ đời Trần có
biểu hiện hoặc gián tiếp, hoặc trực tiếp yếu tố thời gian, chúng tôi có thể rút ra
một số kết luận:
1. Thời đại nhà Trần là một thời đại đặc biệt. Dấu ấn của thời đại ấy
được thể hiện qua các sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và trong đời sống
tinh thần phong phú của mỗi cá nhân. Nó lưu lại dấu vết khá sâu sắc trong quá
trình vận động của lịch sử dân tộc, đồng thời được phản ánh khá rõ nét qua
văn học, trong đó có thơ ca.
2. Cảm thức về thời gian là một yếu tố thường trực trong thơ ca trung đại
nói chung, thơ đời Trần nói riêng. Các nhà thơ, dù ít dù nhiều đều thể hiện
quan niệm và cảm xúc của mình trước thời gian. Và vì thế, có thể xem thời
gian là một đại lượng để đo đếm cảm xúc, suy nghĩ của các tác giả đời Trần.
Cảm thức về thời gian có sự khác biệt khá rõ nét trong các loại hình thơ ca và
trong mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định. Vì thế, thơ đời Trần vốn thuộc thơ
ca trung đại với yếu tố quy phạm chặt chẽ vẫn để lại những dấu ấn khá riêng
biệt, độc đáo. Dấu ấn về thời gian trong mỗi loại hình thơ ca hay trong mỗi
giai đoạn đều bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử quy định theo nó những đặc
điểm tư tưởng, quan niệm, tâm lý… khác nhau. Điều đó giải thích vì sao con
người cảm thấy hào hứng, bình thản, hốt hoảng hay chán nản trước sự vận
động của thời gian. Vấn đề này đã được chúng tôi phân tích, lý giải trong
phần nội dung của luận văn. Nó cũng góp phần lí giải cho sự lựa chọn của
mỗi cá nhân trong triều đại ấy, cắt nghĩa tại sao một ông vua lại đang đêm
trốn lên chùa, coi ngai vàng như chiếc giày rách…; tại sao con người ý thức
rất rõ sự ngắn ngủi của thời gian đời người mà không lo sợ, bất an… Từ đó
góp phần soi sáng những nhân cách lớn lao của con người thời đại nhà Trần.
3. Thời gian trong thơ Thiền tuy được biểu hiện dưới hai bình diện đối
lập nhau: thời gian đời người ngắn ngủi và thời gian vũ trụ vô tận nhưng nét
nổi bật đáng trân trọng nhất của thơ Thiền chính là ở chỗ nó đã thúc đẩy lòng
ham sống một cách mạnh mẽ. Thơ Thiền dạy con người biết trân trọng mỗi
giây phút trôi qua trong cuộc đời, biết yêu tha thiết khoảnh khắc riêng tư thú
vị, biết trải lòng với thiên nhiên, con người… Và vì vậy, thơ Thiền đã thoát
khỏi chức năng tôn giáo để trở thành thơ của cuộc đời rộn ràng hương sắc.
4. Thời gian trong thơ thế tục đời Trần, dưới ảnh hưởng của mỗi giai
đoạn lịch sử, cũng mang nhiều sắc thái khác nhau. Có dòng thời gian say mê,
hào hứng trong mỗi chiến công của cha ông, có dòng thời gian chất chứa đầy
lo âu, suy nghĩ và dằn vặt. Cho dù được biểu hiện dưới khía cạnh nào, thời
gian trong thơ thế tục cũng góp phần khắc họa chân dung những con người
tràn đầy tinh thần trách nhiệm đối với cuộc đời. Vì thế mà niềm vui hay nỗi
buồn trong thơ cũng trở thành chứng nhân cho lòng yêu nước thương dân
nồng nàn của con người đời Trần.
5. Cảm thức thời gian trong thơ đời Trần được thể hiện thông qua một số
thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu như sử dụng hình ảnh giàu sắc thái biểu cảm,
dùng các điển tích, điển cố, các hình ảnh so sánh, ẩn dụ, đối lập… Chúng góp
phần thể hiện các phương diện phong phú của thời gian, đồng thời cho thấy
sự phát triển của thơ ca đời Trần.
6. Cách cảm nhận và thể hiện thời gian trong thơ đời Trần tuy không
thống nhất, có lúc là những vần thơ về thời gian đầy tin tưởng, tự hào, sảng
khoái, có lúc chứa đầy niềm an lạc tự tại, và cũng có lúc là dòng thời gian trôi
đi chậm chạp trĩu nặng ưu tư muộn phiền… nhưng nhìn chung, chúng luôn có
một ý nghĩa nhân sinh tích cực bởi đây là thơ ca của một thời đại phục hưng
dân tộc mạnh mẽ với những con người đã khẳng định lý tưởng cống hiến
không mệt mỏi. Vì vậy, khi đọc những vần thơ viết về thời gian đời Trần, thế
hệ đi sau cảm thấy tự hào sâu sắc về những thời khắc quan trọng trong lịch sử
dân tộc đã đóng những dấu ấn tỏa sáng mãi trong thơ, đồng thời một cảm giác
bình an thanh thản trong tâm hồn, không còn lo sợ trước nhịp thời gian trôi
với tuổi già, bệnh tật và cái chết. Bên cạnh đó là niềm cảm thông sâu sắc cho
thân thế những con người sinh ra không gặp thời, phải dấn thân để trải
nghiệm những mất mát và đau thương. Và đó chính là ý nghĩa nhân văn sâu
sắc mà thơ ca đời Trần đã để lại cho hôm nay, sau bao nhiêu biến đổi của
cuộc đời và thăng trầm của lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristote (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa, HN.
2. Lại Nguyên Ân, (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG HN.
3. Minh Chi (1991), “Góp phần tổng kết Phật giáo đời Trần”, Tạp chí Văn
học, số 4, 1992.
4. Minh Chi (1992), “Con người Tuệ Trung thượng sĩ”, Thiền học đời Trần,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
5. Minh Chi (1992), “Bàn về cảnh giới giác ngộ của Trần Thái Tông”, Thiền
học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
6. Minh Chi (1992), “Vua Trần Nhân Tông và phái Trúc Lâm Yên Tử”,
Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
7. Minh Chi (1992), “Bàn về sắc thái đặc biệt Thiền học Trần Thái Tông và
Phật giáo đời Trần”, Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học
Việt Nam.
8. Minh Chi (1992), “Phật giáo đời Trần (Hay là nguyên nhân sâu xa của
cuộc chiến thắng đối với quân Nguyên Mông)”, Thiền học đời Trần,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
9. Minh Chi (1992), “Thơ Huyền Quang”, Thiền học đời Trần, Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam.
10. Nguyễn Huệ Chi (1977), “Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ
Thiền Lý Trần”, Tạp chí Văn học, số 4, 1977.
11. Nguyễn Huệ Chi (1992), “Con đường giao tiếp văn học cổ - trung đại Việt
Nam nhìn trong mối quan hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 1, 1992.
12. Nguyễn Huệ Chi (1998), “Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm và hiện tượng
hội nhập văn hoá thời Lý - Trần”, Tạp chí Văn học, số 8, 1998.
13. Nguyễn Huệ Chi (2000), “Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ”,
Tạp chí văn học, số 11, 2000.
14. Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh (2008), “Trần Nhân Tông và tầm
vóc của một thời đại”, Báo Tuổi Trẻ, Chủ nhật, 30/11/2008.
15. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ
nhìn từ góc độ lí thuyết”, Tạp chí Văn học, số 3, 1999.
16. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt
Nam trung cận đại”, Tạp chí Văn học, số 5, 1999.
17. Nguyễn Đình Chú (2008), “Phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam”, Tạp chí
Văn học, số 7, 2008.
18. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, lí luận và ứng dụng,
Nxb GD.
19. Trương Đăng Dung, (2004), Tác phẩm văn học như là một quá trình, Nxb
KHXH, HN.
20. Nguyễn Thế Đăng (1992), “Ý nghĩa tích cực của đời sống trong cái nhìn
của các Thiền sư đời Trần”, Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam.
21. Nguyễn Đăng Điệp (tuyển chọn) (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, Tập 2,
Nxb GD.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb VH HN.
23. Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học – Vấn
đề và suy nghĩ, Nxb GD.
24. Đặng Thị Hảo (2000), “Điển tích trong thơ tình cổ trung đại Việt Nam”,
Tạp chí Văn học, số 7, 2000.
25. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn.
26. Lại Văn Hùng (1992), “Trên đường nhận diện gương mặt tư tưởng Hương
Hải Thiền sư”, Tạp chí Văn học, số 4, 1992.
27. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trần Thái Tông, nhà thơ sám hối”, Trên
hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
28. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trần Tung và những khúc ca phóng cuồng”,
Trên hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
29. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trần Nhân Tông giữa cảnh đời hư thực”,
Trên hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
30. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Huyền Quang và niềm xao động trước cuộc
đời”, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
31. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Thơ Thiền và việc lĩnh hội thơ Thiền đời
Lý”, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
32. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Dương Không Lộ, thiền sư - thi sĩ”, Trên
hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
33. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Về diễn tiến của thơ trữ tình đời Trần”, Trên
hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
34. Nguyễn Phạm Hùng (2001), “Trương Hán Siêu và tư tưởng nghệ thuật
thời Lý - Trần”, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb QG HN.
35. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ cuối thế kỉ X –XX, Nxb
ĐHQG HN.
36. Trần Hoàng Hùng (2005), Con người trong thơ Thiền Lý - Trần dưới góc
nhìn thi pháp học hiện đại, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐHSP TP HCM.
37. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu
thế kỉ XVIII), Nxb GD, HN.
38. Đặng Thanh Lê (1992), “Nghiên cứu văn học cổ - trung đại Việt Nam
trong mối quan hệ khu vực”, Tạp chí Văn học, số 1, 1992.
39. Ngô Văn Lệ (1992), “Thử tìm hiểu nguyên nhân phát triển đạo Phật đời
Trần”, Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
40. Đoàn Ánh Loan (2000), “Ảnh hưởng của quan niệm thẩm mĩ Phương
Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí Văn học, số 3, 2000.
41. Nguyễn Công Lý (2003), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần, Diện mạo và
đặc điểm, Nxb Đại học quốc gia TP HCM.
42. Nguyễn Tuấn Khanh (1999), “Cấu trúc nghệ thuật thơ Haikư”, Tạp chí
Văn học, số 10, 1999.
43. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) (2000), Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến
1858, Nxb GD.
44. Trần Lê Sáng (1981), Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An, Nxb HN.
45. Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, Nxb GD.
46. Lê Văn Siêu (2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn học, TP HCM.
47. Trần Xuân Sinh (2006) ( Biên soạn), Thuyết Trần – Sử nhà Trần, Nxb Hải
Phòng.
48. Nguyễn Hữu Sơn (1998), “Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật của
Thiền uyển tập anh”, Tạp chí Văn học, số 4, 1998.
49. Nguyễn Hữu Sơn (2000), “Về cảm quan Phật giáo trong thơ văn Nguyễn
Trãi”, Tạp chí Văn học, số 6, 2000.
50. Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Cội rễ văn hoá của nền văn học thời Lý -
Trần”, Văn học trung đại Việt Nam, Quan niệm con người và tiến
trình phát triển, Nxb KHXH.
51. Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Vịnh Vân Yên tự phú - Nẻo về thiên nhiên
Phật và “Cõi vô tâm”, Văn học trung đại Việt Nam, Quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb KHXH.
52. Nguyễn Hữu Sơn (2005), “Chu Văn An - con người cương trực”, Văn học
trung đại Việt Nam, Quan niệm con người và tiến trình phát triển,
Nxb KHXH.
53. Thích Phước Sơn (1992), “Trần Thái Tông, đời đạo lưỡng toàn”, Thiền
học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
54. Thích Phước Sơn (1992), “Tam tổ Huyền Quang”, Thiền học đời Trần,
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
55. Thích Phước Sơn (1992), “Nguyên nhân nào làm cho các triều vua đầu
đời Trần hưng thịnh?”, Thiền học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học
Việt Nam.
56. Thích Phước Sơn (1992), “Đặc trưng Phật giáo giai đoạn đầu Trần”, Thiền
học đời Trần, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
57. Thích Phước Sơn (1992), “Nhìn khái quát Phật giáo đời Trần”, Tạp chí
Văn học, số 4, 1992.
58. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb QGHN.
59. Bùi Duy Tân (1992), “Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc
và văn học Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận – cách tân – sáng tạo”,
Tạp chí Văn học, số 1, 1992.
60. Bùi Duy Tân (2004), Hợp tuyển Văn học trung đại Việt Nam ( Thế kỉ X -
XIX), tập 1, Nxb GD.
61. Hà Văn Tấn (1992), “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật giáo
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 4, 1992.
62. Văn Tâm (1999), “Thiền học trong hai vở kịch của Đoàn Phú Tứ”, Tạp
chí Văn học, số 10, 1999.
63. Trần Thị Băng Thanh (1992), “Thử phân định hai mạch cảm hứng trong
dòng văn học Việt Nam mang đậm dấu ấn Phật giáo thời trung đại”,
Tạp chí Văn học, số 4, 1992.
64. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Trương Hán Siêu và những lời thơ hoài
niệm cố hương”, Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
65. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Trần Nhân Tông, thơ và cuộc đời”, Những
nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
66. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Hào khí Đông A trong thơ sứ trình đời
Trần”, Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
67. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Ức Trai thi tập và thơ chữ Hán đời Trần”,
Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
68. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Một vài tìm tòi bước đầu về văn bản Thơ
văn Lý - Trần”, Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
69. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Đặng Dung và tình cảm bi tráng qua bài
thơ Cảm hoài”, Những nghĩ suy từ văn học trung đại, Nxb KHXH.
70. Trần Thị Băng Thanh (1999), “Huyền Quang và những trang đời nhiều
huyền thoại, những vần thơ nhiều hàm nghĩa”, Những nghĩ suy từ văn
học trung đại, Nxb KHXH.
71. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt nam dưới góc nhìn văn
hoá, Nxb GD.
72. Nguyễn Khắc Thuần (1998), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb
GD, TP HCM.
73. Thiều Chửu (1999), Hán - Việt từ điển, Nxb TP HCM.
74. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thiền học Trần Thái Tông, Nhà tu thư và sưu
khảo viện ĐH Vạn Hạnh.
75. Thích Minh Tuệ (1992), “Chất Thiền nơi Tuệ Trung thượng sĩ”, Thiền
học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
76. Thích Minh Tuệ (1992), “Thiền sư Huyền Quang, một nhà thơ lớn”, Thiền
học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
77. Thích Thanh Từ (1992), “Thiền Trúc Lâm qua văn thơ Hán”, Thiền học
đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
78. Thích Thanh Từ (1992), “Tuệ Trung thượng sĩ”, Thiền học đời Trần, Viện
nghiên cứu Phật học Việt Nam.
79. Thích Thanh Từ (1992), “Tinh thần siêu phóng của Tuệ Trung thượng sĩ”,
Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
80. Thích Thanh Từ (1992), “Những nghi vấn về thiền sư Huyền Quang”,
Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
81. Thích Thanh Từ (1992), “Nhận xét những ưu khuyết của Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử”, Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học
Việt Nam.
82. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb trẻ.
83. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thiền học Trần Thái Tông, Nhà tu thư và sưu
khảo viện ĐH Vạn Hạnh.
84. Đoàn Thị Thu Vân (1992), “Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lý –
Trần”, Tạp chí Văn học, số 2, 1992.
85. Đoàn Thị Thu Vân (1998), Thơ Thiền Lý - Trần, Tập 1, Nxb VN
TP HCM.
86. Đoàn Thị Thu Vân (2000), “Côn Sơn ca – Khúc ca hài hòa giữa minh triết
và nhân ái”, Tạp chí Văn học, số 10, 2000.
87. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Thơ Thiền Việt Nam thời Lý-Trần, khảo sát từ
góc độ nghệ thuật, Bài giảng cao học, trường ĐHSP TP HCM.
88. Tầm Vu (1999), “Tìm hiểu các đặc điểm của tư tưởng phật giáo Việt nam
trong thời đại Lý - Trần qua các tác phẩm văn học”, Tuyển tập 40
năm tạp chí văn học 1960-1999, Tập 2, Nxb TP HCM.
89. Viện văn học (1988), Thơ văn Lý Trần, Tập II, Quyển thượng, Nxb
KHXH, HN.
90. Viện văn học (1988), Thơ văn Lý Trần, Tập III, Nxb KHXH, HN.
91. Lê Trí Viễn (Chủ biên) (1997), Văn học trung đại Việt Nam, Trường
ĐHSP. TP HCM.
92. Lê Trí Viễn (1998), Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam,
Nxb GD.
93. Lê Trí Viễn (200), “Từ Trần Nhân Tông đến Bác Hồ”, Tạp chí Văn học,
số 10, 2000.
94. Lê Trí Viễn (200), Một đời dạy văn viết văn toàn tập, Tập 4, Nxb GD.
95. Trần Thị Hồng Y (2003), Tìm hiểu thơ các vua thời thịnh Trần (Từ Trần
Thái Tông đến Trần Minh Tông), Luận văn thạc sĩ, trường ĐHSP TP
HCM.
96. Lê Thu Yến (Chủ biên), (2003), Văn học Việt Nam, Văn học trung đại,
những công trình nghiên cứu, Nxb GD, TP HCM.
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: THỜI ÐẠI VÀ CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ
CA TRUNG ÐẠI VIỆT NAM
1.1. Thời đại của hào khí Đông A – một mốc son trong lịch sử dân tộc..... 12
1.2. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại ............................................ 14
1.2.1. Khái niệm cảm thức thời gian ........................................................ 14
1.2.2. Cảm thức thời gian trong thơ ca trung đại Việt Nam..................... 17
Chương 2: CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ THIỀN ÐỜI TRẦN
2.1. Vị trí của thơ Thiền trong văn học đời Trần......................................... 20
2.2. Thời gian thực tại đắm say của giây phút đạt đạo – sự vĩnh hằng
hóa khoảnh khắc ................................................................................... 21
2.3. Thời gian ngắn ngủi của kiếp người và thời gian vĩnh hằng của vũ
trụ tuần hoàn.......................................................................................... 49
Chương 3: CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ THẾ TỤC ÐỜI TRẦN
3.1. Thời gian bất tử trong cảm hứng về lịch sử chống ngoại xâm oai
hùng....................................................................................................... 64
3.2. Thời gian suy tư, hoài niệm mang tính chất triết lí về cuộc đời và
thế sự ..................................................................................................... 71
3.3. Thời gian lãnh đạm, tàn phai trong cảm xúc đau buồn về thời cuộc.... 95
Chương 4: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THỜI GIAN TRONG THƠ
ÐỜI TRẦN
4.1. Dùng hình ảnh giàu sắc thái biểu cảm .................................................. 108
4.2. Dùng điển tích, điển cố ......................................................................... 114
4.3. Dùng thủ pháp đối lập........................................................................... 118
4.4. Dùng thủ pháp ẩn dụ, so sánh ............................................................... 127
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 131
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 134
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7569.pdf