Lời nói đầu
Ngày nay xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang gia tăng mạnh mẽ. Trong đó toàn cầu hoá là hình thành một thị trường thế giới thống nhất, một hệ thống tài chính tín dụng toàn cầu, là vịêc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế …Khu vực hoá kinh tế thì diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như : Khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, đảm bả
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1708 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các nội dung chủ yếu của AFTA và lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o lợi ích chung và riêng cho từng nước, đặc biệt để đảm bảo cho sự phát triển phù hợp với xu thế thời đại, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do AFTA ra đời đánh dấu một bước ngoặt cho sự phát triển của khu vực Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng.
ASEAN ra đời đã có nhiều chương trình, hoạt động đem lại lợi ích chung cho khu vực và lợi ích riêng của mỗi nước thuộc khu vực ,trong đó đáng lưu ý nhất là tuyên bố thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và chương trình ưu đãi thế quan có hiệu lực chung (CEFT) làm cơ chế chính thực hiện AFTA. Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu môn học kinh tế quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài môn học của mình là: “Các nội dung chủ yếu của AFTA và lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam .”
Kết cấu của đề án môn học được chia làm ba phần:
I.Nội dung chủ yếu của khuvực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
II.Lịch trình cắt giảm thế quan của Việt Nam.
III.Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia AFTA/CEPT
Đây là những bước tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn về môn học em không tránh khỏi nhiều những sai sót và gặp nhiều khó khăn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo.
Nội dung chủ yếu của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Năm 1991, xét thấy những hạn chế trong vấn đề giao lưu buôn bán hàng hoá và trao đổi thương mại giữa các quốc gia trong khu vực, Thủ Tướng Thái Lan đưa ra sáng kiến thành lập khu vực mậu dịch tự do của các nước Đông Nam á gọi tắt là AFTA. Sau đó hội nghị bộ trưởng kinh tế lần thứ 23 10/1991 đã nhất trí thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN và Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV tại Singapore đã phê chuẩn quyết định thành lập AFTA với ba mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, tự do hoá thương mại thúc đẩy buôn bán giữa các quốc gia thành viên. Thứ hai, thúc đẩy khả năng thu hút đầu tư vốn nước ngoài vào khu vực cũng như hợp tác đầu tư nội bộ ASEAN. Thứ ba, xây dựng một ASEAN cường thịnh trở thành một khu vực sản xuất cạnh tranh, hướng sự hoạt động ra thị trường thế giới. Khu vực AFTA hình thành dựa trên một số nội dung cơ bản sau:
- Chương trình ưu đãi thế quan có hiệu lực chung CEPT
- Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên.
- Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá.
- Xoá bỏ những quy định hạn chế đối với hoạt động thương mại.
- Tăng cường hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô.
Để xây dựng AFTA thành công các nước đã ký kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT là nội dung đồng thời là công cụ quan trọng nhất nhằm biến ASEAN thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện thành công mục tiêu AFTA. Nội dung của Hiệp định CEPT bao gồm 10 điều và được cụ thể hoá như sau:
Điều 1: Các định nghĩa
“CEPT” có nghĩa là ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung và là mức thúê có hiệu lực, được thoả thuận ưu đãi cho ASEAN, được áp dụng cho các loại hàng hoá có xuất xứ từ các Quốc gia thành viên ASEAN và được xác định để đưa vào chương trình CEPT theo các điều 2(a) và 3.
“Hàng rào phi thuế quan” có nghĩa là các biện pháp không phải thuế quan, trên thực tế cấm hoặc hạn chế việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu các sản phẩm giữa các quốc gia thành viên.
“Hạn chế số lượng” có nghĩa là các cấm đoán hoặc hạn chế thương mại với các Quốc gia thành viên khác, dù là bằng hạn ngạch, giấy phép hoặc các biện pháp có bản chất tương tự, kể cả các biện pháp và các yêu cầu hành chính thương mại.
“Hạn chế ngoại tệ” có nghĩa là các biện pháp được các Quốc gia thành viên sử dụng dưới hình thức hạn chế hoặc các thủ tục hành chính khác về ngoại tệ tạo ra hạn chế cho thương mại.
“PAT” có nghĩa là thoả thuận về ưu đãi thương mại ASEAN được quy định trong Hiệp định về thoả thuận ưu đãi thương mại ASEAN, ký tại Manila 24/2/1977 và trong Nghị định thư về tăng cường mở rộng ưu đãi thuế quan theo thoả thuận về ưu đãi thương mại ASEAN(PAT) ký tại Manila 15/12/1987.
Danh mục loại trừ có nghĩa là danh mục liệt kê các sản phẩm được loại ra khỏi diện áp dụng ưu đãi thuế quan trong chương trình CEPT.
“Sản phẩm nông nghiệp” có nghĩa là:
Nguyên liệu nông nghiệp thô các sản phẩm chưa chế biến được kê trong các chương 1 đến chương 24 của hệ thống cân đối (HS) va các nguyên liệu nông nghiệp thô, các sản phẩm chưa chế biến tương tự được nêu lên trong các đề mục của hệ thống cân đối, và
Các sản phẩm đã qua sơ chế nhưng hình thức không thay đổi nhiều so với sản phẩm gốc.
Điều 2: Các điều khoản chung
Tất cả các quốc gia thành viên sẽ tham gia chương trình CEPT
Việc xác định sản phẩm để đưa vào chương trình CEPT sẽ dựa trên cơ sở các lĩnh vực, tức là theo mã 6 chữ số của HS.
Cho phép loại trừ không đưa vào áp dụng một số sản phẩm cụ thể theo mã 8/9 chữ số của HS đối với những Quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng để đưa các sản phẩm đó vào chương trình CEPT, Căn cứ vào điều 1(3)của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN, đối với các sản phẩm cụ thể “ nhạy cảm” đối với một Quốc gia thành viên, Quốc gia đó được phép loại trừ sản phẩm này ra khỏi chương trình CEPT, nhưng phải từ bỏ các ưu đãi đối với sản phẩm đó mà Hiệp định này đã quy định. Hiệp định này sẽ được xem xét vào năm thứ 8sau khi thực hiện quyết định về Danh mục loại trừ cuối cùng hoặc có sữa đổi với Hiệp định này.
Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong nội dung của sản phẩm đó chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ một Quốc gia thành viên ASEAN.
Tất cả các sản phẩm chế tạo, kể cả hàng hoá cơ bản, nông sản chế biến và các sản phẩm nằm ngoài định nghĩa theo Hiệp định này thì sẽ nằm trong phạm vi áp dụng của chương trình CEPT. Những sản phẩm này sẽ nghiễm nhiên được đưa vào Chương trình cắt giảm thuế quan quy định tại Điều 4 của Hiệp định này, có xem xét tới thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi thuế quan thấp nhất (MOP) kể từ 31/12/1992.
Các sản phẩm thuộc diện PTA mà không chuyển sang chương trình CETP sẽ tiếp tục hưởng MOP từ 31/12/1992.
Các quốc gia thành viên mà mức thuế quan đối với các sản phẩm đã được thoả thuận giảm tứ 20% và thấp hơn xuống 0-5% mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định này mà vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi.
Điều 3: Phạm vi các sản phẩm
Hiệp định này được áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm cơ bản, nông sản chế biến và những sản phẩm nằm ngoài định nghĩa “hàng nông sản” được quy định trong Hiệp định này. Nông sản sẽ được loại khỏi Chương trình CEPT.
Điều 4: Chương trình cắt giảm thuế quan
Các quốc gia thành viên thoả thuận Chương trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung như sau:
Giảm các mức thuế quan hiện nay xuống còn 20% trong thời hạn từ 5-8 năm, kể từ 1/1/1993 tuỳ thuộc chương trình cắt giảm thuế quan do từng Quốc gia thành viên quyết định, và sẽ thông báo khi bắt đầu chương trình. Khuyến khích các Quốc gia thành viên cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)%/5 hoặc 8năm, trong đó X là mức thuế quan hiện hành tại mỗi Quốc gia thành viên.
Sau đó giảm mức thuế 20% hoặc thấp hơn trong thời hạn 7 năm. Mức giảm tối thiểu là 5% lượng được cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ được các Quốc gia thành viên quyết định và tuyên bố khi bắt đầu chương trình.
Đối với sản phẩm mức thuế hiện nay là 20% hoặc thấp hơn kể từ ngày 1/1/1993, các Quốc gia thành viên sẽ quyết định Chương trình cắt giảm thuế quan, và công bố ngày bắt đầu áp dụng chương trình cắt giảm. Hai hoặc nhiều Quốc gia thành viên có thể thoả thuận cắt giảm thuế quan xuống còn 0-5% cho các sản phẩm cụ thể với tốc độ nhanh hơn khi bắt đầu chương trình.
Căn cứ theo Điều 4 (1) (c) và 4(1) (b) của Hiệp định này, các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế suất là 20% hoặc thấp hơn, sẽ nghiễm nhiên được hưởng các ưu đãi.
Các chương trình thuế quan trên đây không ngăn cản các Quốc gia thành viên cắt giảm ngay lập tức mức thuế quan của mình xuống còn 0-5% hoặc áp dụng một chương trình rút ngắn việc cắt giảm thuế quan.
Điều 5: Các điều khoản khác
Các hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan
Các Quốc gia thành viên sẽ xoá bỏ các hạn chế về số lượng đối với sản phẩm trong Chương trình CEPT sau khi được hưởng các ưu đãi áp dụng cho những sản phẩm đó.
Các Quốc gia thành viên sẽ dần dần xoá bỏ hàng rào phi thuế quan trong thời hạn 5 năm sau khi được hưởng các chế độ ưu đãi.
B. Các hạn chế về ngoại tệ
Các Quốc gia thành viên sẽ coi là ngoại lệ đối với các hạn chế ngoại tệ liên quan tới thanh toán cho các sản phẩm trong Chương trình CEPT cũng như đối với chuyển các khoản thanh toán đó về nước mà không gây phương hại tới các quyền của mình theo quy định tại Điều 18 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) và các điều khoản có liên quan trong Hiệp định về Quỹ tiền tệ quốc tế.
C. Các lĩnh vực hợp tác khác
Các Quốc gia thành viên sẽ xem xét các biện pháp khác liên quan tới lĩnh vực hợp tác trong phạm vi biên giới và ngoài biên giới nhằm bổ sung và hổ trợ cho tự do hoá mậu dịch. Những biện pháp này bao gồm cả việc thống nhất các tiêu chuẩn chung, công nhận kết quả kiểm chứng hàng hoá, xoá bỏ các hàng rào đối với đầu tư nước ngoài, tham khảo ý kiến trong kinh tế vĩ mô, áp dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích phát triển thị trường vốn.
D. Duy trì các chế độ ưu đãi
Các Quốc gia thành viên sẽ không xoá bỏ hoặc gây tổn hại tới bất cứ ưu đãi nào đã được thoả thuận thông qua việc áp dụng các biện pháp như các xác định giá trị theo hải quan, hoặc các biện pháp hạn chế thương mại khác, trừ trường hợp quy định trong Hiệp định này.
Điều 6: Các biện pháp khẩn cấp
Nếu do việc nhập khẩu một sản phẩm cụ thể được áp dụng theo Chương trình CEPT tăng lên mà gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lĩnh vực sản xuất hoặc các sản phẩm cạnh tranh tương tự ở Quốc gia thành viên nhập khẩu đó thì Quốc gia thành viên này có thể ,trong phạm vi và trong một thời gian cần thiết ,nhằm ngăn chặn hoặc để giải quyết ảnh hưởng đó ,có thể tạm thời đình chỉ áp dụng các ưu đãi mà không sự phân biệt đối xử , theo Điều 6(3) của Hiệp định này ,Việc tạm đình chỉ áp dụng ưu đãi đó phải phù hợp với quy định của GATT.
Một Quốc gia thành viên nếu thấy cần thiết phải áp dụng hoặc tăng cường các bịên pháp hạn chế về số lượng hay bất kỳ biện pháp khác để hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ hoặc chấm dứt sự giảm sút nghiêm trọng sự dự trữ tiền tệ của mình, có thể làm được việc đó theo phương cách bảo đảm các giá trị của các ưu đãi đã được thoả thuận, không làm phương hại tới các nghĩa vụ quốc tế hiện có.
Trong trường hợp áp dụng các biện pháp khẩn cấp theo tinh thần của Điều này, cần thông báo ngay các biện pháp đó cho Hội đồng được đề cập tới tại Điều 7 của Hiệp định này và có thể sẽ có tham khảo ý kiến đối với các biện pháp đó như quy định trong Điều 8 của Hiệp định này.
Điều 7: Các thoả thuận về thể chế
Nhằm các mục tiêu của Hiệp định này, các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN sẽ thành lập một Hội đồng cấp Bộ trưởng bao gồm mỗi Quốc gia thành viên một người được chỉ định và Tổng Thư ký ASEAN sẽ hổ trợ cho AEM. Trong khi thực hiện các chức năng của mình. Hội đồng cấp Bộ trưởng này cũng sẽ được sự hỗ trợ của Hội nghị các quan chức cao cấp kinh tế (SEOM).
Các Quốc gia thành viên có các thoả thuận song phương về cắt giảm thuế quan theo Điều 4 của Hiệp định này sẽ phải thông báo cho các Quốc gia thành viên khác và cho Ban Thư ký ASEAN về các thoả thuận đó.
Ban Thư ký ASEAN sẽ theo dõi và báo cáo cho SEOM về việc thực hịên hiệp định này theo Điều 2 (3) (8) của Hiệp định thành lập Ban Thư ký ASEAN trong việc thực thi các chức năng của mình.
Điều 8: Tham khảo ý kiến
Các Quốc gia thành viên sẽ dành mọi cơ hội cho việc tham khảo ý kiến về bất cứ khiếu nại nào của một Quốc gia thành viên liên quan đến vấn đề thực hiện Hiệp định này có thể xin ý kiến chỉ đạo của AEM trong trường hợp không thể tìm ra một giải pháp thoả đáng trong các cuộc tham khảo ý kiến trước đó.
Các Quốc gia thành viên, nếu cho rằng một Quốc gia thành viên khác không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình, dẫn tới việc xoá bỏ hoặc làm suy giảm các lợi ích mà họ được hưởng nhằm đạt được sự điều chỉnh thoả đáng vấn đề, có thể đề nghị hoặc khiếu nại với Quốc gia thành viên đó và Quốc gia thành viên này cần xem xét thoả đáng khiếu nại hoặc đề nghị nói trên.
Mọi bất đồng giữa các Quốc gia thành viên trong việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết trên tinh thần hoà giải hưu nghị đến mức cao nhất giữa các bên có liên quan. Trong trường hợp không giải quyết được một cách hữu nghị, vấn đề đó sẽ được trình lên Hội đồng đã được đề cập tại Điều 7 của Hiệp định và nếu cần thiết, lên AEM.
Điều 9: Các ngoại lệ chung
Trong Hiệp định này không có điều khoản nào ngăn cản bất kỳ Quốc gia thành viên nào có hành động và áp dụng các biện pháp mà Quốc gia đó thấy cần thiết nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, cuộc sống của con người, động vật và cây trồng, sức khoẻ cũng như các giá trị lịch sử và khảo cổ của mình.
Điều 10: Các điều khoản cuối cùng
Chính phủ các Quốc gia thành viên cam kết áp dụng các biện pháp thích hợp để thực hiện nghĩa vụ đã được thoả thuận theo Hiệp định này.
Bất kỳ sự sửa đổi nào đối với Hiệp định này sẽ phải thực hiện trên nguyên tắc nhất trí và có hiệu lực khi tất cả các Quốc gia thành viên chấp nhận.
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày ký kết.
Hiệp định này sẽ được Tổng Thư ký của Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký lưu chiểu sẽ nhanh chóng sao thành nhiều bản có xác nhận để chuyển cho các Quốc gia thành viên.
Không có một bảo lưu nào đối với bất kỳ Điều khoản nào của Hiệp định này.
Vậy theo chương trình CEPT, các nước sẽ tiến hành cắt giảm thuế quan đến 0-5% kể từ ngày 1/1/1993 trong vòng 15 năm. Gần đây, một lịch trình mới được đề nghị trong đó quy định thời gian cắt giảm thuế quan chỉ trong vòng 10 năm, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và hàng rào phi thuế quan. Điều này có nghĩa là, nếu thực hiện lịch trình mới thì đến năm 2003 các nước phải hoàn thành cắt giảm thuế quan theo cam kết. Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong danh mục biểu thuế quan được chia vào một trong bốn danh mục sau:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định, các quốc gia sẽ phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào giảm thuế.
Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm: Các mặt hàng trong danh mục này có thời hạn giảm thuế muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoặc muộn hơn nữa đối với mặt hàng nhạy cảm cao.
Danh mục loại trừ hoàn toàn: Gồm các sản phẩm không tham gia Hiệp CEPT. Đây là các sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh Quốc gia, đạo đức xã hội .... Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu, các rào cản phi thuế quan khác và các vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
> 20
20
15
10
5
0
1993 1998 2000 2001 2003 2008
Tiến trình cắt giảm thuế bình thường
Tỷ lệ (%)
Lịch trình cũ Lịch trình mới
> 20
20
15
10
5
0
1993 1998 2000 2001 2003 2008
Tình hình cắt giảm thuế nhanh
Tỷ lệ thuế(%)
Từ quá trình cắt giảm liên tục hàng năm và thực trạng dòng thuế của sáu nước thành viên cũ phản ánh xu hướng thuế quan theo CEPT đạt dưới 5% vào năm 2003, đồng thời nhằm đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại ASEAN tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ đang làm suy thoái kinh tế, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 năm 1998 quyết định việc rút ngắn thực hiện CEPT còn 9 năm đối với 6 nước thành viên cũ và 10 năm tính từ khi gia nhập đối 4 nước thành viên mới với mục tiêu tối đa hoá dòng thuế 0-5%. Đồng thời, các nước thành viên cũng loại bỏ hạn chế về định lượng và các hàng phi thuế quan vốn đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực.
Việc trao đổi của các Quốc gia thành viên trong Chương trình CEPT dựa trên nguyên tắc có đi có lại có nghĩa là các nước sẽ cắt giảm thuế lẫn nhau. Để được hưởng ưu đãi thuế quan sản phẩm phải thoả mản các điều kiện. Thứ nhất, sản phẩm phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế. Thư hai, sản phẩm phải có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc cao hơn 20%. Thứ ba, sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua. Thư tư, sản phẩm đó là một sản phẩm của ASEAN có hàm lượng nội địa ít nhất là 40%.
Đối với việc giảm thuế theo lộ trình CEPT để phục vụ cho việc trao đổi thuận lợi giữa các nước. Các nước hình thành hệ thống thủ tục hải quan bao gồm: Thống nhất biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác hải quan HS từ 6-10 chữ số. Hệ thống tính giá hải quan theo quy định của các nước ASEAN; Hệ thống thủ tục hải quan được thống nhất và chia thành ba luồng: Luồng xanh dành cho hàng hoá miễn giảm thuế, luồng vàng dành cho hàng hoá đóng thuế bình thường, luồng đỏ các hàng hoá cấm buôn bán, hàng hoá loại trừ.
Ngoài ra nội dung của AFTA còn quy định hợp tác ở lĩnh vực thương mại cũng là một trong những điểm quan trọng trong tiến trình tiếp cận mục tiêu tự do hoá thương mại cũng như xúc tiến hơn nữa mọi hoạt động trao đổi và mậu dịch của ASEAN. Quy định hợp tác đầu tư nhằm mục đích tự do hoá lĩnh vực đầu tư. Quy định hợp tác phát triển công nghiệp, hợp tác về tài chính ngân hàng.
II. Lịch trình cắt giảm thuế quan của việt nam
Việc công bố lịch trình giảm thuế với ASEAN là nghĩa vụ của mỗi nước thành viên.Thời hạn giảm thuế của lịch trình này đã được quy định rõ trong Hiệp định CEPT. Đối với Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là lịch trình giảm thuế phải được xây dựng phù hợp với phương hướng và các biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất cụ thể do việc tham gia AFTA đề ra, nhằm tranh thủ lợi thế của AFTA, phát huy và nâng cao hiệu quả cho nền sản xuất trong nước, khắc phục tối đa những bất lợi do giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng một lộ trình Việt Nam tham ra AFTA. Lộ trình này gồm ba nội dung chính đó là: Lịch trình giảm thuế những mặt hàng đưa vào thực hiện giảm thuế theo CEPT; Kế hoạch áp dụng và xoá bỏ các biện pháp hạn chế về số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác gắn với lịch trình giảm thuế; phương hướng và các biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất trong điều kiện Việt Nam thực hiện AFTA.
Ba nội dung trên của lộ trình đòi hỏi tính đồng bộ và thống nhất rất cao. Nếu lịch trình giảm thuế không được liên hệ với phương hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất, kế hoạch áp dụng và xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan không đi theo và hổ trợ cho chương trình giảm thuế thì chúng ta khó có thể đảm bảo việc tham gia thực hiện AFTA một cách có hiệu qủa.
Thực hiện cam kết giữa Việt Nam và ASEAN, ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA Bộ trưởng tài chính Việt Nam đã công bố với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo Hiệp định CEPT: Danh mục loại trừ hoàn toàn, Danh mục loại trừ tạm thời, Danh mục cắt giảm thuế quan, Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Các mục trên được đưa ra dựa trên cơ sở các nguyên tắc sau: Không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách; Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước; Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước; hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở quy định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài. Lịch trình giảm thuế của Việt Nam được công bố cụ thể như sau:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế:
Tiến trình cắt giảm bình thường:
Sản phẩm có thuế suất lớn hơn 20% sẽ giảm xuống thấp hơn 20% vào1/1/1998; còn 0-5% vào 1/1/2003
Sản phẩm có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000.
Tiến trình giảm nhanh:
Sản phẩm có thuế suất lớn hơn 20% giảm còn 0-5% vào 1/1/2000
Sản phẩm có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm còn 0-5% vào 1/1/1998.
Tuy tham gia sau, nhưng ngay từ tháng 10/1995, Việt Nam đã chính thức công bố danh mục giảm thuế nhập khẩu 1633 mặt hàng cho cả thời kỳ 1996-2000. D anh mục cắt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu bao gồm những mặt hàng đang có thuế suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu. Các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế ngay của Việt Nam chỉ chiếm 50,51% tổng số các mặt hàng có trong biểu thuế, thấp hơn so với tỷ lệ của các nước ASEAN khác trung bình là 85%. Song đây là biện pháp an toàn nhất để Việt Nam có thời gian nghiên cứu kỹ thêm và rút ra các bài học kinh nghiệm trong những năm đầu thưc hiện CEPT.
Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (loại trừ tạm thời) sẽ:
Chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 –1/1/2000
Mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục cắt giảm thuế.
Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam được xây dựng căn cứ vào quy định CEPT về kế hoạch phát triển kinh tế 2010 của các ngành kinh tế trong nước nhằm đạt được yêu cầu không ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước có tiềm năng phát triển. Danh mục này có khoảng 1200 mặt hàng chủ yếu bao gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất dưới 20% nhưng trước mắt còn phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu hoặc các mặt hàng đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan ngoài biện pháp hạn chế số lượng như phải có giấy phép của bộ quản lý chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra nhà nước về chất lượng hay là những mặt hàng dự kiến nâng thuế suất. Trong số những mặt hàng nói trên, từ 1/1/1999-1/1/2003 mỗi năm chúng ta phải chuyển 20% sang danh mục cắt giảm để điều hành cắt giảm.
Danh mục loại trừ hoàn toàn:
Là những sản phẩm hoàn toàn không được đưa vào danh mục cắt giảm thuế bao gồm các sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức khoẻ con người, động thực vật bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật. Danh mục loại trừ hoàn toàn này được xây dựng phù hợp với Điểm 9 của Hiệp định CEPT và thêm vào những mặt hàng mà Việt Nam hiện đang nhập khẩu nhiều từ các nước ASEAN nhưng không có khả năng xuất khẩuvà đang có mức thuế cao trong biểu thuế .Danh mục này hiện đang có trên 150 mặt hàng thuộc những nhóm hàng như: Các loại động vật sống, sữa, rượu, bia, thuốc lá, thuốc phiện, thuốc lổ, vũ khí, xăng dầu, ô tô chở khách dưới 15 chỗ ngồi…
Danh mục sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm:
Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm thực tế cắt giảm vào 1/1/2001và kết thúc vào 2010 với mức thuế suất 0-5%.
Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm cao cũng kết thúc vào năm 2010
Danh mục này được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nứơc ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản suất trong nước về những mặt hàng này. Danh mục này hiện có gần 50 mặt hàng thuộc các nhóm hàng như: Thịt, trứng gia cầm, các loại hoa quả, thóc …
Tiến trình cắt giảm, mặc dù theo quy định của CEPT là có hai kênh giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nhưng vận dụng giữa các nước thành viên không quy định bắt buộc các nước phải theo tiến trình cắ giảm nhanh, Việt Nam đã không áp dụng tiến trình cắt giảm nhanh.Tuy vậy, các sản phẩm hiện có thuế suất 0-5%, tức là đã thoả mãn các yêu cầu của CEPT, có thể mặc nhiên được xếp vào loại thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh. Do đó hai năm 1996-1997, Việt Nam trên thực tế không thực hiện cắt giảm thuế quan mà chỉ đưa 875 mặt hàng đã nằm ở khung thuế suất 0-5% vào thực hiện hiệp định CEP. Còn các mặt hàng có thuế suất trên 5% chỉ có thể tham gia bước cắt giảm thuế quan đàu tiên kể từ năm 1998 để đảm bảo nguồn thu và bảo hộ một phần cho sản suất trong nước.
Để hỗ trợ cho tiến trình cắt giảm thuế theo đúng cam kết, trong hai năm 1996-1997 Việt Nam tiến hành cải cách hệ thống theo hướng tách loại thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hiện đang được đánh gộp với thuế nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu trước khi tiến hành cắt giảm thực sự thuế nhập khẩu. Do mức thuế phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại này sẽ thấp so với mức thuế nhập khẩu phải giảm nếu ta không phân tách các loại thuế nói trên và điều này sẽ góp phần không gây ra sự giảm sút đột ngột của các nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu.
Về vấn đề loại bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Việt Nam đã cam kết sẽ đệ trình sớm nhất danh mục các hạn chế về số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác. Song các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam khá đơn giản, chủ yếu là các biện pháp như cấp giấy phép hạn ngạch, trong khi đó các biện pháp mà các nước ASEAN đang áp dụng lại rất đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng là những biện pháp phức tạp và tinh vi mà ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng, cho nên để đáp ứng được yêu cầu bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, trước mắt, trước mắt Việt Nam cần phải ban hành gấp rút các biện pháp phi thuế quan bổ sung tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng, nhất là những biện pháp trong tương lai có thể vẫn không bị loại bỏ, trước khi chúng ta đệ trình các danh mục biện pháp phi thuế quan của ta cho ASEAN và tiến hành loại bỏ chúng.
Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cũng đang đàm phán với các nước ASEAN trên một loạt các vấn đề như: Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan, lập luồng xanh thông quan nhanh cho các sản phẩm của CEPT …và đặc biệt sẽ tiến tới ký hiệp định hải quan ASEAN.
Trên cơ sở đó Việt Nam xây dựng lịch trình tổng thể thực hiện CEPT /AFTA. Giai đoạn 2001-2006 tính tới thời điểm hiện nay có vào khoảng trên 6000 dòng thuế, trong đó có khoảng 4230 dòng thuế đã được đưa vào thực hiện CEPT 2000 trở về trước, số còn lại hiện nay trong danh mục loại trừ tạm thời và sẽ được đưa vào thực hiện CEPT trong hạn 3 năm 2001-2003. Nhưng đối với mặt hàng đã đưa vào thực hiện trương trình CEPT từ năm 2000 trở về trước thì lịch trình giảm thuế giai đoạn còn lại của các mặt hàng này được xây dựng căn vào lịch trình tổng thể của nước ta đã được chính phủ thông qua trên cơ sở phù hợp và tuân thủ các quy định của hiệp địnhh CEPT (cụ thể nhưng không duy trì quá 3 năm mức thuế suất của CEPT của một mặt hàng, mỗi bước cắt giảm không dưới 5% và mức thuế suất cuối cùng 0-5% vào năm 2006 ). Còn đối với khoảng gần 1900 mặt hàng hiện đang có trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được vào chương trình CEPT trong 3 năm còn lại 2001-2003 và thực hiện giảm mức thuế suất đạt mục tiêu thuế suất CEPT.
Các mặt hàng đến thời điểm năm 2000 vẫn chưa đưa vào thực hiện chươg trình CEPT hầu hết thuộc những mặt hàng đàm phán dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và thuế hoá. Trong số gần 1900 dòng thuế thuộc danh mục loại trứ tạm thời, chỉ khoảng gần 700 dòng thuế là có mức thuế suất ưu đãi hiện hành hoặc dưới 20%, còn lại trên 1200 dòng thuế có thuế suất ưu đãi hiện hành từ 30% trở lên.
Theo lịch trình cắt giảm thuế tổng thể cũng được chính phủ thông qua từ năm 1997 thì chủ yếu là các mặt hàng có mức thuế suất ưu đãi MFN cao lại được đưa vào thực hiện cắt giảm sau cùng với bước cắt giảm mạnh và đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp được hưởng mức bảo hộ cao từ mức thuế quan sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ tạo tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp để phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở các thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời việc cắt giảm nhiều dòng thuế có mức thuế cao vào những năm cuối sẽ khiến Việt Nam khó có khả năng bảo hộ được cho một số mặt hàng chủ yếu và thực sự cần thiết bảo hộ, về mặt đối ngoại theo đúng tinh thần Hiệp định CEPT đến năm 2001 thì tất cả các mặt hàng đã đưa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đưa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%. Do đó, nếu thực hiện cắt giảm theo đúng lịch trình cũ thì Việt Nam sẽ vấp phải những phản ứng của các nước ASEAN. Trước tình hình này, Bộ tài chính đã dự kíên hướng tháo gỡ trên cơ sở chiến lược phát triển của các bộ, ngành đã được Thủ Tướng chính phủ thông qua, kết hợp với phân tích kim ngạch và diện mặt hàng thương mại chính giữa Việt Nam và các nước ASEAN để lựa chọn những mặt hàng cần thiết để duy trì mức thuế suất vừa đưa vào cắt giảm muộn. Đối với những mặt hàng khác, ưu tiên đưa những mặt hàng có thuế suất và chịu quản lý bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt giảm trước, đảm bảo đúng cam kết mà vẫn giữ thế chủ động cho doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, các bước cắt giảm sẽ được Bộ tài chính đưa ra để các doanh nghiệp và cácBộ ngành tham khảo ý kiến.
Mặc dù là một nước đi sau và còn nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi và trình độ phát triển còn rất thấp, song Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng nhằm vưà đáp ứng được các yêu cầu của AFTA và CEPT vừa đảm bảo duy trì sự phat triển ổn định nền kinh tế của mình theo một tiến trình giảm thuế hợp lí. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng những cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện AFTA và CEPT vẫn mang tính đối phó và chạy theo. Để đảm bảo tham gia AFTA một cách có hiệu quả nhất, đồng thời để chuẩn bị cho bước hội nhập tiếp theo với các tổ chức kinh tế lớn hơn như APEC và WTO, Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ hơn về AFTA /CEPT cà kịp thời điều chỉnh thích hợp các chính sách kinh tế của mình theo hướng một nền kinh tế mở.
II. NHững cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia vào AFTA /CEPT
Xét trên góc độ vĩ mô của tổng thể nền kinh tế AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời đặt ra nhiều thách thức mới đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kì chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của nhà nước. Hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu, xuất khẩu còn ở dạng nguyên liệu thô và thuế xuất nhập khẩu còn là nguồn thu quan trọng. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA 1/1/1996 bằng việc đưa 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT song tất cả mặt hàng này đều nằm ở khung thuế suất 0-5%, mặt khác chúng ta cũng đã đệ trình cho ASEAN danh m._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV040.doc