Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay

mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là một công cụ quan trọng là lực lượng vật chất để điều tiết và định hướng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp, hơn 10 năm qua các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực, thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh còn bộc lộ những tồn tại yếu kém, chưa tương xứng với yêu cầu đòi hỏi và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Trong 5 năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế thực hiện tốt các chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp của Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5]. Từ thực tế những mặt tồn tại, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua và phương hướng, mục tiêu đổi mới phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Do vậy việc chọn đề tài: "Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay" là một vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa về lý luận đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, sự cần thiết phải đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng như các hình thức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Phân tích, đánh giá thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong những năm vừa qua. Xác định phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn không đề cập toàn bộ những vấn đề về sắp xếp, đổi mới trong các doanh nghiệp nói chung mà chỉ đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sắp xếp, đổi mới đối với doanh nghiệp nhà nước. Với thực tiễn quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Bình từ năm 1998 - 2003 để minh họa cho những vấn đề lý luận được đề cập trong luận văn. 4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, vai trò doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu thế tất yếu của việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động và sắp xếp đổi mới của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua. Từ đó, rút ra ưu điểm tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân của các tồn tại đó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế. Chương 2: Thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để góp phần nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình hiện nay. Chương 1 Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế Nhiều thành phần và hội nhập Quốc tế 1.1. Lý luận chung về Doanh nghiệp nhà nước 1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng nghĩa với kinh tế nhà nước. Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trên thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách doanh nghiệp nhà nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước, các định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai lệch về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức quản lý, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa phương. Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà nước (trước đây gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong nền kinh tế, đó là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý. Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi (cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước luôn là vấn đề trung tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý và hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số hình thức đan xen sở hữu hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về doanh nghiệp nhà nước như sau: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý [1]. Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công nghệ thiết bị lạc hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những vướng mắc về thể chế, chính sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước làm cho khu vực doanh nghiệp này thiếu tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương mại... Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp được đổi mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2004, khẳng định: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn" [15]. 1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu: Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước; loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước nắm giữ một phần sở hữu nhất định. Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích); doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7]. Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước có thể chia thành ba loại: - Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ ngân sách của các cơ quan chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là các xí nghiệp liên quan đến quốc kế dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu chính, đường sắt, sản xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn thấy nhiều ở các nước. - Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản thuộc về nhà nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà nước đầu tư và có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập. ở các nước trên thế giới loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh vực công cộng, lấy việc phục vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện, khí, ga, nước sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra và kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ thuộc vào cơ quan quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh doanh nhất định trong phạm vi đã xác định nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục tiêu nào đó của Nhà nước làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế và quản lý nhất định của Chính phủ. - Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và Nhà nước nắm quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn nhất của loại doanh nghiệp nhà nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể khống chế chúng. Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể triển khai các hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước bao gồm những công trình cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt, đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai mở rộng vào các ngành công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà nước theo chế độ nhà nước tham dự ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9], [10]. Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành: - Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là những doanh nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh. - Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là những doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban ngành cấp tỉnh cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực tiếp của các cơ quan quản lý cấp trên theo ngành dọc như các Tổng công ty (Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp (liên hiệp xí nghiệp đường sắt), các Cục, Tổng cục… 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực thúc đẩy phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước. Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân, như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ yếu thực hiện các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích, nhờ có doanh nghiệp nhà nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả năng ứng phó có kết quả trong việc khắc phục ảnh hưởng và hậu quả của thiên tai. Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ trọng GDP của các ngành này trong nền kinh tế; các ngành thuộc cơ sở hạ tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh thổ. Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động, xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới. Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai trò quan trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc trưng chung như mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: - Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt động kinh doanh. - Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm. - Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế, trước hết là mục đích sinh lợi. - Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước cũng có những đặc điểm riêng, đó là: - Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà nước dưới hình thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán, nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ động hoàn toàn trong việc lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Hơn thế, các doanh nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết định có tính chiến lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn mất cả cơ hội do phải trình duyệt qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý. - Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, vẫn có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản quan trọng nhất (như đối với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài việc đầu tư phát triển để thu được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội. - Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo và ổn định nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò tích cực như cung cấp những dịch vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát triển kinh tế; giải quyết một loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức năng đặc biệt như an ninh, quốc phòng… Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến công tác hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước. 1.2. Sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được khắc phục Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: - Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế có được; tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm dần, nợ khó đòi ngày càng lớn. Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi và trích lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp kinh doanh có lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%); số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số còn lại là những doanh nghiệp nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ, khi lãi và nếu có lãi cũng chỉ là tượng trưng. Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém, biểu hiện rõ nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại thị trường nội địa, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế từ 10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện Việt Nam đã và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1% nợ quá hạn ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%, gây khó khăn lớn đến hoạt động của ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới 207.778 tỷ đồng (tăng 10% so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là 2.748 tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng khả năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài chính, ước tính lượng hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong số hàng tồn kho trên có khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần dùng. Ngoài ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới 445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời bao cấp, lỗi thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật lạc hậu nên các doanh nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý, điều này làm tăng gánh nặng cho chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn. Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương nên dẫn đến tình trạng manh mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất. Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước 139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này là hơn 50% (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà Nam) [2]. Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay có đến 4 - 5 doanh nghiệp của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không cùng kinh doanh, vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây dựng; sự kết hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành nề nếp. Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị trường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối. Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công nghệ chậm đã hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh nghiệp. Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô cũ, 25% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên 18% là các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%) và thuộc các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao động thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76% thiết bị máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã hết khấu hao, gần 50% được tân trang lại. Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa chữa, hậu quả là chưa tạo ra được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số mặt hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3]. Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6% nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao động không có việc làm ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành trung ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải Phòng (15%). Tổng Công ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%. Tổng Công ty Thép Việt Nam dôi dư lao động 12%. Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của doanh nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng lao động, trả công lao động và gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên việc tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ chế chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi dư. Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành từ cơ chế tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh của chế độ cũ. Trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các cơ quan, trường học, quận huyện được thành lập doanh nghiệp nhà nước để "tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám đốc và công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh doanh không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư nhân còn quá non yếu nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ cấu thật mạnh theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước cấp không đủ ở mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60% số doanh nghiệp nhà nước không có đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%, các doanh nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh nghiệp do địa phương quản lý là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết. Trong số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc các khoản công nợ không có khả năng thu hồi, khoản lỗ chưa được bù đắp… Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu sau: * Nguyên nhân khách quan Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình thành, cơ chế cũ chưa được xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại nặng nề không thể giải quyết được trong một sớm một chiều. Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn đổi mới, còn đa phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước những năm trước đây. Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động không đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề... Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con người trông cậy vào đây mà chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính vì thế hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh. * Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết, không triệt để và chưa có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu ._.đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh nghiệp nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn lúng túng khi định hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhất là các biện pháp về sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng vị trí của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến đầu tư quá phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước, trong cổ phần hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối… Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp doanh nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số doanh nghiệp nhà nước lại được thành lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do đó nhiều doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình trạng nợ nần, sản phẩm không tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía đường, gạch Tuy-nen. Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp nhà nước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ. Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được Nhà nước đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu tư dàn trải, đồng thời pháp luật cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư vào doanh nghiệp, không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách nhiệm về đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ. Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động; chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như: quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự phòng thất nghiệp… Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như: quyền quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi của doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính trước kia như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra theo chức năng của cơ quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ, tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường. Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở hữu và cổ phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và đã làm hạn chế các kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và chậm khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý sử dụng vốn của nhà nước. Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhất là đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập do đó một bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm, trong khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn. Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa là một tất yếu khách quan để các doanh nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. 1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục xử lý, tháo gỡ để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không nhất thiết nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên [5]. Mục tiêu của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới là: - Xây dựng doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. - Làm cho doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong các ngành và lĩnh vực kinh tế then chốt để Nhà nước chi phối, điều khiển được nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. - Làm nòng cốt đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và xây dựng công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Bảo đảm được nhu cầu cần thiết cho an ninh, quốc phòng và các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội. Từ những mặt tồn tại, yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua và những phương hướng mục tiêu đổi mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những năm tới để doanh nghiệp nhà nước khắc phục được tình trạng phân tán, manh mún, kinh doanh kém hiệu quả, thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tổ chức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc đẩy mạnh các giải pháp cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ hình thức sở hữu nhà nước là vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với việc đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước. 1.3. Các hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước Để giải quyết tình hình khu vực doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh về mặt số lượng, yếu kém về mặt chất lượng, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo các hình thức cụ thể sau: 1.3.1. Sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước Sáp nhập doanh nghiệp là loại giao dịch trong đó một hay một số doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp khác và sử dụng pháp nhân của doanh nghiệp này để hoạt động. Thông thường doanh nghiệp nhận sáp nhập phải có tiềm lực tài chính, kinh doanh lớn hơn doanh nghiệp bị sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập được hoàn thành doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ được hưởng các quyền lợi và lợi ích hợp pháp, đồng thời cũng chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị sáp nhập. Khác với hình thức sáp nhập, việc hợp nhất các doanh nghiệp là giao dịch trong đó hai hoặc một số doanh nghiệp thỏa thuận với nhau hợp nhất lại để hình thành một pháp nhân mới. Nói một cách đơn giản đó là sự ra đời của một doanh nghiệp mới từ sự kết hợp một số doanh nghiệp cũ. Các doanh nghiệp tham gia hợp nhất đều từ bỏ pháp nhân của mình để hình thành một pháp nhân mới. Doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền lợi và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao động và và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất. Kết quả của việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là việc hình thành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn trước, nhờ tập trung sản xuất bằng con đường sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp mà các doanh nghiệp mới đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn, sự tiết kiệm nhiều hơn trong hoạt động kinh doanh. Hơn thế nữa việc mở rộng quy mô kinh doanh bằng việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp còn đem lại nhiều lợi thế so sánh hơn so với việc tăng quy mô bằng tăng trưởng nội lực (tái đầu tư lợi nhuận sau thuế), đó là thời gian đạt được sự tăng trưởng nhanh hơn; khả năng tiết kiệm các chi phí trong đào tạo nguồn nhân lực; tiết kiệm các chi phí cố định; rút ngắn thời gian kiểm soát và chiếm lĩnh thị trường... chính vì vậy, sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp cũng là một con đường có thể lựa chọn để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước là giải pháp chấm dứt sự tồn tại của một doanh nghiệp, song nguyên nhân và cách thức thực hiện giữa chúng lại có sự khác biệt nhất định. Một doanh nghiệp nhà nước có thể bị giải thể và chấm dứt sự tồn tại pháp nhân của mình trong các trường hợp sau đây: - Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập doanh nghiệp mà doanh nghiệp không xin gia hạn. - Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài song chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. - Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước quy định sau khi đã thực hiện các biện pháp cần thiết. - Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp nhà nước là không cần thiết. Khác với giải thể doanh nghiệp, việc phá sản doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và thực hiện theo luật về phá sản doanh nghiệp. Một doanh nghiệp bị phá sản nếu doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết để khôi phục doanh nghiệp mà vẫn hoàn toàn mất khả năng thanh toán các khản nợ đến hạn, tổng số nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. 1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu thế khách quan, một biện pháp quan trọng để tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Có thể nêu ra một số căn cứ sau đây: - Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là phù hợp với định hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua theo đường lối của Đảng và Chính phủ. - Tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn kinh doanh trên thị trường, giải quyết khó khăn về vốn của các doanh nghiệp - Giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu ngân sách cho các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước. - Thúc đẩy và tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn, tạo thêm kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xác định là: - Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Đối tượng cổ phần hóa là doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp nhà nước có thể cổ phần hóa cũng cần phân biệt loại doanh nghiệp nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc loại doanh nghiệp nhà nước có thể hoặc không cần nắm cổ phần hoặc thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu khác. Việc phân loại trên đây tạo điều kiện vừa thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Về hình thức cổ phần hóa, các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức được quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, đó là: - Giữ nguyên giá trị thuộc phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn. - Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. - Bán toàn bộ phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. 1.3.3. Giao doanh nghiệp nhà nước Giao doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao động có điều kiện ràng buộc [12]. Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động trong doanh nghiệp do Ban chấp hành Công đoàn đại diện hoặc người được đại hội toàn thể công nhân viên chức trong doanh nghiệp bầu làm đại diện tự nguyện đăng ký nhận giao. 1.3.4. Bán doanh nghiệp nhà nước Bán doanh nghiệp nhà nước là sự chuyển đổi sở hữu toàn bộ giá trị tài sản của một doanh nghiệp nhà nước sang cho các pháp nhân hoặc thể nhân khác [12]. Căn cứ vào quyết định phê duyệt bán doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền, giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo cho toàn thể người lao động trong doanh nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng để đăng ký danh sách người mua doanh nghiệp. Đối tượng được mua doanh nghiệp có thể là tập thể, cá nhân hoặc các pháp nhân kinh tế có nhu cầu mua doanh nghiệp. Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh nghiệp được bán theo phương thức trực tiếp. Trường hợp có từ hai người đăng ký mua trở lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu thầu, giá bán doanh nghiệp được căn cứ vào giá trị thực tế của doanh nghiệp được người mua và người bán doanh nghiệp chấp nhận, các vướng mắc về tài sản, tài chính của doanh nghiệp được bên bán xử lý trước khi bán doanh nghiệp. 1.3.5. Khoán kinh doanh doanh nghiệp nhà nước Khoán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước là phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp, đồng thời có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu, bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán [12]. Nội dung, các chỉ tiêu và điều kiện khoán kinh doanh được bên giao khoán quy định và được bên nhận khoán chấp nhận căn cứ vào đặc điểm của từng ngành và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở xem xét các yêu cầu về bảo toàn vốn nhà nước; giải quyết việc làm và đóng đủ bảo hiểm cho người lao động; tăng lợi nhuận (hoặc giảm lỗ) của doanh nghiệp; thực hiện các chính sách của Nhà nước và các hợp đồng đã ký kết. Bên giao khoán có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các cam kết trong hợp đồng nhận khoán, xử lý các trường hợp vi phạm hợp đồng, song không can thiệp vào việc điều hành hoạt động của người nhận giao khoán và tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện các cam kết đã ghi trong hợp đồng. 1.3.6. Cho thuê doanh nghiệp nhà nước Cho thuê doanh nghiệp nhà nước là hình thức tạm thời chuyển quyền khai thác, sử dụng tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho các tổ chức, cá nhân khác mà vẫn giữ nguyên tên gọi, sử dụng các thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước mà người nhận thuê phải trả một khoản bồi hoàn cho Nhà nước dưới dạng tiền thuê [12]. Tùy theo đặc điểm kế thừa hoặc không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê mà thuê doanh nghiệp nhà nước được chia thành hai loại: - Thuê tài sản của doanh nghiệp: người thuê nhận thuê toàn bộ các tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, nhưng không kế thừa các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thuê. - Thuê doanh nghiệp hoạt động: người thuê nhận toàn bộ tài sản hợp thành cơ sở sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có kèm theo thuê lao động của doanh nghiệp, đồng thời có kế thừa các khoản vay, nợ, các hợp đồng kinh tế, các quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp theo thỏa thuận của các bên có liên quan. Cũng giống như hình thức bán doanh nghiệp, nếu chỉ có một người đăng ký thuê doanh nghiệp thì cho thuê doanh nghiệp được thực hiện theo phương pháp trực tiếp. Ngược lại nếu có nhiều người đăng ký thuê doanh nghiệp thi việc cho thuê doanh nghiệp được thực hiện theo phương thức đấu thầu. Giá cho thuê doanh nghiệp được xác định căn cứ vào hình thức thuê, giá cho thuê tối thiểu do người cho thuê quy định, giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá thỏa thuận giữa người cho thuê và người nhận thuê hoặc giá thắng thầu (trường hợp đấu thầu), nhưng không thấp hơn mức giá tối thiểu của người cho thuê quy định Tóm lại, quá trình sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước thông qua việc chuyển đổi hình thức sở hữu, thay đổi phương thức quản lý và cơ cấu, tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước có thể được thực hiện theo nhiều hình thức và phương thức khác nhau. Việc xem xét một cách toàn diện các hình thức này cho phép Nhà nước, doanh nghiệp lựa chọn hình thức và phương pháp thực hiện cụ thể phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, ngành hoặc địa phương mình, góp phần thúc đẩy quá trình cơ cấu và tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Chương 2 Thực trạng sắp xếp, đổi mới Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng bình trong thời gian qua 2.1. tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua 2.1.1. Điều kiện về vị trí địa lý và tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình Quảng Bình là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt. Trước hết, Quảng Bình án ngữ con đường thông thương đôi miền Nam Bắc của đất nước, Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, ngăn cách bởi dãy Hoành Sơn chạy theo hướng Tây sang Đông. Phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, có chung địa giới dài 75 km. Phía tây giáp tỉnh Khăm Muộn của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, với đường biên dài 201,87 km. Phía đông là biển Đông với đường bờ biển dài 116,04 km. Quảng Bình là một trong những tỉnh có diện tích vào loại nhỏ của miền Trung, có diện tích tự nhiên phần đất liền là 8.037,6 km2. Với đặc điểm địa hình đa dạng, Quảng Bình được đánh giá là vùng đất có nhiều tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và du lịch. Về tài nguyên đất, Quảng Bình có nhiều loại, bao gồm: nhóm đất cát phân bố chủ yếu dọc bờ biển có diện tích 77.490 ha, thuận lợi phát triển các cây lâm nghiệp, các loại hoa màu, cây thực phẩm, nhóm đất mặn có diện tích 93.328 ha phân bố chủ yếu ở cửa sông cho phép phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ, trồng cây lương thực và cây công nghiệp chịu mặn. Nhóm đất phù sa - đây là loại đất chính được sử dụng phát triển cây lương thực, cây thực phẩm và chăn nuôi. Nhóm đất lầy và than bùn với đặc điểm giàu hữu cơ, mùn cao rất phù hợp với việc phát triển các loại cây nông nghiệp trên phạm vi toàn tỉnh. Về rừng tự nhiên, Quảng Bình có 230.142 ha, trong đó rừng giàu có 81.800 ha, rừng trung bình có 67.800 ha, rừng nghèo 59.300 ha, rừng phục hồi 21.200 ha, tổng trữ lượng gỗ: 28.248 triệu m3 với nhiều giống loài quý hiếm như: gỗ mun, trầm hương, huỳnh nghiến… Tài nguyên biển, Quảng Bình tương đối lớn về trữ lượng và rất phong phú về loài, với trữ lượng trên dưới 20 vạn tấn hải sản và có hầu hết các loại hải sản có mặt ở Việt Nam: 1.605 loài. Biển Quảng Bình có những loài thủy sản mà các tỉnh khác có ít hoặc không có như: tôm hùm, tôm sú, san hô, mực ống, mực nang... Trong đó mực ống, mực nang chiếm trữ lượng lớn và có chất lượng cao là một trong những nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các đơn vị chế biến thủy - hải sản xuất khẩu trên phạm vi toàn tỉnh. Khoáng sản Quảng Bình phong phú về chủng loại (gần 40 loại khác nhau), trong đó đáng chú ý là khoáng sản phi kim loại có trữ lượng lớn cho phép phát triển các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, hóa chất, phân bón. Khoáng sản dùng làm nhiên liệu có than đá, khai thác phục vụ tại chỗ, khoáng sản kim loại có kim loại đen, màu, kim loại quý: sắt, mang gan, chì, kẽm có trữ lượng cho phép khai thác quy mô nhỏ, phục vụ tại chỗ, riêng vàng có trữ lượng lớn đang được thăm dò trên quy mô lớn. Khoáng sản phi kim loại có phốt pho rít, phi rít, than bùn có chất lượng cao, thành phần quặng đơn giản, trữ lượng đáng kể có thể khai thác làm nguyên liệu phân bón và hóa chất. Tài nguyên dùng làm nguyên liệu gốm, sứ, phục vụ công nghiệp dân dụng có cao lanh trữ lượng 36 triệu tấn, cát trắng thạch anh có chất lượng cao, dễ khai thác phục vụ sản xuất kính dân dụng cao cấp, thủy tinh... có trữ lượng lớn trên 35 triệu tấn [4]. Nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng khá phổ biến và phân bố rộng khắp như: đá vôi, đá sét xi măng, sét gạch ngói; mạch nước khoáng có độ khoáng hóa cao, có khả năng dùng trong y học… Về tiềm năng du lịch, Quảng Bình là vùng đất tiếp biến văn hóa trên cả hai chiều Bắc - Nam và Đông - Tây, đồng thời cũng là nơi tạo hóa của thiên nhiên để lại nhiều cảnh quan kỳ vĩ. Đặc biệt là khu danh thắng Phong Nha - Kẻ Bàng vừa qua được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới đã thu hút được rất nhiều du khách tham quan, mở ra tiềm năng phong phú cho việc phát triển các loại hình du lịch như tham quan, thám hiểm, nghỉ ngơi, nghiên cứu, du lịch sinh thái. Xuất phát từ những điều kiện trên mà doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như: Quản lý, bảo vệ phát triển tài nguyên rừng, khai thác chế biến, kinh doanh các loại lâm sản và tài nguyên khác; sản xuất chế biến hải sản và nuôi trồng thủy sản xuất khẩu; sản xuất khai thác vật liệu xây dựng: xi măng, khai thác đá, sản xuất gốm sứ; kinh doanh thương mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng... Ngoài ra Quảng Bình còn có các xí nghiệp khai thác công trình thủy lợi, Công ty sản xuất giống cây trồng, giống gia súc, sản xuất phân bón phục vụ cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh. 2.1.2. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong những năm qua Đến hết năm 2002, ở Quảng Bình có 49 doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý (gồm 37 doanh nghiệp kinh doanh và 12 doanh nghiệp công ích), phần lớn các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như nông, lâm nghiệp có 13 doanh nghiệp chiếm 27%, với tổng số vốn Nhà nước hiện có là 68,9 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 5,3 tỷ đồng); lĩnh vực công nghiệp chế biến có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn nhà nước là 33,3 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 4,2 tỷ đồng); lĩnh vực xây dựng và vật liệu xây dựng có 5 doanh nghiệp chiếm 10%, với tổng vốn nhà nước là 15,5 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,1 tỷ đồng); lĩnh vực thương mại, du lịch - khách sạn - nhà hàng có 8 doanh nghiệp chiếm 16%, với tổng vốn nhà nước là 24,7 tỷ đồng (bình quân mỗi doanh nghiệp là 5,2 tỷ đồng); còn lại là 15 doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác như giao thông vận tải, dịch vụ tư vấn, văn hóa - thể thao, dịch vụ công cộng chiếm 31%, với tổng số vốn nhà nước là 55.053 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 3,7 tỷ đồng (xem phụ lục 01). Qua đó có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình đó là: Số lượng doanh nghiệp không nhiều, kinh doanh ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đa số có quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sản lượng hàng hóa thấp, chủng loại ít, chất lượng sản phẩm chưa cao,thị trường tiêu thụ hẹp, chủ yếu là nội tỉnh, chưa có các loại hàng hóa chủ lực; năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nhiều doanh nghiệp còn yếu, khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế chưa đáp ứng được so với yêu cầu đổi mới. Có thể đánh giá cụ thể tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh quản lý qua bảng số liệu dưới đây: Biểu 2.1: Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Bình (2000-2002) ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích Tổng cộng D.N K.d D.N C.ích - Số lượng D.nghiệp 58 46 12 53 41 12 49 37 12 - Vốn kinh doanh: + Vốn Nhà nước + Vốn vay + Vốn khác 531,6 212,0 308,6 11,0 503,8 188,7 304,4 10,7 27,8 23,3 4,2 0,26 556,4 206,3 334,1 16,0 520,8 176,3 329 15,5 35,6 30,0 5,1 0,5 693,2 214,0 464,2 15,0 656,2 183,9 457,8 14,5 37 30,1 6,4 0,5 - Tổng doanh thu 920,9 872,9 48,0 1131 1071 60,0 953,7 895,6 58.1 - Nộp ngân sách: Nộp ở địa phương 122,9 36,6 121,9 35,3 1 1 116,3 37,1 115,4 36,2 0,9 0,9 118,7 37,8 117,8 36,9 0,9 0,9 - Lao động (người) 10.669 9585 1.084 10.855 9481 1.374 11.076 9.702 1.374 - Lãi (+); Lỗ (-) 6,6 5,2 1,4 5,9 4,8 1,1 5,1 3,9 1,2 Nguồn: Sở Tài chính Quảng Bình (2000-2002), Báo cáo tổng hợp tài chính doanh nghiệp nhà nước Quảng Bình, Quảng Bình [19]. Biểu 2.1 cho thấy, vốn kinh doanh của các doanh nghiệp tăng nhanh trong năm 2002, chủ yếu do tăng cường năng lực sản xuất mới từ các dự án đầu tư được đưa vào sử dụng: so với năm 2000 tổng vốn trong năm 2002 tăng 30,4%, trong đó vốn của doanh nghiệp công ích tăng 37%; trong cơ cấu, vốn Nhà nước có tỷ trọng giảm dần từ 40% năm 2000 còn 31% năm 2002, vốn vay ngân hàng có xu hướng tăng từ 58% lên 68%, nguồn vốn khác cũng tăng đáng kể. Trong tổng số 214 tỷ vốn Nhà nước, có khoảng 60 tỷ là vốn lưu động thì đến 31/12/2002 các khoản vốn không có khả năng thu hồi vào khoảng 30,4 tỷ đồng, tập trung ở một số doanh nghiệp như Công ty Xây dựng và vật liệu xây dựng, Công ty Hóa chất, Công ty Sông Gianh. Số nộp ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước năm 2001 giảm 3%, năm 2002 giảm 5% so với năm 2000, chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu giảm. Riêng nộp ngân sách tại địa phương có tăng nhưng không đáng kể từ 36,6 tỷ đồng năm 2000, lên 37,1 tỷ đồng năm 2001 và 37,8 tỷ đồng năm 2002; các doanh nghiệp công ích nộp ngân sách ổn định khoảng 1 tỷ đồng. Một trong những lý do, đầu tư tăng nhanh trong khi phần thu tại địa phương chưa cao là do các dự án mới đưa vào sản xuất trong giai đoạn đầu chưa có lãi hoặc đang bị lỗ và đang được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Lợi nhuận thực hiện của các doanh nghiệp có xu hướng giảm, riêng năm 2002 lợi nhuận thực hiện là 5,1 tỷ đồng có mức thấp nhất trong 3 năm liên tiếp. Trong năm 2002, một số doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc đẩy mạnh sản xuất, tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ, hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu đã có lãi, nhưng do lỗ lũy kế từ những năm trước lớn đã làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh trong năm như Công ty Xây dựng và Vật liệu xây dựng, Công ty Gốm sứ, Công ty nước Khoáng Bang... Một số doanh nghiệp khác có lợi nhuận tương đối cao và ổn định như Công ty sông Gianh, Công ty Cao su Việt Trung, Công ty Lâm Công nghiệp Long Đại, Công ty cấp thoát nước… Tổng hợp kết quả phân loại doanh nghiệp nhà nước ở ._. các Sở quản lý chuyên ngành chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong Ban và tổ chuyên viên giúp việc hướng dẫn, đôn đốc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Hàng quý, ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì hội nghị yêu cầu các Sở, ngành phải báo cáo việc thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở, ngành mình quản lý. Trọng tâm báo cáo, thảo luận nên xoáy vào các vấn đề khó khăn, vướng mắc cũng như đề xuất các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong thời gian tới; có chế độ khen thưởng đối với những Sở, những ngành và doanh nghiệp làm tốt và có hình thức kỷ luật đối với các cá nhân, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ hoặc gây cản trở làm chậm tiến trình triển khai thực hiện. - Củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạo thực hiện bằng cách tiếp tục kiện toàn Ban đổi mới doanh nghiệp tỉnh, tiến đến xây dựng quy chế làm việc và phân công phân nhiệm cụ thể cho các thành viên trong Ban, đối với tổ chuyên viên giúp việc, cần lựa chọn một số cán bộ có năng lực, nhiệt tình, vững về chuyên môn nghiệp vụ của các Sở, ngành tham gia. Về tổ chức chỉ đạo, Ban đổi mới doanh nghiệp phải thực sự đóng vai trò đầu mối quan trọng để nắm bắt tổng hợp kịp thời tình hình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong phạm vi toàn tỉnh, tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện. - Tăng cường giám sát, kiểm tra đôn đốc của Ban đổi mới doanh nghiệp đối với công tác giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê và cổ phần hóa tại các doanh nghiệp. Thực hiện chức năng hướng dẫn giám sát, điều hành và uốn nắn kịp thời những lệch lạc để đảm bảo việc thực hiện quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh diễn ra theo đúng tiến độ, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. - Hàng năm, cần tiến hành tổng kết đánh giá công tác sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện được trong năm để rút kinh nghiệm, chỉ ra các vấn đề chưa thống nhất, còn vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện để xin ý kiến chỉ đạo của Ban đổi mới phát triển doanh nghiệp cũng như xin ý kiến các bộ, ngành Trung ương để có sự chỉnh lý, bổ sung các chính sách, chế độ cho phù hợp với thực tiễn nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp theo mục tiêu yêu cầu đề ra của tỉnh. 3.3.3. Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư nhằm tạo tiền đề cho việc đẩy nhanh quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước Một trong những lực cản tác động đến tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua ở Quảng Bình là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp. Theo ước tính hiện toàn tỉnh có khoảng 469 lao động dôi dư từ quá trình đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Số lao động này chủ yếu là lao động phổ thông, kỹ năng nghề nghiệp còn hạn chế, trong đó, số có thể đào tạo lại chỉ chiếm 10%. Điều này cho thấy sức ép về việc làm cho số lao động dôi dư này cùng với hàng ngàn lao động dôi dư của các doanh nghiệp trong quá trình sắp xếp đối với nền kinh tế không phải là nhỏ. Nếu chúng ta có biện pháp giải quyết phù hợp sẽ có tác động tích cực đến tâm lý của người lao động trong doanh nghiệp và là cơ sở đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đây không chỉ là trách nhiệm của riêng doanh nghiệp hoặc Nhà nước mà là nhiệm vụ và trách nhiệm chung của cả doanh nghiệp lẫn Nhà nước. Về phía doanh nghiệp: phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, cụ thể: - Phân loại lao động để xác định số lao động hợp lý, lao động dôi dư. Chấm dứt việc tiếp nhận lao động, thuê mướn nhân công thời vụ một cách tùy tiện làm cho năng suất lao động thấp, tỷ lệ thiếu việc làm, chờ việc cao. - Đưa ra hướng giải quyết đối với số lao động dôi dư. Cụ thể đối với lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu) có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại có thể giải quyết theo hướng như: tái sử dụng sau khi đào tạo, đào tạo lại hoặc hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới. Khi thực hiện sắp xếp lại, doanh nghiệp cần chú ý đến phương án đầu tư và phát triển sản xuất - kinh doanh để đảm bảo tối đa người lao động có việc làm ở các mới sau sắp xếp, chuyển đổi sở hữu. Thực hiện trợ cấp đào tạo, đào tạo lại, tạo việc làm mới, chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc hoặc mất việc thì phải giải quyết theo chế độ hiện hành. Nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư và không có việc làm do doanh nghiệp chịu trách nhiệm (có thể lấy từ quỹ trợ cấp mất việc làm, từ tiền thu được do chuyển đổi sở hữu). Nếu không đủ thì lấy quỹ hỗ trợ, sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ngoài ra còn được hỗ trợ thêm từ ngân sách và các nguồn tài chính có thể khác. Về phía Nhà nước: Ngoài việc hỗ trợ nguồn kinh phí cho doanh nghiệp trong việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động theo các chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước; trong một số trường hợp cần thiết, tỉnh cần có chính sách riêng nhằm hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại doanh nghiệp để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc (6 tháng đến 1 năm). Cần có chính sách rõ ràng, cụ thể giải quyết quyền lợi cho người lao động dôi dư (những người ra khỏi khu vực doanh nghiệp nhà nước). Đặc biệt phải xem xét lại chế độ trợ cấp đối với người lao động tự nguyện thôi việc từ đó hình thành nguồn trợ cấp thích hợp và có phương án chi trả sao cho người lao động dôi dư trực tiếp nhận được các khoản trợ cấp này một cách nhanh chóng kịp thời. Có chính sách khuyến khích số lao động dôi dư lập nghiệp, tự tạo việc làm mới như các chính sách ưu đãi về tín dụng, về tiền thuê đất, về thuế sản xuất kinh doanh... 3.3.4. Giải quyết, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nhà nước của tỉnh nhằm đẩy nhanh tiến độ thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước Nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới và tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình, thực hiện chuyển một bộ các doanh nghiệp nhà nước thành các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác qua giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước, cần chú trọng thực hiện một số biện pháp cụ thể sau đây: - Cần xác định rõ, tách và xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng của doanh nghiệp trước khi tiến hành giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp. Xử lý các khoản nợ, đặc biệt là nợ tồn đọng chính là một lúng túng lớn đối với quá trình bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình. Lý do là các cá nhân, tổ chức mua, nhận khoán hoặc nhân thuê lại doanh nghiệp không bao giờ chịu nhận trang trải các khoản nợ mà trước đây doanh nghiệp đã gây ra. Nhìn chung, đây cũng là điều hợp lý, tuy nhiên, các khoản nợ mà doanh nghiệp nhà nước đang gánh chịu cũng phải được xử lý theo hướng trả nợ dứt điểm. Để làm điều này, trước hết, các cơ quan chủ quản của các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện bán, khoán kinh doanh hoặc cho thuê ở tỉnh phải khắc phục quan niệm lấy đây làm con đường "thoát nợ" đối với các doanh nghiệp yếu kém nhằm lẩn tránh các khoản nợ phải trả. Những bước sau đây cần triển khai trước khi bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp ở Quảng Bình là: + Trước tiên, cần tính toán lại toàn bộ các khoản nợ đã phát sinh, trách nhiệm thanh toán đối với mỗi khoản, bao gồm cả nợ gốc và lãi phát sinh, trên cơ sở này, xác định thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản. + Cân đối các khoản nợ đã được xác định trên đây với tài sản và khả năng thanh toán hiện tại của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoàn toàn không có tài sản để thanh toán các khoản nợ, cần làm thủ tục phá sản chứ không thể xếp vào loại bán, khoán hoặc cho thuê. Trong trường hợp doanh nghiệp có tài sản nhưng không thể trả nợ do vốn bị đơn vị khác chiếm dụng, có thể xử lý theo theo hai cách cơ bản (hoặc kết hợp cả hai): Một là, đàm phán với cá nhân, tổ chức nhận mua, khoán, nhận thuê để họ nhận cả các khoản nợ phải trả và nợ phải thu trên cơ sở có kế hoạch thanh toán rõ ràng và có sự cam kết của các bên có liên quan đến các khoản nợ của doanh nghiệp. Hai là, cơ quan quản lý nhà nước được ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền đứng ra thu hồi các khoản nợ cũ và thanh toán trả các khoản phải trả chủ nợ cũ. Đối với nợ thuế: Để quá trình giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp được thuận lợi, nhanh chóng, Nhà nước nên phân cấp cho các ủy ban nhân tỉnh nói chung và ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình nói riêng được quyết định xóa nợ tồn động ngân sách với giá trị dưới 500 triệu đồng. - Cần có chính sách hỗ trợ kinh phí trong quá trình thực hiện việc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Sau khi bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, ngân sách sẽ nhận được tiền do các hoạt động này. Tuy nhiên, các hoạt động liên quan đến bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp lại làm phát sinh những chi phí nhất định (chi phí đánh giá lại doanh nghiệp, chi phí khắc phục những sự cố, sửa chữa những hỏng hóc, những khoản đầu tư nhỏ để khôi phục lại trạng thái hoạt động của doanh nghiệp trước khi bán, khoán, cho thuê…). Đối với doanh nghiệp được cổ phần hóa, những kinh phí này đã có nguồn để trang trải. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp được giao, bán, khoán, cho thuê thì không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ kinh phí để tiến hành các hoạt động này, nên hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ ở Quảng Bình thực hiện việc chuyển đổi rơi vào tình trạng bế tắc hoặc chỉ có thể thực hiện một cách chậm chạp do không xử lý được các khó khăn về mặt tài chính, không giải quyết được chế độ cho người lao động, mà nhu cầu kinh phí hỗ trợ trong quá trình thực hiện chuyển đổi lại rất lớn trong khi ngân sách của tỉnh hiện rất hạn hẹp, không thể đảm đương được. Do vậy, Chính phủ cần có cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí cho các tỉnh đặc biệt khó khăn như Quảng Bình để tỉnh thành lập quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp theo Quyết định 177/QĐ-TTg (30/08/1999) của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để giải quyết chính sách đối với người lao động và thanh toán các khoản nợ phải trả đối với trường hợp thu tiền bán, cho thuê, khoán kinh doanh không đủ chi trả các khoản nói trên. - Cần bổ sung, hoàn thiện một số chính sách để đẩy mạnh bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước Nghị định 103/1999/NĐ-CP, 49/2002/NĐ-CP (24/2/2002) và các thông tư hướng dẫn của các Bộ chuyên ngành đã tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê. Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện đã xuất hiện một số vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện, cụ thể là: - Về chi phí thực hiện quá trình giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nên quy định theo tỷ lệ % trên cơ sở giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sẽ hợp lý hơn và đảm bảo được nguồn chi trả, vì nếu quy định trên cơ sở giá trị thực tế của doanh nghiệp như hiện nay thì bao gồm cả tiền vay, mà đã vay thì phải trả nên không thể dùng để chi cho việc giao, bán… - Cần xem xét lại quy định việc sử dụng tiền bán doanh nghiệp. Hiện nay theo quy định tại Nghị định 103/NĐ-CP thì tiền bán doanh nghiệp được sử dụng chung cho cả hai trường hợp là "thanh toán nợ có bảo đảm và nợ đến hạn" là chưa chính xác. Nên quy định việc sử dụng này cụ thể cho từng hình thức bán doanh nghiệp. Nếu bán tài sản doanh nghiệp thì tiền bán có thể dùng để trả cho các chủ nợ (kể cả nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn) để giải quyết quyền lợi cho người lao động, còn nếu chỉ bán phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì tiền bán sẽ không phải dùng để trả nợ vì người mua đã kế thừa nghĩa vụ trả nợ. - Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động, song cần quy định rõ tập thể những người lao động tự nguyện thực hiện nghị quyết đại hội công nhân viên chức ít nhất phải chiếm tỷ lệ là bao nhiêu trong tổng số lao động của doanh nghiệp. - Cần mở rộng loại hình doanh nghiệp thuộc diện bán, khoán, cho thuê. Chúng bao gồm cả đơn vị trực thuộc doanh nghiệp, bộ phận của doanh nghiệp nhà nước. Có thể chia tách doanh nghiệp để bán, khoán hoặc cho thuê, mục đích của việc này là cải tạo và hiện đại hóa từng bước những bộ phận riêng rẽ để có thể bán, khoán, và cho thuê một cách có hiệu quả, dễ dàng. Những bộ phận nào dễ dàng hiện đại hóa, tổ chức lại hoặc có chủ đầu tư muốn mua, nhận khoán hoặc cho thuê trước thì có thể tiến hành trước. - Cần mở rộng đối tượng doanh nghiệp được bán, khoán, cho thuê theo Nghị định 103/1999/NĐ-CP. Đối với doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng, không nhất thiết là kinh doanh thua lỗ lâu dài, không có khả năng khắc phục, mới được thực hiện giao, bán, khoán và cho thuê. Đối với những doanh nghiệp thua lỗ kéo dài, nhưng có vốn nhà nước trên sổ sách trên 5 tỷ đồng không áp dụng một trong các hình thức theo Nghị định 103/199/NĐ-CP được thì nên phân loại và xử lý các khoản lỗ để giảm vốn trên sổ sách tại doanh nghiệp đến dưới 5 tỷ đồng để có thể áp dụng được một trong các hình thức chuyển đổi sở hữu tại nghị định này. - Cần chuyển cơ chế giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê sang thực hiện đấu thầu bán doanh nghiệp (bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất, vườn cây, rừng trồng) gắn với điều kiện đảm bảo việc làm cho người lao động và đảm bảo môi sinh. - Về trình tự thủ tục bán, khoán, kinh doanh hoặc cho thuê doanh nghiệp nhà nước, trên cơ sở quy định của Nghị định 103/1999/NĐ-CP và các Nghị định có liên quan khác của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể hơn quy trình thực hiện bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Trong văn bản, cần nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn giúp ủy ban nhân dân tỉnh. 3.3.5. Đẩy mạnh và thực hiện tốt việc chuyển đổi sở hữu theo hình thức cổ phần hóa doanh nghiệpn nhà nước Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn, trong quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh những năm qua, các giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình thời gian tới, cụ thể là: - Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thực hiện cổ phần hóa. Trong cổ phần hóa cho phép thực hiện linh hoạt, đa dạng các hình thức bán cổ phiếu để thực sự thu hút vốn của các cá nhân, tổ chức ngoài doanh nghiệp nhằm tăng thêm nguồn lực phát triển cho doanh nghiệp, nếu thời gian đầu chưa thu hút được nhiều người mua cổ phiếu thì nhà nước có thể giữ lại một số cổ phần nhất định và phát hành tiếp khi có đủ điều kiện; tỉnh cũng cần phải có chính sách ưu đãi cụ thể, đồng thời chỉ đạo các Sở, ban ngành quan tâm tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. - Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: + Mở rộng đối tượng cổ phần hóa bao gồm cả các doanh nghiệp có quy mô lớn và các nông lâm, trường quốc doanh; thu hẹp đối tượng nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ. Nhà nước chỉ công bố các danh mục các doanh nghiệp cần nắm giữ 100% vốn còn lại thực hiện đa dạng hóa sở hữu bằng nhiều hình thức khác nhau theo lộ trình. + Bổ sung giá trị hữu hình và vô hình, giá trị quyền sử dụng đất và giá trị vườn cây, rừng trồng vào giá trị doanh nghiệp để thực hiện việc bán cổ phần. + Đổi mới phương thức bán cổ phiếu theo hướng: xóa bỏ quy định doanh nghiệp trực tiếp bán cổ phiếu, chuyển việc bán cổ phiếu cho một tổ chức tài chính trung gian, việc thực hiện bán cổ phiếu phải thực hiện qua hình thức đấu thầu để bảo đảm giá trị thực của doanh nghiệp; xóa bỏ việc bán cổ phiếu ưu đãi theo giá sàn qua cơ chế hội đồng định giá. Người lao động được dành 30% số cổ phiếu bán ra để mua với giá ưu đãi (nhỏ hơn hoặc bằng 50% giá giao dịch) và bỏ quy định sau 3 năm mới được bán ra. + Nên có cơ chế ưu tiên đối với lao động trẻ, nhất là những người đã qua đào tạo khi tham gia lao động được mua một số lượng cổ phần nhất định với giá giá bán ưu đãi nhằm khuyến khích, thu hút ngày càng nhiều đội ngũ tri thức trẻ vào làm việc trong các công ty cổ phần. - Cần đổi mới hai vấn đề ảnh hưởng trực tiếp làm cho quá trình cổ phần hóa trong thời gian vừa qua diễn ra chậm đó là quy trình cổ phần hóa và phương pháp định giá doanh nghiệp cổ phần hóa: + Cải tiến cổ phần hóa quy trình cổ phần hóa sao cho bớt hình thức nhưng vẫn giữ được vai trò kiểm soát của Nhà nước. Trong việc cụ thể hóa các công đoạn để tổ chức thực hiện cần căn cứ vào tình hình thực tế của từng doanh nghiệp của tỉnh, không nhất thiết phải qua tất cả các công đoạn, nhưng phải đảm bảo tính chặt chẽ. + Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, cải tiến phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần theo hướng đảm bảo nhanh, gọn, bảo toàn được tài sản, tiền vốn của nhà nước. Tiến đến quy định cụ thể các phương thức đánh giá doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế. Sử dụng các dịch vụ đánh giá thay thế việc đánh giá của các cơ quan quan chức năng nhà nước nhằm xác định chính xác, khách quan giá trị doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa. - Hình thành bộ máy chuyên trách thực hiện công tác cổ phần hóa doanh nghiệp ở tỉnh. + Trên cơ sở hoạt động của Ban đổi mới, phát triển doanh nghiệp và tổ chuyên viên giúp việc tỉnh. Tỉnh nên có kiến nghị với Ban đổi mới doanh nghiệp Trung ương để xin hình thành riêng một bộ phận công tác chuyên trách trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh chuyên thực hiện các công việc, nhiệm vụ có liên quan đến công tác sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh trong đó bao hàm cả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. + Cần sớm hình thành các cơ quan tư vấn với những chuyên gia giỏi về cổ phần hóa để tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt tất cả các công đoạn trong tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. - Xây dựng kế hoạch tổng thể về cổ phần hóa trên địa bàn tỉnh. Cần tiến hành cổ phần hóa có trọng tâm, trọng điểm, xác định đối tượng và trình tự tiến hành cổ phần hóa. Nội dung chương trình bao gồm: + Xác định số doanh nghiệp mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, số doanh nghiệp cần chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác. + Xác định tổng số doanh nghiệp cần tiến hành cổ phần của từng ngành, lĩnh vực, trong đó, số doanh nghiệp cổ phần mà Nhà nước cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt… + Xây dựng lộ trình cổ phần hóa cho từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn cụ thể. - Quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước trong và sau cổ phần. 3.3.6. Đổi mới kịp thời công tác quản lý đối với các doanh nghiệp mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn nhà nước thuộc tỉnh quản lý 3.3.6.1. Đổi mới công tác quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích Để đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng cho các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh ngày một tốt hơn, các biện pháp quản lý áp dụng đối với các doanh nghiệp loại này là: - Doanh nghiệp cần củng cố tổ chức bộ máy quản lý, điều hành tinh gọn hiệu quả. Nâng cao vai trò trách nhiệm và quyền lợi của lãnh đạo, cán bộ quản lý và người lao động từ đó để nâng cao hiệu quả xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. - Về cơ chế tài chính, cần chuyển từ cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích sang cơ chế quản lý hoạt động công ích, trên cơ sở đó cần xem xét thực hiện một số nội dung sau: Để nâng cao hiệu quả hoạt động công ích cần áp dụng hình thức đấu thầu: trừ những sản phẩm, dịch vụ trực tiếp phục vụ cho an ninh, quốc phòng và một số sản phẩm đặc thù đòi hỏi kỹ thuật cao như kiểm đinh kỹ thuật phương tiện giao thông đường bộ, còn các sản phẩm, dịch vụ thông thường ở tỉnh như quản lý môi trường, hạ tầng đô thị, duy tu bảo dưỡng cầu đường bộ… đều phải thực hiện thông qua đấu thầu. Giá sản phẩm dịch, vụ công ích phải được xây dựng trên cơ sở các định mức kinh tế, kỹ thuật, lao động bảo đảm các đơn vị thực hiện bù đắp được chi phí sản xuất và có mức lãi hợp lý. Đối với những sản phẩm, dịch vụ không qua đấu thầu thì giá do nhà nước xây dựng được lấy làm cơ sở để Nhà nước ký hợp đồng với doanh nghiệp, còn đối với sản phẩm, dịch vụ thực hiện đấu thầu thì giá này được làm cơ sở đấu thầu. Cơ chế ứng vốn và thanh toán sản phẩm, dịch vụ công ích phải dựa vào tính chất của từng loại sản phẩm, dịch vụ công ích, có thể cho ứng trước 50% (hoặc một tỷ lệ thích hợp) trên giá trị sản phẩm, dịch vụ đã thực hiện để đảm đủ vốn cho doanh nghiệp hoạt động từ đó giảm bớt phần vay vốn ngân hàng và các đối tượng khác nhằm giảm chi phí cho doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích cần được ưu đãi về tín dụng như được vay vốn ưu đãi của Nhà nước để đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích, được vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không cần tài sản thế chấp để thực hiện việc sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích. - Về phương thức quản lý, cần đổi mới phương thức giao nhiệm vụ, phương thức cấp phát tài chính, phương thức tiêu thụ sản phẩm theo hướng: thúc đẩy cạnh tranh, thực hiện xã hội hóa, nâng cao hiệu quả phục vụ xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Về chính sách, cần bổ sung hoàn thiện chính sách theo hướng: coi trọng và khuyến khích hoạt động công ích, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công ích, tăng cường quản lý nhà nước đi đôi với nâng cao tính chủ động sáng tạo và quyền tự chủ cho doanh nghiệp 3.3.6.2. Đổi mới công tác quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh Để thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời nâng cao được hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, cần thực hiện một số các biện pháp sau: - Cần có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần và nâng cao trách nhiệm đối với cán bộ quản lý, nhất là giám đốc doanh nghiệp, cơ chế tuyển chọn đội ngũ giám đốc doanh nghiệp kế cận cũng như bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giám đốc doanh nghiệp đương nhiệm để có đủ năng lực, trình độ lãnh đạo doanh nghiệp trong cơ chế mới, xử lý nghiêm minh và kịp thời trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp nhà nước trong trường hợp để doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát vốn tài sản của Nhà nước. - Tiếp tục thực hiện cơ chế trích thưởng và cấp lại theo một tỷ lệ nhất định tính trên số thuế nộp vượt kế hoạch đối với những doanh nghiệp hoàn thành vượt mức kế hoạch ngân sách tỉnh giao nhằm khuyến khích, đồng thời tạo thêm nguồn lực tài chính để các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh - Cần ban hành các tiêu chí và chế tài buộc doanh nghiệp phải hạch toán chính xác và báo cáo trung thực tình hình tài chính cũng như kết quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra nhằm nắm bắt chính xác tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh cũng như phát hiện và ngăn chăn kịp thời các sai phạm có thể xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Về lao động, cần khẩn trương áp dụng chính sách hỗ trợ số lao động dôi dư cho doanh nghiệp, từng bước hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ lao động đáp ứng được yêu cầu quản lý cũng như từng phần việc trong doanh nghiệp; giao quyền quyết định cho doanh nghiệp trong việc tuyển chọn lao động, chịu trách nhiệm bố trí và phân công công tác, được quyền chủ động trả lương theo năng suất và hiệu quả lao động. - Cần có cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các giao dịch tín dụng nhằm thu hút vốn đầu tư có thể thực hiện thông qua thị trường vốn, thị trường chứng khoán hay các hình thức tín dụng thương mại khác. Đối với tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ thì cho phép doanh nghiệp doanh nghiệp đánh giá lại tài sản theo giá thực tế và coi như vốn tự có của doanh nghiệp để tiếp tục khấu hao, hình thành nguồn vốn tái đầu tư. Nếu doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu thì giá trị tài sản này được xác định là vốn tự có để tính ưu đãi cho người lao động tham gia mua cổ phần. 3.3.7. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước Đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là hàng ngũ giám đốc là một trong các yếu tố quan trọng để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên phải thừa nhận rằng ở Quảng Bình chưa có những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi theo cơ chế thị trường, vì vậy việc tổ chức đào tạo có tính hệ thống cho đội ngũ cán bộ này là cực kỳ quan trọng. Hàng năm, các doanh nghiệp phải lên kế hoạch chủ động bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp để từng bước có được đội ngũ cán bộ quản lý giỏi đáp ứng yêu cầu quản lý doanh nghiệp trong cơ chế thị trường; về phía tỉnh cần có sự phối hợp thường xuyên với các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, Trung tâm đạo tạo tổ chức các khóa học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ quản lý cũng như các kiến thức cập nhật về kinh tế, tài chính cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp trên toàn tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện đổi mới doanh nghiệp nhà nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, việc tuyển chọn giám đốc cũng là yêu cầu bức xúc hiện nay không chỉ ở Quảng Bình mà còn là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các doanh nghiệp trên phạm vi cả nước. Cơ chế bổ nhiệm, đề bạt như hiện nay là không có hiệu quả, do đó cần có cơ chế tuyển chọn giám đốc theo hình thức thi tuyển; định kỳ sau 2-3 năm có đánh giá theo tiêu chuẩn và kết quả công việc thực tế, phân loại, biểu dương, nâng bậc lương, đối với giám đốc kinh doanh giỏi; những giám đốc không đáp ứng yêu cầu thì thay thế. Đồng thời cũng cần có chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người có tay nghề cao, trình độ chuyên môn giỏi, đóng góp nhiều cho doanh nghiệp để họ gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. 3.3.8. Tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, chuyển đổi hoạt động có hiệu quả Các doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hóa cũng như chuyển đổi sở hữu qua các hình thức giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp ở Quảng Bình nhìn chung có quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn hẹp, vì thế việc vay vốn đầu tư để đổi mới thiết bị, công nghệ gặp nhiều khó khăn (do không có tài sản để thế chấp khi vay vốn), mặc dù Chính phủ đã có quy định doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần được vay vốn không phải thế chấp song thủ tục để được vay vốn vẫn rất phiền hà, các tổ chức tín dụng cho vay vẫn yêu cầu phải thế chấp. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi cần thực hiện một số vấn đề sau: - Về phía nhà nước phải hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp về hành lang pháp lý, môi trường đầu tư và ban hành đồng bộ các chính sách tài chính, tín dụng, thuế… theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Về phía tỉnh ngoài chế độ chung do Nhà nước ban hành thì bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các doanh nghiệp hoạt động, tỉnh cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư, chính sách đào tạo, thu hút lao động đối với các doanh nghiệp theo các mục tiêu, các chương trình phù hợp với khả năng của ngân sách và tình hình cụ thể của tỉnh. Kết luận Sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta; đồng thời cũng là một vấn đề có tính thời sự cấp bách, có ý nghĩa lý luận lâu dài đối với việc đổi mới, phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập hiện nay. Trong quá trình đó vừa phải nâng cao, giữ vững được vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước lại vừa tạo ra động lực để thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, góp phần tạo nên sự tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế, thực hiện được các mục tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đề ra. Chính vì vậy, đề tài: "Các giải pháp thúc đẩy quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Bình hiện nay", đã tập trung nghiên cứu các nội dung sau: 1. Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và các hình thức sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước; phân tích cả về mặt lý luận và thực tiễn về sự cần thiết phải sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế hiện nay. 2. Từ thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực trạng sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Bình trong thời gian qua, luận văn đã đi sâu phân tích những kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại, vướng mắc và các nguyên nhân dẫn đến tồn tại đó. 3. Trên cơ sở các định hướng, giải pháp lớn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các mục tiêu, nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước của tỉnh trong thời gian tới, luận văn đã tập trung đề xuất các phương án sắp xếp, đổi mới cho từng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, đồng thời đưa ra các giải pháp, kiến nghị có tính khả thi cho việc thực hiện. Sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là một vấn đề hoàn toàn mới đang trong quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, nguồn tài liệu và kinh nghiệm về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp không nhiều. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài không tránh khỏi hạn chế và thiếu sót nhất định. Quá trình chỉ đạo và thực tiễn sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước sẽ phát sinh nhiều vấn đề mới cần nghiên cứu để giải quyết, tháo gỡ kịp thời. Do đó các giải pháp được nêu ra trong đề tài chỉ là những đề xuất ban đầu, cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tế của việc đổi mới, phát triển để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước nói chung và ở Quảng Bình nói riêng trong giai đoạn tới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docmuc luc.doc
  • docMuc luc - bang.doc
  • docMuc luc - phu luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
  • docBia-ThS.doc
  • xlsCac phu luc kem theo luan van.xls
  • doccam doan.doc
Tài liệu liên quan