mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Phân hoá giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia tăng và nới rộng khoảng cách là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường. Đặc biệt ở nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đó nghèo lại càng không thể tránh kỏi. Theo số liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có trên 3,2 triệu hộ nghèo đói, với khoảng trên 15 triệu người nghèo đói. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ng
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp tạo lập & sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hèo đói, nhưng phải kể hơn cả, là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn.
Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên văn đàn kinh tế. Giải quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong các năm qua, tuy đã có khá nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người nghèo nhưng thực trạng mà đánh giá, vốn chuyển tải đến với người nghèo chưa được bao nhiêu và hiệu quả sử dụng chưa cao. Một số công trình nghiên cứu và luận cứ khoa học gần đây đã làm sáng tỏ khá nhiều vấn đề lo vốn cho người nghèo; cung cấp được nhiều tư liệu bổ ích tạo luận cứ cho việc đổi mới chính sách vốn đối với người nghèo. Tuy vậy, nhìn tổng thể và trước những yêu cầu đặt ra thì quả thực còn nhiều mặt cần được đề cập để đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc hỗ trợ vốn làm ăn tới người nghèo ở nước ta.
Vì vậy bằng kiến thức còn hạn chế của mình và được sự hướng dẫn giúp đỡ của Thạc sĩ Đặng Ngọc Đức em lựa chọn nghiên cứu đề tài : "Giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta" .
2. Mục đích nghiên cứu của luận án.
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản : kinh tế thị trường và tính tất yếu nghèo đói trong nền kinh tế thị trường, vốn cho người nghèo và cơ chế sử dụng trong nền kinh tế thị trường về mặt lý luận cũng như thực trạng ở nước ta thời gian qua mà tác giả đúc rút và đưa ra các giải pháp về vốn giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận án lấy vấn đề vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nước ta để làm đối tượng nghiên cứu. Giới hạn phạm vi nghiên cứu trong thời gian quá độ chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta. Có một số dẫn liệu ngoài nước để chắt lọc và điều kiện trong nước.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Chuyên đề sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử có kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực chứng và các phương pháp khác của nghiên cứu khoa học kinh tế.
- Chương 1 : Vốn hỗ trợ giảm nghèo đói trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta,
- Chương 2 : Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta thời gian vừa qua - Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho người nghèo vay vốn,
- Chương 3 : Các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo ở nước ta,
phần 1
vốn hỗ trợ giảm nghèo đói trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta.
1.1. Kinh tế thị trường và những ưu, khuyết tật của nó - vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở Việt nam.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình độ cao, khi mà các quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở thành yếu tố chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của nền kinh tế và kể cả xã hội; và ở đây, quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được vận động tự do bởi thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh.
Như vậy, kinh tế thị trường về bản chất là kinh tế hàng hoá, song nó khác với kinh tế hàng hoá là ở chỗ :
Một là, trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ đóng vai trò là vật ngang giá chung, các chức năng vốn có của tiền chưa thể phát huy một cách đầy đủ. Trong khi đó, với nền kinh tế thị trường, tiền tệ đã xuyên suốt mọi mối quan kinh tế và cả xã hội; hay nói cách khác, kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ.
Hai là, trong nền kinh tế hàng hoá, lợi nhuận chưa phải là mục đích tối thượng của hoạt động kinh tế mà người ta quan tâm hàng đầu là giá trị của nó. Ngược lại, trong nền kinh tế thị
trường, lợi nhuận là mục tiêu tối thượng của hoạt động kinh tế, còn giá trị là động cơ của hoạt động kinh tế đó mà thôi.
Ba là, trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường chỉ mới xuất hiện trong phạm vi thị trường hàng hoá là chủ yếu, các loại thị trường khác chưa được phát triển hoặc mới chỉ hình thành ở dạng sơ khai. Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, ngoài thị trường hàng hoá thì còn có thị trường lao động, thị trường tài chính tiền tệ, ...
Trong nền kinh tế thị trường những vấn đề cơ bản của sản xuất, kinh doanh đều được quyết định dựa trên quan hệ thị trường giữa người mua và người bán. Để sản xuất trong nền kinh tế thị trường phải giải quyết được 3 vấn đề, đó là : sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. ở đây, việc sản xuất cái gì được xác lập căn cứ vào nhu cầu của xã hội thông qua thị trường. Vấn đề sản xuất như thế nào, được giải quyết có hiệu quả thông qua sức ép cạnh tranh trên thị trường. Và cuối cùng, sản xuất cho ai cũng được giải quyết thông qua sự vận động của các hình thức giá trị (tạo thành sức mua) theo những quy luật kinh tế khách quan của thị trường.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến tự do cạnh tranh. Đó là động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế phát triển. Có thể nói, kinh tế thị trường đồng nghĩa với tự do phát triển kinh tế, quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường là quan hệ độc lập bình đẳng, thuận mua vừa bán. Luận đề này đã được nhận rõ thông qua lý thuyết "bàn tay vô hình" và cơ chế thị trường tự điều chỉnh của A.Smith. Theo ông, kinh tế thị trường là nền kinh tế có cơ chế điều tiết cạnh tranh tự do dựa trên nền tảng sở hữu tư nhân. Bởi vậy, bất kỳ một sự can thiệp nào của Nhà nước mà tác động làm méo mó cơ chế cạnh tranh tự do đó, đều là lực cản sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, cùng với phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường, học thuyết "bàn tay vô hình" của A.Smith không phải hoàn toàn thông đồng bén giọt như dự đoán của ông. Việc đó bắt đầu tự hiện tượng thị trường phản lại người tiêu dùng và có người đã gọi đó là những "thất bại thị trường". Quả thực như vậy, trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường, tự nó đã tiềm chứa khả năng phá vỡ cân bằng chính cơ chế của nó. Nền sản xuất tư nhân tự do hoá đến mức độ mãnh liệt đã phát sinh khuynh hướng dẫn đến độc quyền. Đến lượt nó, trong quá trình vận hành lại nẩy sinh lực cản tiến trình phát triển của nền kinh tế. Nguy hiểm từ độc quyền đã đẩy mâu thuẫn của hệ thống kinh tế tư nhân tự do hoá đạt tới trạng thái gay gắt hơn. Để khắc phục khuyết điểm đó, các nhà kinh tế đã chỉ ra rằng, bên cạnh tác động của "bàn tay vô hình", nhất thiết phải có một "bàn tay hữu hình" là Nhà nước để can thiệp vào các quá trình kinh tế. Điều đó, ngày nay đã được tham chiếu tính khả dụng của nó trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường tại nhiều nước trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng.
Với Việt nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài đặc trưng của kinh tế thị trường thế giới, nền kinh tế thị trường Việt nam có một số đặc trưng riêng sau :
Thứ nhất, phải khẳng định ngay rằng kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bao gồm : kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân. ở đây cần nhấn mạnh thêm, kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo; mặt khác kinh tế Nhà nước không có nghĩa là chỉ có những doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước cấp mà còn phần góp vốn của Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hoá và doanh nghiệp thuộc mô hình kinh tế tư bản Nhà nước.
Thứ hai, các yếu tố thị trường chưa được phát triển hoàn hảo mà đang từng bước được hình thành và hoàn thiện, tạo môi trường cho mỗi thành phần kinh tế đều phát triển trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước, song đặc trưng cạnh tranh tiềm ẩn đang có xu hướng ngày càng mở rộng.
1.1.2. Những ưu điểm và khuyết tật của kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Những ưu điểm.
Có thể nói, kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá lịch sử nhân loại. Quả thật, trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế thị trường đã phát huy đến mức cao nhất mọi tiềm năng, tiền vốn, công nghệ để sản xuất một cách có hiệu quả cao. Với tư cách đó, nó chứa đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó. Phải kể hơn cả là các ưu điểm sau :
Một là, kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập là tạo khả năng chủ động lựa chọn mô hình sản xuất kinh doanh khả dĩ; nếu xét tổng quát nền kinh tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và từng cá nhân tăng lên.
Hai là, kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao động xã hội tăng lên, theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá nền sản xuất và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên.
Ba là, kinh tế thị trường với tư cách nền kinh tế "mở" năng động, tự nó đã bao hàm sự hoà nhập giữa các địa phương, các nước và các khu vực khác nhau.
Bốn là, cơ chế thị trường với mục đích tối thượng là lợi nhuận trong mọi hoạt động kinh tế, theo đó tự thân đã thúc đẩy sản xuất mạnh mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi vì, để giải quyết được 3 vấn đề (như đã đề cập ở trên) trong sản xuất của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh tế (và cả nền kinh tế) phải : tăng cường cải tiến kỹ thuật, công nghệ; tìm cách tối ưu hoá hệ thống tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh; sản xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm kể trên, kinh tế thị trường tuyệt nhiên không phải là một công cụ vạn năng để giải quyết hữu hiệu tất cả mọi vấn đề của nền kinh tế, mà kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong nó không ít khuyết tật.
1.1.2.2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Một là, cơ chế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi nhuận, chủ thể kinh tế chỉ quan tâm hiệu quả sản xuất thuần tuý như "người dùng chanh chỉ biết vắt hết nước" thì có thể gây ra một hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội lâu dài. Điều này đã minh chứng rõ khi con người khai thác tài nguyên, chặt cây, phá rừng đến một mức như huỷ diệt thì sự trả giá không nhỏ tý nào từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đang bị huỷ hoại dần.
Hai là, sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến độc quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân lũng đoạn nền kinh tế theo hướng thu lợi riêng quá mức trên những tổn hại chung của xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa, là tự phát) là nguồn gốc tự nhiên, trực tiếp của tình trạng phân hoá giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội và có khi dung dưỡng các tệ nạn xã hội.
Đối với nước ta, nền kinh tế vận hành từng bước theo cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp và cá nhân có tài năng, tiền vốn, kỹ thuật làm ăn có hiệu quả được khuyến khích làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, cạnh tranh nẩy sinh trong cơ chế thị trường có thể dẫn đến những hiệu quả xấu, nếu không có sự điều tiết của "bàn tay hữu hình" là Nhà nước; cạnh tranh đã dẫn đến tìm mọi mánh khoé làm ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua", thậm chí "cá lớn nuốt cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa gạt, triệt tiêu lẫn nhau đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh như thế, một số giàu lên nhanh chóng, song cũng không ít rơi vào làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế bị kìm hãm và thất nghiệp, phân hoá thu nhập, giàu nghèo cũng một phần có nguồn gốc từ đây.
Từ những luận đề phân tích trên cho thấy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại hai thái cực : một bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển; một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, xã hội và phân hoá đời sống các tầng lớp dân cư cộng đồng. Để thúc đẩy mặt tích cực, đồng thời hạn chế được mặt tiêu cực, không ngoài ai khác, phải có vai trò điều tiết của Nhà nước. Chính điều này đã được nhận rõ tại luận đề cơ bản trong học thuyết kinh tế hiện đại của J.M.Keynes. Theo ông, Nhà nước cần tham gia vào quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường với tư cách là yếu tố nội tại quan trọng của nó. Lý thuyết của Keynes đã tạo dựng một cách nhìn mới và quan niệm mới về nhận dạng một nền kinh tế thị trường hiện đại. Một nền kinh tế thị trường hiện đại không phải là nền kinh tế thị trường tự do, mà phải là nền kinh tế có điều tiết (và phải điều tiết) của Nhà nước.
1.1.3. Vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường.
Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không đủ khả năng điều chỉnh, khắc phục những khuyết tật do nó gây ra. Đó là lý do cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình vận hành của hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn phát triển của nó. Đương nhiên, sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn nữa được thể hiện trên các chức năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận chức năng của Nhà nước thông qua các vấn đề sau.[24]
Một là, với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các quá trình kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ công cụ chính sách này, có thể kể đến như : chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách phát triển nông thôn, chính sách xóa đói giảm nghèo, ...
Hai là, Nhà nước tạo lập và duy trì một hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực hiện chức năng này, Nhà nước có thể hạn chế những tiêu cực trong hoạt động kinh tế - xã hội do cạnh tranh tự phát hoăc độc quyền gây ra.
Ba là, với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự phát triển của xã hội thì Nhà nước không thể không có chức năng định hướng phát triển kinh tế để hướng hoạt động thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục tiêu theo hướng đã chọn. Bởi vì, đứng trên quan điểm vĩ mô dài hạn, chỉ có sự can thiệp của Nhà nước thông qua các định hướng phát triển hợp lý và có giải pháp để thực hiện chúng thì nền kinh tế mới có thể phát triển đạt hiệu quả cao và lâu bền.
Thứ tư, để nền kinh tế thị trường vận hành một cách bình thường, phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội cần thiết như : giao thông, điện, nước, bưu chính viễn thông, dịch vụ tài chính và ngân hàng, ... Do khu vực kinh doanh với quy tắc cạnh tranh, không muốn và không thể cung cấp các hàng hoá công cộng này một cách hiệu quả. Bởi vậy, thuộc loại hàng hoá này, Nhà nước phải có chức năng cung cấp cho toàn xã hội. Hàng hoá công cộng được Nhà nước tạo ra, duy trì nó từ nguồn tài chính công và các nguồn khác mà Nhà nước quy định.
Thứ năm, Nhà nước có chức năng điều tiết phân phối thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Đây không chỉ là chức năng kinh tế mà cả chức năng xã hội của Nhà nước. Vậy tại sao Nhà nước phải duy trì chức năng này? Điều đó được giải thích bởi : bên những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường còn phát sinh ra nhiều vấn đề xã hội to lớn cần được giải quyết; tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng về tài sản và thu nhập nếu không có sự hạn chế bằng điều tiết của Nhà nước thì nó ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã hội, mới đủ khả năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công cụ chính sách của mình. Ví dụ : cho người nghèo vay vốn với lãi suất thấp, trợ cấp khó khăn cho các vùng thiên tai từ ngân sách dự phòng của Chính phủ, chế độ bảo hiểm cho người già và neo đơn, ... Tuy nhiên, sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào tính hữu hiệu của các công cụ chính sách đề ra. Song trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì tác động của Nhà nước để đạt tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được, nếu không muốn nói đó là "giấc mơ". Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (như ở nước ta) thì tình trạng thất nghiệp và đói nghèo vẫn luôn bám chặt trong "cơ thể" xã hội. Tỷ lệ đói nghèo gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ hạn chế có kết quả khi có "bài thuốc đủ liều" của Nhà nước.
1.2. Cơ chế sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường, các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói và định hướng các biện pháp xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
1.2.1. Cơ chế sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường.
Khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường, thì việc quan niệm lại về vốn và sử dụng vốn được đặt ra như một tất yếu khách quan. Cơ chế bao cấp đã không tạo ra mối quan hệ giao lưu vốn trong nền kinh tế quốc dân; vốn không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả, không có nơi giao dịch và mua bán trên thị trường. Chế độ cấp phát vốn và bao cấp lãi suất vốn tín dụng đã che khuất và làm "méo mó" bản chất kinh tế của phạm trù vốn; làm cho đồng vốn bị hao hụt, thất thoát và thu hẹp dần nguồn vốn ban đầu. Tình trạng vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh luôn căng thẳng nhưng một bộ phận vốn khác lại bị "đóng băng" hoặc "bất động" không được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, tình hình đã đổi khác. Vốn được xem là điều kiện tiên quyết và "chìa khoá" cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Thị trường là nơi giao lưu vốn, và là nơi để vốn bộc lộ đầy đủ bản chất và vai trò của nó. Trong quá trình vận động trên thị trường, vốn đã tạo ra khả năng sinh lời. Sinh lời của vốn vừa là mục đích sản xuất kinh doanh, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục chu chuyển ở kỳ tiếp theo. Nền kinh tế thị trường với bản chất của nó đã không cho phép một đồng vốn nào "nằm im" mà không được sinh lời và tăng trưởng. Rõ ràng muốn vậy, mỗi đồng vốn trong nền kinh tế thị trường phải có chủ thực sự. Người chủ sở hữu vốn khác với người chủ sở hữu hàng hoá là ở chỗ, họ không bán quyền sở hữu mà bán quyền sử dụng. Giá "bán" vốn trong nền kinh tế thị trường chính là lãi suất tiền vay. Việc mua bán vốn được diễn ra trên thị trường vốn, nơi gặp gỡ giao thoa giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Trung gian cho sự giao lưu vốn là các kênh dẫn vốn được thiết lập do yêu cầu của thị trường vốn.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến sự đoạn tuyệt phương thức cấp phát và cho không vốn. Không phải như nền kinh tế kế hoạch hoá bao cấp trước đây, việc làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp đều được Nhà nước bao cấp, các chủ thể vay nợ không đủ khả năng chi trả được xoá nợ, khoanh nợ. Nền kinh tế thị trường buộc mọi đồng vốn phải được bảo toàn và thương mại hoá, việc làm ăn thua lỗ thì trước hết trách nhiệm thuộc về chủ thể đó. Chính yêu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường đã dẫn đến hai thái cực : những chủ thể sử dụng vốn đạt lợi nhuận tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất; những chủ thể sử dụng vốn làm ăn thua lỗ dẫn đến hao hụt vốn, thậm chí không còn vốn sản xuất dẫn đến phá sản. Đây là nguyên nhân tạo ra hố sâu ngăn cách và phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Từ khi chuyển ngân hàng sang kinh doanh thực sự và chấm dứt bao cấp vốn ngân sách cho các doanh nghiệp đã buộc các doanh nghiệp quan tâm hơn hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời Nhà nước có thêm nguồn vốn để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng và thực hiện các mục tiêu, chương trình quốc gia. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, có những hoạt động kinh tế - xã hội, tự nó đòi hỏi sự điều chỉnh của Nhà nước mới có thể đáp ứng được nhu cầu vốn. Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ vốn cho khu vực này. Nhưng hỗ trợ này không thể bằng cách : một là, buộc ngân hàng - một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phải cho vay không lấy lãi hoặc lãi quá thấp; hai là, ngân sách Nhà nước tiếp tục bao cấp là nghịch lý với nền kinh tế thị trường - mọi đồng vốn ở đó phải được bảo toàn và sinh lời. Bởi vậy, chỉ bằng cách, vốn cho hoạt động của khu vực nói trên phải được đáp ứng từ chính sách tài trợ phát triển của Nhà nước. Tài trợ cho phát triển không chỉ cần thiết ở nước ta mà nó đã tồn tại ở bất cứ một quốc gia nào có nền kinh tế thị trường. ở đây chúng ta cần nhận thức rằng, tài trợ phát triển của Nhà nước không có nghĩa là nguồn tài trợ chỉ xuất ra từ túi ngân sách Nhà nước. Nếu như vậy, sẽ đạp vào "vết bánh xe đổ" là tiếp tục bao cấp của ngân sách Nhà nước cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Sự tài trợ ở đây cần được hiểu theo một nghĩa rộng hơn nhiều : Nhà nước bằng các công cụ, chính sách để tạo nguồn tài trợ, không những từ nguồn ngân sách mà hợp các nguồn trong nền kinh tế và cộng đồng cho mục tiêu tài trợ; mặt khác, Nhà nước phải có cơ chế chính sách đảm bảo môi trường thuận lợi cho tiếp nhận nguồn tài trợ đó. Có như vậy, tài trợ phát triển mới được mở rộng và thực hiện có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta.
1.2.2. Sự tồn tại khách quan của đói nghèo trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Cho dù, phát triển là một thách thức cấp bách trước loài người và nhờ phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng trưởng, song hiện nay vẫn vòn có hơn một tỷ người, chiếm 1/5 dân số thế giới đang sống dưới mức mà Mỹ và châu Âu đã đạt được cách đây khoảng hai thế kỷ. Đặc biệt đối với nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn, lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, thậm chí trầm trọng và gay gắt. So với bình quân thế giới có tỷ lệ nghèo đói tập trung ở nông thôn 76% thì nước ta điều đó lại càng cao hơn, chiếm khoảng 90%[38]. Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ sáu đến nay, nhất là từ sau khi có Nghị quyết 10, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp đạt được kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời sống người nông dân và kinh tế nông thôn nước ta dần đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên, thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất hàng hoá, tất yếu dẫn đến phát triển không đồng đều giữa các hộ mà trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp. Tình trạng đói nghèo không còn chỉ là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và có xu hướng gia tăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay cả những vùng đô thị, tình trạng thất nghiệp do thiếu vốn và điều kiện làm ăn đã và đang làm phát sinh một bộ phận không nhỏ hộ gia đình nghèo túng. Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội ngày một nới rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ chế thị trường đã
trở nên giàu có. Song bên cạnh đó không ít người do nhiều nguyên nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo đói. Đảng ta khởi xướng mục tiêu "xã hội công bằng, văn minh", bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau của Nhà nước để những vùng nghèo, dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới sự công bằng nhất định trong xã hội. Song sự tác động của Nhà nước không bao giờ đạt được như mong muốn. Tình trạng nghèo đói ở nước ta vẫn tồn tại, thậm chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt.
Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa, toàn thế giới coi giải quyết vấn đề nghèo đói như một chiến lược toàn cầu. Với nỗ lực thường xuyên, các nhà lãnh đạo các quốc gia đang phát triển đều muốn giảm hố sâu ngăn cách giàu - nghèo trong xã hội. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tại Copenhagen-Đan mạch tháng 3/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã tuyên bố rõ : "Chúng tôi cam kết thực hiện mục tiêu xoá bỏ đói nghèo trên thế giới, thông qua các hành động quốc gia kiên quyết và hợp tác quốc tế, coi đây như một đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, chính trị và kinh tế của nhân loại".
Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta, không chỉ là đòi hỏi về mặt xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo đức) mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì, nền kinh tế không thể tăng trưởng một cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo đói khá đông.
Xét về mặt dài hạn giảm nghèo đói là một mục tiêu xã hội, song đến lượt nó, khi vấn đề xã hội ổn định đã tạo điều kiện đẩy nhanh phát triển kinh tế. Cho nên có thể nói rằng, thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói đều bao hàm trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Điều này được luận chứng bằng sức thuyết phục cao độ : Đảng và Nhà nước ta đã xem mục tiêu giảm nghèo đói ở nước ta là một trong mười một mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2000.
1.2.3. Những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói.
Phải nói ngay rằng đói nghèo là sản phẩm của "tồn tại" xã hội và đói nghèo không phải là tác phẩm của người nghèo.
Có người cho rằng : "Đói nghèo là sự phủ nhận mọi quyền con người". Quả thật, mỗi người sinh ra đều có một tiềm năng vô tận nhưng người nghèo ít có cơ hội sử dụng chúng; họ bị hoàn cảnh xã hội xô đẩy và chịu cảnh cực nhọc hơn người khác.
Nếu xét về nguồn gốc thì đói nghèo do nhiều nguyên nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp tức thì nhưng cũng có nguyên nhân chỉ là tác nhân gián tiếp gây ra nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi" nguyên nhân gây nghèo đói, phải kể đến các nguyên nhân sau :
1.2.3.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn.
Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo vượt khỏi ngưỡng nghèo đói. Do không đáp ứng đủ vốn, nhiều người rơi vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày nhưng nguy cơ đói nghèo vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm ăn nên họ chậm đổi mới tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản xuất cổ truyền, không áp dụng kỹ thuật mới để tăng năng suất làm cho sản phẩm sản xuất kém hiệu quả. Thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn là một lực cản lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải thiện đời sống của hộ gia đình nghèo.
1.2.3.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác lại ít.
Mặc dù đã có một cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế hoạch nhưng nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tỉ lệ sinh đẻ giảm xuống không đáng kể; thậm chí có nơi không giảm và tiếp tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến trong một hộ gia đình người làm thì ít mà người ăn lại tăng do đó thu nhập bình quân thấp - nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn, hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên nên sản lượng thu hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống - đó cũng là một nguyên dẫn đến nghèo đói.
1.2.3.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm (thất nghiệp).
Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến đói nghèo. Đặc biệt, đối với các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng hành với sự nghèo đói. Nói như vậy không có nghĩa là, tình trạng thiếu việc làm trở thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở nông thôn. Mà, thiếu việc làm theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn là mối đe doạ một bộ phận hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo đói. Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằng các nghề phụ ở nông thôn nếu được giải quyết sẽ làm tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu sẽ giảm nghèo đói.
Đối với nước ta, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay giả định một định hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì khuyết tật của cơ chế thị trường, tự nó không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện rất gay gắt. Ngay trên thị trường sức lao động, nếu như trước đây, con người sinh ra hầu như đã được đảm bảo về việc làm, thì ngày nay, muốn có việc làm phải qua cạnh tranh. Những người không có khả năng cạnh tranh (do sức khoẻ, tàn tật, già yếu, thiếu kiến thức, ...) chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng không có lối thoát, và những người "gặt hái" chiến bại trong cạnh tranh cũng phải chịu đựng cuộc sống bấp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất nghiệp, nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên nhân gây nghèo đói cho gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội.
Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói. ở nước ta, để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng thì giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội luôn nằm trong chương trình nghị sự của Chính phủ.
1.2.3.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ.
Sức khoẻ kém và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo thường có mối quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn, đói rách làm cho sức khoẻ suy giảm; ngược lại, sức khoẻ kém và thiếu sức lao động là nguyên nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người không đủ sức lao động, thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn ra. Đến lượt nó, khi nghèo đói đã ngự trị thì không thể cải thiện được sức khoẻ tốt hơn. Cái vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải giải quyết cả hai vấn đề là : giảm nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải thiện sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt đối với những người thu nhập thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và bảo đảm xã hội có vai trò quyết định. Đối với nước ta, cùng với những thắng lợi trong công cuộc cải cách, mạng lưới y tế đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên khi chi ngân sách cho y tế bình quân đầu người giảm xuống, dịch vụ y tế chuyển dần sang hình thức bảo hiểm thì việc khám chữa bệnh của người nghèo, gia đình gặp khó khăn đang đứng trước một thách thức, báo hiệu sự xuống cấp sức khoẻ của một bộ phận dân cư cộng đồng. Đặc biệt đối với y tế cơ sở trực tiếp người dân không thể hoà nhập với cơ chế thị trường dẫn đến chất lượng y tế ngày một giảm xuống - việc củng cố mạng lưới y tế thuận lợi nhất cho người nghèo còn nhiều khó khăn.
1.2.3.5. Nguyên nhân do chế độ giáo dục và các yếu tố văn hoá.
ã Chuyển sang cơ chế thị trường, kinh phí ngân sách Nhà nước không thể bao cấp mãi cho sự nghiệp giáo dục. Chế độ kinh phí giáo dục đang từng bước chuyển sang thu một phần từ đóng góp học phí, các khoản góp khác của học sinh. Nhiều gia đình có thu nhập thấp sẽ gặp khó khăn trong việc chu cấp cho con cái tới trường. Một nhóm gia đình rơi vào hai trường hợp : một là, đành cho con bỏ học; hai là, giảm chi tiêu cho con đi học. Cả hai trường hợp đều là nguyên nhân dẫn đến nghèo đói cho nhóm gia đình này.
ã Những khác biệt về văn hoá của nhóm các dân tộc thiểu số cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Chẳng hạn, do đặc điểm sinh sống du canh và du cư của các dân tộc miền núi xa xôi hẻo lánh nên bộ phận cộng đồng dân cư này thường chịu cảnh thiếu ăn, đói rách. Mặc dù có nhiều chính sách của Nhà nước để cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc vùng cao, vùng sâu song sự chênh lệch mức sống giữa miền núi và miền xuôi vẫn nới rộng khoảng cách, ít có khả năng khắc phục nhanh được.
1.2.3.6. Nguyên nhân do hạ tầng cơ s._.ở nông thôn được cải thiện chậm.
ã Do hậu quả chiến tranh kéo dài, phần lớn đường sá nông thôn bị tàn phá và xuống cấp, giao thông nông thôn thiếu nguồn kinh phí để cải thiện. Việc thực hiện phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước đã có tác động tích cực, tăng chủ động trong thu - chi ngân sách của địa phương, song việc phân cấp này cũng gây nhiều khó khăn cho các địa phương nghèo trong việc đảm bảo nguồn ngân sách xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn. Trong khi mạng lưới hạ tầng nông thôn (như đường sá, chợ búa, dịch vụ nông nghiệp, ...) đóng vai trò tác động tích cực cải thiện đời sống dân cư nông thôn thì chưa thể đáp ứng. Cơ hội làm ăn của nhiều vùng nông thôn miền núi không cải thiện được do vị trí địa lý gặp khó khăn.
ã Cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận cung cấp. Song vị trí hợp tác xã nông nghiệp ngày nay đã và đang hạn chế khả năng này bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác xã nông nghiệp ngày nay thiếu kinh phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp, cho dù họ có thu phí. Hạ tầng cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các vùng khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm và kênh mương thuỷ lợi chưa đáp ứng nên một số vùng ngập lụt, mất mùa thường xuyên xẩy ra. Vì vậy những vùng này thiếu ăn bốn mùa và triền miên năm này qua năm khác.
1.2.3.7. Một số nguyên nhân khác.
ã Bất kỳ một xã hội nào cũng đều tồn tại một nhóm người lười nhác lao động và có thói hư tật xấu khác như rượu chè, cờ bạc, ... Bởi tật xấu là yếu tố nội sinh vốn có của con người. Nó chỉ được hạn chế bằng quá trình nhận thức, rèn luyện của mỗi con người và sự tác động tích cực của môi trường xã hội. Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta thì các thói hư, tật xấu lại có nhiều cơ hội phát sinh trong cộng đồng xã hội. Rượu chè, cờ bạc và lười nhác lao động là con đường đã dẫn một nhóm người trong cộng đồng đi đến phá sản cơ nghiệp, chấp nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau đớn hơn, nó còn là sự huỷ hoại ghê gớm đạo đức, nhân văn của con người và ám ảnh sự sợ hãi cho toàn xã hội.
ã Trong sản xuất, kinh doanh hoặc trong cuộc sống do nhiều rủi ro bất khả kháng đã dẫn một số người đến nợ nần, đói rách. Nhóm người này cần được cộng đồng cưu mang và trợ giúp để vượt khỏi hẻm nghèo đói.
ã Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do Đảng ta khởi xướng, những năm qua Nhà nước đã có nhiều chính sách để từng bước giảm nghèo đói. Nhiều chương trình, dự án đều chung mục tiêu hướng tới hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện để người nghèo cải thiện cuộc sống. Không ai có quyền phủ nhận những kết quả đã đạt được của Nhà nước và toàn xã hội trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo mấy năm gần đây. Song cũng phải thừa nhận rằng, nhìn một cách tổng thể hiệu quả các chương trình xoá đói giảm nghèo đạt được chưa nhiều, chưa tương xứng với khả năng của Nhà nước và toàn xã hội. Điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân cốt lõi, các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ. Đặc biệt, chưa thực hiện được chính sách xã hội hoá trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.
1.2.4. Định hướng biện pháp xoá đói giảm nghèo.
1.2.4.1. Nhận thức về đói và nghèo.
Để giải quyết vấn đề nghèo đói, trước hết cần phân biệt một cách tương đối giữa hiện tượng đói và hiện tượng nghèo. Bởi vì, nếu không có một giới hạn trong nhận thức này sẽ có sự nhầm lẫn trong biện pháp xử lý xoá đói giảm nghèo. Quả thực, có sự phân biệt giữa đói và nghèo xét về sự tác động chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Nếu giải quyết được vấn đề nghèo thì chúng ta loại trừ được nguyên nhân sâu xa của vấn đề đói. Bởi vậy, nhận thức về xoá đói giảm nghèo, trước hết phải xem là giảm nghèo. Tuy nhiên, cần thấy rằng đói rách chưa hẳn hoàn toàn đều do nghèo gây ra cả. Một số trường hợp đói rách do thiên tai hoả hoạn, do sa cơ lỡ vận, do tâm thần bất định đã bám chặt với đói rách, ăn mày. Sự tồn tại đói rách của bộ phận người này dường như một tất yếu khách quan của mọi xã hội, xẩy ra ở bất kỳ nước nào dù là nước giàu có. Chỉ bằng cứu tế của Nhà nước và cộng đồng mới có thể giúp đỡ được họ.
1.2.4.2. Định hướng biện pháp giải quyết giảm nghèo.
Trong những năm của thập kỷ 70, số người nghèo đói ở Đông á từ 400 triệu đã giảm xuống còn 180 triệu, hiện nay tỉ lệ đói nghèo ở các nước này chỉ còn khoảng 10%. Trong khi đó ở Mỹ la tinh còn 25%, ở châu Phi còn 50%.[1] Thành công này một phần xuất phát từ sự lãnh đạo chính trị tuân theo nguyên tắc tăng trưởng kinh tế. Theo các nhà lãnh đạo các nước Đông á, thì điều quan trọng nhất là phải thuyết phục được các lực lượng kinh tế mạnh nhất ủng hộ chính sách chia sẻ các lợi ích có được do tăng trưởng giữa tầng lớp thu nhập cao với tầng lớp dân cư nghèo. Họ cho rằng, phải có một cơ chế và biện pháp rõ ràng để xác định rằng mọi người đều có phần của mình trong sự thịnh vượng của đất nước trong tương lai, khi đó nghèo đói đã giảm đến mức thật lý tưởng.
Nhiều nước đã thực hiện biện pháp khác nhau, rất đa dạng để giải quyết vấn đề nghèo đói. Có thể dẫn chứng một số nước : Inđônêsia sử dụng chính sách giá phân bón và thóc gạo để tăng thu nhập cho nông dân, Hàn quốc và Đài loan sử dụng chính sách cải cách ruộng đất tổng hợp, Hồng công thực hiện chương trình lớn về nhà ở, Malaysia áp dụng chương trình chia sẻ lợi nhuận, chỉ có Phi líppines thì kết quả thật đáng thất vọng trong khi đó nghèo đói đã trở về chuyện quá khứ ở Singapore. Như vậy, vấn đề xoá đói giảm nghèo là vấn đề rất khó giải quyết ở nhiều quốc gia nhưng không phải là với tất cả.
Việt nam với "lợi thế của người đi sau" sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm các nước trên thế giới (đặc biệt các nước khu vực) trong việc thực hiện chiến lược xoá đói giảm nghèo. Nhiều mục tiêu, chương trình của Việt nam hướng tới giảm dần nghèo đói tỏ ra bắt đầu hiệu nghiệm. Song suy cho cùng, chiến lược xoá đói giảm nghèo của Việt nam cũng không nằm ngoài chiến lược giải quyết nghèo đói của thế giới là làm cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng nhanh hơn để giảm mạnh tình trạng nghèo đói. Tuy nhiên, đặc thù quá độ chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết giảm nghèo đói nhanh hơn. Các biện pháp giảm nghèo đói hướng theo ba nội dung :
Thứ nhất, cải cách các hệ thống tài chính và luật pháp để tạo ra môi trường thuận lợi cho nền kinh tế thị trường và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ hai, đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong nhiều khu vực, đặc biệt đối với nông thôn miền núi và các vùng nghèo để tạo điều kiện tăng năng suất lao động và tiếp cận với thị trường.
Thứ ba, hỗ trợ vốn tín dụng cho các hộ nghèo, vùng nghèo nói riêng và nông nghiệp, nông thôn nói chung tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập.
Xét về lâu dài thì biện pháp giảm nghèo đói phải đạt tới sự đảm bảo một mạng lưới an toàn xã hội cần thiết như người thất nghiệp trong khu vực nhà nước phải có trợ cấp, người nghèo neo đơn phải được tập trung vào trung tâm bảo trợ nuôi dưỡng, đảm bảo cho người nghèo có chỗ ở tối thiểu, chữa bệnh từ thiện cho người nghèo và người gặp khó khăn, trẻ con suy dinh dưỡng phải được chăm sóc, vv...
Xét về bản chất, ngoại trừ biện pháp thiết lập thể chế để tạo môi trường thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì hai biện pháp còn lại, để thực hiện đều phải xuất phát từ vốn. Vốn hỗ trợ giảm nghèo đói có thể được thực hiện trên hai phương thức : hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo và phương thức đầu tư vào nền kinh tế - xã hội để qua đó có tác động giảm nghèo đói.
1.3. các phương thức hỗ trợ vốn giảm nghèo trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta.
1.3.1. Một số vấn đề tổng quan về vốn và nguồn vốn.
1.3.1.1. Khái niệm vốn.
Trong bộ Tư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua phạm trù tư bản. Theo Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư qua quá trình vận động của nó (T- H - SX - H' - T').
Trong nền kinh tế thị trường, quan điểm của Mác cần hiểu như sau :
Thứ nhất, tư bản là giá trị. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị nhất định.
Thứ hai, vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Tức là chỉ lượng giá trị nào sau quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh đem lại giá trị thặng dư mới được gọi là vốn. Lượng giá trị "nằm im" và "bất động" không tạo ra giá trị thặng dư không thể gọi là vốn.
Từ sự nhận thức như trên, ta có thể đưa ra khái niệm tổng quát về vốn như sau :
Vốn là một lượng giá trị tài sản xã hội (tài sản hữu hình và tài sản vô hình) được dùng vào đầu tư kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh tế và xã hội.
1.3.1.2 Các đặc trưng của vốn.
Trong nền kinh tế thị trường vốn có 4 đặc trưng sau đây:
Một là, vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản hiện vật (như nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng,...) được đưa vào sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Trường hợp này ta gọi là vốn hiện vật.
Hai là, vốn được biểu hiện bằng tiền (tiền giấy nội tệ và ngoại tệ, tiền vàng, các chứng chỉ có giá trị như tiền) được đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời nó. Ta gọi là vốn tài chính.
Ba là, vốn không chỉ được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình như vốn hiện vật, tiền, nhân lực (gọi là vốn hữu hình) mà vốn còn bao gồm cả giá trị của những tài sản vô hình chẳng hạn như chất xám, phát minh, giá trị nghệ thuật, ... (gọi là vốn vô hình).
Bốn là, vốn là hàng hoá đặc biệt được đưa vào lưu thông trên thị trường vốn. Trong quá trình lưu thông, vốn sinh lời (T - T'), vì vậy vốn phải đưa vào lưu thông và cần phải tạo môi trường cho lưu thông vốn (thị trường tiền tệ, thị trường tài chính).
Năm là, do phương thức chu chuyển, vốn có thể chia ra thành hai loại khác nhau : vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn là vốn có mục đích sử dụng trên 1 năm hay còn gọi là vốn đầu tư.
1.3.1.3. Các loại nguồn vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, dù dưới góc độ nào thì nguồn vốn được hình thành từ một trong hai nguồn : nguồn vốn tài chính và nguồn vốn tiềm năng :
1.2.1.3.1. Nguồn vốn tài chính.
Bao gồm nguồn tiết kiệm trong nước và nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
ã Nguồn vốn hình thành từ tiết kiệm trong nước bao gồm các khoản tiết kiệm của ngân sách Nhà nước, các doanh nghiệp và dân cư.
- Tiết kiệm của ngân sách Nhà nước được hình thành trong hai trường hợp. Một là, hình thành từ bội thu ngân sách Nhà nước; hai là, nguồn vốn từ nguồn chi ngân sách Nhà nước sau khi đã trừ đi các khoản chi dùng, có thể tiết kiệm thành nguồn vốn đầu tư.
- Tiết kiệm của doanh nghiệp Nhà nước là nguồn tiết kiệm quan trọng cho đầu tư nền kinh tế quốc dân, giảm gánh nặng cho tăng chi ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, nhìn chung số doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có lãi, tạo ra tích luỹ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Vì vậy cùng với đổi mới kinh doanh, vấn đề quyết định để doanh nghiệp Nhà nước tạo ra tích luỹ cho đầu tư là phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Tiết kiệm của doanh nghiệp tư nhân chủ yếu bao gồm tiết kiệm từ thu nhập sau thuế khi đã thực hiện phần trả lợi tức cổ đông. Ngoài ra do không thực hiện chế độ nộp khấu hao tài sản cố định như doanh nghiệp Nhà nước nên xu hướng các doanh nghiệp tư nhân tự trích khấu hao để tiết kiệm cho tái đầu tư ngày một lớn.
- Tiết kiệm của dân cư : Tuy thu nhập dân cư ở nước ta đang ở giai đoạn thấp, mới chiếm chưa đến 8% trong tổng GDP nhưng do nhiều yếu tố tác động (ý thức, tâm lý, mục đích tiết kiệm) nên nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư vẫn khá lớn. Theo ước tính của một số chuyên gia kinh tế, con số tiết kiệm này hiện nay ở nước ta không dưới 2 tỷ USD. Để huy động nguồn tiết kiệm này chúng ta phải có một chính sách với nhiều hình thức và công cụ huy động vốn phù hợp - kích thích dân cư giảm tiêu dùng để tăng tiết kiệm và huy động cho đầu tư toàn xã hội.
Cho dù tiết kiệm của khu vực Nhà nước hay khu vực tư nhân, muốn tăng nguồn tiết kiệm phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
ã Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam, hiện nay gồm các loại chủ yếu sau :
- Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp.
- Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
- Nguồn viện trợ không chính khác.
1.3.1.3.2. Nguồn vốn tiềm năng.
Trong cơ chế thị trường ở nước ta đất ở không được bán quyền sở hữu nhưng được bán quyền sử dụng đất. Vì vậy đất ở cũng được xem như là một hàng hoá. Nguồn nhân lực cũng là một nguồn vốn tiềm năng to lớn ở nước ta hiện nay. Nguồn nhân lực là một bộ phận trong độ tuổi quy định có khả năng lao động. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, do quy luật tự phát tìm kiếm việc làm để có thu nhập, đội ngũ nhân lực tự do hoặc ngoài khu vực doanh nghiệp phát triển ngày một gia tăng. Đây là yếu tố tạo tăng áp lực cần giải quyết việc làm cho toàn xã hội. Ngoài những nguồn vốn tiềm năng nói trên, thì khoa học công nghệ cũng là nguồn vốn vô hình tác động lớn đến mọi quá trình phát triển xã hội.
1.3.2. Vốn cho người nghèo và phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo.
1.3.2.1. Đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo.
Ngoài những đặc điểm chung của vốn trong nền kinh tế thị trường, thì vốn hỗ trợ cho người nghèo thể hiện rõ các đặc điểm riêng sau :
ã Vốn hỗ trợ cho người nghèo luôn gắn liền với sự rủi ro và mất vốn. Có người đã nói rằng "cấp vốn cho người nghèo là cấp sự rủi ro". Quả thực, ông cha ngày xưa cũng đã có câu "tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống", đa số người nghèo do sử dụng vốn trong hoàn cảnh túng quẫn và bị động nên hiệu quả sử dụng thường không đạt theo ý muốn của họ. Thậm chí "nóng tay bắt rái tai" do thiếu đói, người nghèo đã biến vốn hỗ trợ thành nguồn vốn cứu tế tức thì cho bản thân họ. Mặt khác, nếu rủi ro mất vốn, họ thường rơi vào tình trạng "trắng tay" nợ nần, khó tìm ra nguồn vốn để bù đắp ngoài sự đảm bảo bằng thân xác đói rách, bần cùng.
ã Vốn hỗ trợ người nghèo cho dù được thực hiện bởi một phương thức nào (trợ cấp cứu tế, cho vay, cho mượn, ...) đều phải thể hiện tính tài trợ của Nhà nước và cộng đồng cho họ. Trường hợp không được cấp bằng cứu tế thì phải cho vay lãi suất thấp hơn so với thị trường. Tức là vốn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường phải thực thi vị trí phi thị trường. Song rõ ràng để Nhà nước làm được việc này là rất khó. Bởi vậy phải có trách nhiệm của cộng đồng để tạo ra nguồn vốn đảm bảo tính khả dụng cho người nghèo. Phải đa dạng nguồn vốn mới đáp ứng được nhu cầu vốn cho người nghèo. Hay nói cách khác đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn tổng hợp, đa dạng.
ã Tính sinh lời và tăng trưởng là đặc điểm của vốn trong nền kinh tế thị trường. Vốn hỗ trợ cho người nghèo cũng là một bộ phận cấu thành nguồn vốn của nền kinh tế thị trường, nên nó cũng phải được sinh lời và tăng trưởng. Để thực hiện được điều đó thì vốn hỗ trợ cho người nghèo phải chu chuyển do tác động của phương thức tín dụng. Song tín dụng cho người nghèo thực hiện theo cơ chế lãi suất thị trường là vấn đề chưa từng thấy trong lý thuyết nền kinh tế thị trường. Vậy thực chất vốn hỗ trợ cho người nghèo là phương thức tài trợ thể hiện tính chính sách trong nền kinh tế thị trường.
ã Để hỗ trợ vốn cho người nghèo có kết quả thì không chỉ hỗ trợ vốn bằng tiền (hoặc hiện vật qui ra tiền) mà còn hỗ trợ "vốn" kiến thức, việc làm, môi trường làm ăn và nhiều hỗ trợ khác. Bởi vậy, đặc điểm của vốn hỗ trợ người nghèo có sự vận động trong sự vận động ăn nhịp tổng thể các mối quan hệ kinh tế - xã hội khác.
1.3.2.2. Các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo.
Trung tâm của bất kỳ mô hình tài chính nào trong nền kinh tế thị trường cũng đòi hỏi hoạt động của những "kênh dẫn" mà thông qua đó, vốn của những tiết kiệm sẽ chuyển thành những khoản nợ của người sử dụng. Chính nhờ những "kênh dẫn" đó để thực hiện phương thức dẫn vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do nhiều loại mô hình tài chính khác nhau và đa dạng (kênh chính thức hoặc không chính thức) nên tính chất và hiệu quả của phương thức dẫn vốn cũng khác nhau.
Đối với vốn hỗ trợ cho người nghèo được thực hiện thông qua các phương thức như sau :
1.3.2.2.1. Phương thức hỗ trợ vốn từ nguồn tài trợ ngân sách Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là nguồn vốn quan trọng cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở nước ta. Đặc biệt trong cơ chế kế hoạch hoá bao cấp, thì ngân sách Nhà nước là nguồn vốn chủ yếu tài trợ trực tiếp cho người nghèo hoặc gián tiếp qua các mục tiêu kinh tế - xã hội có tác động đến với người nghèo.
Ngày nay, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, vốn ngân sách tài trợ cho người nghèo không những không thu hẹp lại mà còn yêu cầu lớn hơn nhưng tất yếu phải chuyển sang một hướng khác. Khi mà nguồn tài chính công chỉ đảm bảo hoạt động của các đối tượng hưởng thụ nguồn ngân sách Nhà nước, thì mọi khoản tài trợ cho phát triển cũng phải chuyển dần từ phương thức tài chính tài trợ không hoàn trả sang phương thức tài chính tài trợ có hoàn trả. Bởi vậy nguồn vốn hỗ trợ để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo từ ngân sách Nhà nước được chia ra 2 kênh : kênh tín dụng Nhà nước và kênh cấp phát trực tiếp từ ngân sách Nhà nước.
ã Sự ra đời của kênh vốn tín dụng Nhà nước và thực hiện cho vay vốn đối với mục tiêu xoá đói giảm nghèo nói riêng và các mục tiêu kinh tế - xã hội nói chung từ nguồn vốn của ngân sách Nhà nước đã thực hiện được tính bảo tồn, phát triển, sinh lời của tín dụng Nhà nước trong cơ chế thị trường. Chính tại đây đã đoạn tuyệt các quan niệm cổ điển, xem tín dụng Nhà nước chỉ duy nhất trần trụi là vay nợ để giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước. Thực chất sự tồn tại và phát triển kênh dẫn vốn này là để tạo ra một phương thức sử dụng vốn ngân sách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, phạm vi và phương thức tín dụng Nhà nước cho vay lãi suất thấp hay không thu lãi để thực hiện các mục tiêu hướng vào xoá đói giảm nghèo có thể đạt được hiệu quả cao hơn là một vấn đề cần được nghiên cứu, kiểm chứng trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta.
ã Trong nhiều trường hợp, không phải bao giờ người nghèo vượt được nghèo đói đều có sự hỗ trợ của nguồn vốn tín dụng Nhà nước - họ phải đi vay và trả nợ sòng phẳng. Những đói rách do rủi ro hoả hoạn, thiên tai, bệnh tật do khí hậu độc hại và nhiều nguyên nhân khác phải được trợ cấp cứu tế của Nhà nước. Mặt khác, giải quyết nghèo đói không phải chỉ người nghèo có vốn là làm được; mà phải có sự hỗ trợ, tác động từ nhiều phía của nhiều tác nhân khác. Những hoạt động mà qua đó tác động tăng mức sống cộng đồng trong đó có người nghèo, thậm chí người nghèo được lợi hơn là trách nhiệm của Nhà nước. Vốn hỗ trợ vào các chương trình này phải chi ra từ nguồn tài chính công. Rõ ràng như vậy, những hỗ trợ cho phát triển đã nói trên được thực hiện qua nguồn ngân sách Nhà nước và được cấp trực tiếp từ chi ngân sách Nhà nước các cấp.
1.3.2.2.2. Phương thức hỗ trợ từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng là kênh dẫn vốn quyết định, tạo nguồn vốn cho vay thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói. Chuyển sang kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường với khả năng tạo vốn của nó, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hoàn toàn có thể đáp ứng mọi nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Song tín dụng cho người nghèo là một loại hình tín dụng đặc thù, có nhiều rủi ro; với chức năng "vay để cho vay" buộc các ngân hàng thương mại không thể đáp ứng mọi nhu cầu vốn cho xoá đói giảm nghèo. Bởi vậy trước hết, cần xác định rằng, vốn tín dụng ngân hàng chỉ tài trợ trực tiếp giảm nghèo đói, chứ không phải được dùng để xoá đói. Xoá đói là trách nhiệm cứu tế của Nhà nước và cộng đồng. Mặt khác, thực hiện kinh doanh tiền tệ trong cơ chế thị trường ngân hàng phải thực hiện chính sách lãi suất thực dương để tự bù đắp được chi phí, có lợi nhuận và bảo toàn vốn; muốn vậy để tạo ra nguồn vốn cho vay hỗ trợ giảm nghèo đói phải có cơ chế huy động riêng trên cơ sở sự vươn lên của ngân hàng và có chính sách tạo điều kiện của Nhà nước. Kinh nghiệm các nước trên thế giới tổ chức một trung gian tài chính - ngân hàng thương mại dẫn vốn cho người nghèo đã thành công. ở nước ta, trên cơ sở ngân hàng phục vụ người nghèo đã hoạt động từ đầu năm 1996, khả năng và hiệu quả tập trung mọi nguồn vốn, quỹ giảm nghèo đói đã và đang được kiểm chứng. Mặt khác, với lợi thế, và kể cả trách nhiệm, hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra các kênh vốn hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo và cho các chương trình kinh tế, xã hội nhằm mục tiêu giảm nghèo đói.
1.3.2.2.3. Phương thức hỗ trợ từ nguồn quỹ tín dụng chính thức và phi chính thức.
Sự ra đời và phát triển các quỹ tín dụng chính thức và phi chính thức được cấu thành trong hệ thống tài chính vi mô là tất yếu khách quan không chỉ ở nước ta mà còn đối với nhiều nước quá độ sang kinh tế thị trường. Trong hệ thống này, các quỹ tín dụng chính thức được hoạt động với một thể chế tài chính có sự kiểm soát của Ngân hàng Trung ương. Các quỹ tín dụng không chính thức chưa có thể chế tài chính, hoạt động với những quy chế riêng. Tuy nhiên dù chính thức hoặc không chính thức, nó đều có vai trò thu hút các nguồn vốn để hỗ trợ giảm nghèo đói. Đáng kể trong kênh dẫn vốn này là hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ tương trợ phụ nữ, các quỹ dự án hỗ trợ người nghèo của các tổ chức phi Chính phủ.
Với phương thức, quy chế hoạt động khác nhau nên tác động hỗ trợ vốn giảm nghèo đói của mỗi kênh vốn cũng mức độ khác nhau. Đối với các quỹ tín dụng không chính thức, được xem là các dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo, hoạt động của nó gặp khó khăn bởi thiếu thể chế; song lợi thế thu hút được nguồn tài trợ phi Chính phủ, bởi xu hướng phù hợp của nguồn tài trợ không chính thức. Rõ ràng, đây là sự chứng minh cho luận đề đang được các học giả kinh tế ở nước ta đặt ra : cần phải thực hiện xã hội hoá, quốc tế hoá trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói.
1.3.2.2.4. Phương thức hỗ trợ vốn từ các nguồn của cộng đồng và tư nhân.
ã Nền văn hoá Việt nam đã hàm chứa trong nó truyền thống cộng đồng, tình làng nghĩa xóm, quê hương dân tộc của mỗi người dân nước ta rất sâu sắc. Đây là cơ sở hình thành các quỹ tương ái tương thân, lá lành đùm lá rách trợ giúp người nghèo, gia đình neo đơn của cộng đồng người Việt.
ã Tín dụng tư nhân hoạt động ngầm đã tồn tại lâu đời ở Việt nam, nhất là vùng nông thôn. Hình thức này có thủ tục vay trả đơn giản "thuận mua vừa bán", đáp ứng nhanh vốn cho người nghèo khi có nhu cầu, nhưng mức lãi suất quá cao (nặng lãi) đã đẩy một số người nghèo đến chỗ "bán lúa non" hoặc phá sản cơ nghiệp. Bởi vậy xét về bản chất thì kênh vốn này không có tác dụng hỗ trợ vốn giảm nghèo đói.
Tóm lại : Nội dung chương 1 nghiên cứu quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta đã và đang đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. Chính từ đây đã phát sinh chênh lệch về tài sản và thu nhập dẫn đến phân hoá giàu nghèo trong xã hội, đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước.
Tuy nhiên xét về mối quan hệ kinh tế - xã hội tổng thể thì nghèo đói ở nước ta do nhiều nguyên nhân dẫn đến. Song suy cho cùng nguồn gốc sâu xa của đói nghèo do cơ chế sử dụng vốn trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường quyết định. Thiếu vốn và kiến thức làm ăn trong nền kinh tế thị trường là nguyên nhân trực tiếp chủ yếu gây nền nghèo đói.
Để hỗ trợ vốn cho người nghèo sản xuất kinh doanh từng bước vượt ngưỡng nghèo đói, Nhà nước phải sử dụng nhiều phương thức tài trợ vốn khác nhau. Trong đó tài trợ bằng phương thức cho vay có hoàn trả cả gốc và lãi được xác định là hữu hiệu hơn cả. Tuy nhiên Nhà nước cũng không thể đoạn tuyệt phương thức tài trợ cấp phát để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói mà phải coi đây như sự tồn tại tất yếu.
Chương 2
Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta thời gian vừa qua - Kinh nghiệm một số nước trên Thế giới
cho người nghèo vay vốn.
2.1. Tình hình đói nghèo và hỗ trợ vốn cho người nghèo thời gian vừa qua ở nước ta.
2.1.1 Tình hình đói nghèo ở nước ta.
Kiểm điểm 10 năm đổi mới, báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ : "Sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh. Đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn".
Hiện nay kinh tế hộ ở nước ta hình thành nên ba nhóm rõ nét: [30]
- Nhóm thứ nhất, khoảng 15 - 20% hộ đã vươn lên làm ăn khá giả đại diện cho sức sản xuất mới đang phát triển ở nông thôn.
- Nhóm thứ hai, khoảng 55 - 65% hộ thuần nông đủ ăn, nếu được đắp ứng đủ vốn họ có thể vươn lên khá giả, ngược lại, có thể dẫn đến đói nghèo.
- Nhóm thứ ba, khoảng 20 - 25% hộ đói nghèo do nhiều nguyên nhân : thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm làm ăn, neo đơn, cô quả, bệnh tật, hoạn nạn, lười nhác lao động, cờ bạc, rượu chè, ...
Biểu số 1 : Tình hình nghèo đói ở Việt nam
Đơn vị tính : %
Các vùng
Hộ nghèo
Hộ đói
Số hộ nghèo đói
1. Miền núi phía Bắc
2. Đồng bằng Sông Hồng
3. Khu bốn cũ
4. Duyên Hải miền Trung
5. Tây nguyên
6. Đông Nam Bộ
7. Đ.B Sông Cửu Long
28,81
15,86
26,36
19,64
34,68
13,90
18,48
5.15
2,67
5,05
4,14
7,68
3,03
5,38
33,96
18,53
31,41
23,78
42,36
16,93
23,86
Toàn quốc
17,65
5,22
22,87
Nguồn : [8]
Số liệu biểu số 1 cho thấy tổng số hộ nghèo đói ở nước ta chiếm 22,87%. Trong đó hộ nghèo 17,65%, hộ đói 5,22%. Tỷ lệ hộ nghèo đói giữa các khu vực cũng có sự chênh lệch khác nhau; vùng núi tỉ lệ hộ nghèo đói cao hơn vùng trung du và vùng trung du, ven biển tỉ lệ hộ nghèo đói cao hơn vùng đồng bằng. Riêng vùng Đông Nam bộ có tỷ lệ hộ nghèo đói thấp nhất, nguyên nhân chính do lợi thế phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này làm cho đời sống dân cư cao hơn.
Theo số liệu điều tra công bố của Ngân hàng thế giới, ở Việt nam có khoảng 59% dân số được xét vào loại nghèo. Trong đó cơ cấu nghèo đói ở nông thôn là 57%, cao hơn gấp hai lần so với vùng đô thị (27%), khoảng 90% trong tổng số người nghèo tập trung ở vùng nông thôn. [38]
Sự khác nhau giữa số liệu công bố của nước ta so với thế giới nói trên là do sử dụng các phương pháp thống kê với các chuẩn mực khác nhau giữa nước ta so với thế giới.
ở Việt nam, đến nay chưa có một định nghĩa xác đáng về hộ nghèo. Theo công văn số 3266 LĐ-TBXH ngày 29/8/1995 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố, thì hộ gia đình ở thành thị được gọi là hộ nghèo khi thu nhập thực tế bình quân đầu người quy ra gạo dưới 25 kg, dưới 20 kg gạo đối với nông thôn đồng bằng và trung du và dưới 15 kg gạo đối với nông thôn miền núi. Đây là chuẩn mực làm căn cứ để xét cho vay hỗ trợ vốn sản xuất theo chương trình xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Khái niệm hộ nghèo là những khái niệm hết sức tương đối và chỉ phù hợp trong những điều kiện nhất định. Khái niệm này ở mỗi quốc gia khác nhau cũng không giống nhau.
Vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua chủ yếu từ các kênh sau :
Một là, hệ thống tài chính Nhà nước các cấp hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo với các nội dung :
- Ngân sách trợ cấp hỗ trợ khắc phục thiên tai, hoả hoạn.
- Ngân sách trợ cấp các vùng nghèo, xã nghèo để xây dựng hạ tầng xã hội, trợ cấp bù giá các mặt hàng cho miền núi.
- Các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu mà thông qua đó, tác dụng của nó cải thiện đáng kể tình hình đói nghèo.
Hai là, hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và đô thị, các hợp tác xã tín dụng và quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó Ngân hàng nông nghiệp Việt nam với 2.564 chi nhánh trực tiếp đến nông thôn là nòng cốt hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo.
Ba là, hệ thống kho bạc Nhà nước với 54 kho bạc tỉnh và trên 500 kho bạc cấp huyện thực hiện cho vay theo các chương trình của Chính phủ (chương trình theo Nghị quyết 120/HĐBT, theo quyết định 327/CP và quyết định 773/CP). Đối tượng vay vốn của chương trình không phải là hộ nghèo mà thông qua cho vay, các dự án để thu hút lao động và tăng thu nhập, trong đó cho một số hộ người nghèo.
Bốn là, các đoàn thể, hiệp hội và tổ chức xã hội với trên 75 tổ chức hoạt động theo mô hình khác nhau. Trong đó có nhiều tổ chức hoạt động tín dụng theo quy ước riêng của mình như : quỹ xoá đói giảm nghèo của Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, Hội nông dân Việt nam, ...
Năm là, các tổ chức quốc tế và cá nhân ngoài nước tài trợ thông qua các chương trình nhân đạo, giải quyết việc làm, thực nghiệm mô hình, ... Tài trợ này bao gồm cho vay có hoàn trả và có khoản cho không.
Sáu là, các doanh nghiệp tài trợ vốn cho các hộ nghèo thông qua các hình thức ứng trước vốn cho nông dân sản xuất và thu nợ bằng chính sản phẩm của họ.
Bảy là, các nhóm, tổ, phường, họ tương trợ tiết kiệm trong cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập và hỗ trợ vốn cho nhau làm ăn theo quy định riêng. Ngoài ra còn có các hoạt động tín dụng không chính thức khác của tư nhân hoạt động ngầm.
Các tổ chức dẫn vốn nói trên có đặc trưng chung là sử dụng phương thức tài chính tài trợ cấp phát hoặc tài chính tài trợ hoàn trả. Với phương thức tài trợ hoàn trả, các kênh dẫn vốn áp dụng thủ tục cho vay, phạm vi cho vay và mức lãi suất rất khác nhau, tuỳ theo tính chất nguồn vốn và quan điểm của tổ chức thực hiện dẫn vốn. Cách tiếp cận với người nghèo và quan điểm xử lý của các tổ chức ngoài khu vực tài chính Nhà nước và ngân hàng quốc doanh rất khác nhau. Có hình thức cho vay trực tiếp đến với người nghèo, có hình thức thông qua trung gian. Nhìn chung tài trợ vốn cho người nghèo chưa có cơ chế rõ ràng và thống nhất, tác dụng khuyến khích sử dụng vốn để giảm nghèo của thành viên vay vốn còn nhiều hạn chế, đang là nguyên nhân bất ổn định thị trường tài chính và tín dụng ở nước ta.
2.1.2 Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Mặc dù chưa đủ cứ liệu để tiên lượng một cách chính xác số vốn từ ngân sách Nhà nước và tình hình sử dụng nó cho mục tiêu giảm nghèo những năm gần đây ở nước ta. Song hiện nay kênh vốn tài trợ của ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo bao gồm : vốn giải quyết việc làm; vốn chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, kết hợp với định canh định cư; hỗ trợ các trung tâm đào tạo việc làm; các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ trợ phát triển nông thôn khác. Trong đó n._.ng đường xá, kênh mương thuỷ lợi, ... vừa thu hút được nguồn nhân lực nông thôn với chi phí tiền công thấp vừa tạo việc để tăng thu nhập cho nông dân nghèo vươn lên khỏi cảnh "treo hái là treo niêu". Cần xác định rằng, các dự án công cộng dùng nhiều lao động phổ thông được hình thành ở các đô thị là thị trường lớn hút nguồn lao động thất nghiệp theo mùa ở nông thôn tràn vào thành phố. Kinh nghiệm nhiều nước, hình thành các dự án công cộng đã thành công, bảo đảm việc làm cho bất kỳ ai cần việc làm (như dự án đảm bảo việc làm của ấn độ). Để các dự án này thành công cần có sự tham gia lựa chọn của cộng đồng địa phương, hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.
3.2.2.2. Vốn hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn để cải thiện khả năng tiếp cận thị trường cho người nghèo.
Ai cũng thừa nhận rõ rằng, những người nghèo nào tiếp cận được với cơ sở hạ tầng thì có khả năng hưởng lợi trong sản xuất kinh doanh do vị trí tạo sinh lời của nó. Bởi vậy, phát triển cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng của chính sách hỗ trợ giảm nghèo ở nông thôn, đặc biệt vùng cao, vùng sâu. Tuy nhiên một số đầu tư có thể có lợi cho người nghèo nhưng sự ưu tiên của nó có thể chậm lại. Chẳng hạn nếu xét về hiệu quả trực tiếp thì việc đầu tư có khả năng hoàn trả cao, thu hồi vốn nhanh sẽ được ưu tiên trước. Ngược lại, đầu tư hạ tầng cho các vùng nghèo sẽ thu hồi vốn chậm là điều trở ngại cho nhà đầu tư nếu không dựa trên mục tiêu giảm nghèo khi đánh giá dự án.
Vấn đề đặt ra, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói chung và theo đó có những ưu tiên các loại dự án mà người nghèo tiếp cận hiệu quả nhanh hơn là yêu cầu vốn cho sự phát triển, hơn nữa là sự ưu tiên phát triển đó. Hiện nay cơ sở hạ tầng nông thôn như đường sá, thuỷ lợi, trường học, trạm điện, ... đang được giao cho các địa phương chịu trách nhiệm, song những tỉnh, huyện và những vùng nghèo lại khó có thể thực hiện được chức năng của mình bởi thiếu vốn. Điều quyết định gỡ bí cho nó, không những thế mà cho cả khu vực nông thôn, cần đặt lên bàn cân mọi nguồn lực để khai thác và lựa chọn hiệu quả đầu tư trên các cơ sở sau :
ã Vốn ngân sách Nhà nước :
Do yêu cầu cân đối thu chi ngân sách Nhà nước trên địa bàn nên chi ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn thường có giới hạn. ở những tỉnh tự cân đối được ngân sách thường căn cứ vào tốc độ tăng huy động thuế và phí vào GDP để tăng chi cho đầu tư nông thôn trên cơ sở nhu cầu thực tế. Nhưng ở những tỉnh hưởng cân đối ngân sách Trung ương thì chi cho đầu tư nông thôn thường rất thấp, bị động so với nhu cầu thực tế. Thậm chí chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn tại huyện, xã có xu hướng đùn đẩy cho tỉnh đảm nhận. Giải pháp tăng thu, tiết kiệm chi của ngân sách địa phương để tăng chi đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn tỏ ra ít hữu hiệu đối với nhiều địa phương nghèo. Bởi vậy bài toán vốn ngân sách cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn cần giải theo các định hướng đề xuất sau :
Một là, ngân sách tỉnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn đối với các công trình lớn liên quan đến nhiều huyện, nhiều xã như hồ đập, trung tâm y tế, đường, giao thông liên huyện, các công trình lớn của vùng, của quốc gia theo sự uỷ quyền của Trung ương. Những công trình còn lại giao cho huyện và xã thực hiện trên nguyên tắc tự cân đối thu chi, tỉnh chỉ cấp hỗ trợ để phát huy khả năng nguồn vốn huy động của cơ sở.
Hai là, Trung ương cần giao nhiệm vụ thu chi ngân sách ổn định trong nhiều năm đảm bảo chủ động cho địa phương trong việc cân đối ngân sách địa phương nói chung và cân đối cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói riêng.
Ba là, kết hợp quản lý giữa ngành dọc và địa phương đối với các khoản kinh phí đầu tư cơ sở hạ tầng thông qua kinh phí uỷ quyền do các ngành dọc quản lý để tránh chi trùng lặp của và quản lý chặt chẽ hơn nguồn vốn ngân sách Trung ương.
Bốn là, quản lý chặt chẽ các khoản phụ thu, phí trên địa bàn xã để bổ sung đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn và phân cấp ngân sách xã quản lý.
Năm là, khai thác các nguồn vốn tiềm năng từ quỹ đất, quỹ tài nguyên để dựa vào cân đối ngân sách và đầu tư trở lại cho địa phương có nguồn thu để phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn.
Sáu là, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên trong việc sử dụng nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn các vùng khó khăn và nghèo.
ã Vốn huy động từ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân :
Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn hiệu quả thu hồi chậm và thấp nên để huy động các nguồn vốn khác ngoài nguồn vốn ngân sách cho lĩnh vực này phải quan tâm hai vấn đề. Một là, có sự khuyến khích các nhà đầu tư bao gồm trên các lĩnh vực : môi trường đầu tư thuận lợi, có bảo đảm để người đầu tư yên tâm bỏ vốn, thực hiện các hỗ trợ và ưu đãi về đầu tư. Hỗ trợ đầu tư bao gồm : hỗ trợ cơ sở vật chất, hỗ trợ để tạo điều kiện cho họ tăng vốn kinh doanh, hỗ trợ về chuyển giao công nghệ. Hai là, phải đa dạng các hình thức huy động vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân cho đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn mới khơi tăng được mọi nguồn lực tiềm tàng, sẵn có từng địa bàn cụ thể.
ã Vốn đi vay :
Vốn đi vay cho mục tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn chủ yếu là các nguồn dài hạn, lãi suất ổn định. Trong điều kiện nguồn vốn dài hạn từ kênh ngân hàng chưa thể đáp ứng, Nhà nước cần cho phép các tỉnh phát hành trái phiếu công trình địa phương để vay dân tạo nguồn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trái phiếu công trình địa phương được phát hành có sự bảo lãnh của Chính phủ hoặc ngân sách tỉnh.
Vốn nước ngoài đầu tư vào Việt nam hiện nay bao gồm các nguồn : viện trợ phát triển chính thức, đầu tư trực tiếp, nguồn tín dụng thương mại và nguồn tài trợ không chính thức khác. Song có hai nguồn sau đây có khả năng tăng đầu tư cho hạ tầng nông thôn.
- Viện trợ phát triển chính thức (ODA) : Là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại, nguồn cho vay lãi suất thấp hoặc cho vay không lãi. Đâylà nguồn vốn tài trợ có mục tiêu thực hiện các chương trình làm động lực cho cải cách kinh tế như đường quốc lộ, thuỷ điện, thuỷ lợi lớn, đường dây cao thế, ... Nguyên tắc sử dụng nguồn vốn này rất chặt chẽ, sử dụng đúng dự án tài trợ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có khả năng để hút nguồn đầu tư này cho phát triển hạ tầng nông thôn. Đặc biệt đối với khu vực miền núi và vùng nghèo bằng các chương trình và dự án như qui hoạch nông thôn, nước sạch nông thôn, ...
- Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) : Là nguồn vốn của tổ chức và cá nhân nước ngoài góp vốn đầu tư trực tiếp bằng hình thức liên doanh theo quy định của luật đầu tư. Trong 5 năm thực hiện chính sách mở cửa, nước ta đã thu hút được một khối lượng vốn FDI với tổng số vốn đăng ký 18 tỷ USD, đã thực hiện 5,796 tỷ USD. Trong đó thu hút vào lĩnh vực nông - lâm ngư xấp xỉ 4% tổng số vốn. Tuy nhiên để mở rộng hút vốn đầu tư FDI cho phát triển hạ tầng nông thôn và các vùng nghèo, chúng ta phải phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của Việt nam tạo ra môi trường thuận lợi, cởi mở để khuyến khích đầu tư nước ngoài.
- Ngoài hai nguồn vốn nói trên, chúng ta cũng cần tận dụng tối đa các nguồn tài trợ của các tổ chức phi Chính phủ và cá nhân ở nước ngoài tài trợ cho phát triển hạ tầng nông thôn thông qua các dự án và chương trình khác nhau.
3.2.2.3. Huy động và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo từ các quỹ của các tổ chức quần chúng hiệp, hội trong nước.
Hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện các mô hình tổ chức dịch vụ tài chính vi mô không chính thức để tài trợ vốn cho người nghèo như : quỹ hỗ trợ nông dân của Hội nông dân, quỹ tương trợ phụ nữ nghèo của Hội phụ nữ và một số quỹ khác. Song xét chung, có hai loại ý kiến sau đây :
Thứ nhất, loại ý kiến cho rằng, ra đời các kênh dẫn vốn nói trên làm tăng thêm sự lộn xộn của thị trường tình chính - tín dụng ở nông thôn nói chung và kênh dẫn vốn cho người nghèo nói riêng. Bởi nó đã làm phát sinh cho vay trùng lặp, chồng chéo, vốn cho vay chạy vòng vèo, ... và cuối cùng hiệu quả vốn tiếp cho người nghèo đạt hiệu quả thấp. Do đó cần xem lại sự tồn tại của nó.
Thứ hai, loại ý kiến cho rằng, phát triển các quỹ tạo nguồn vốn hỗ trợ nông dân nghèo và phụ nữ nghèo là đáp ứng sự đa dạng hoá các nguồn vốn, từ đó đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn cho người nghèo. Vì vậy sự phát triển của các quỹ này là phù hợp cần được nghiên cứu và xác định hướng hoàn thiện để nâng cao về mặt thể chế trong tương lai. Tôi đồng tình với loại ý kiến này. Bởi vậy xin đề xuất một số điểm nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo từ các quỹ nói trên như sau :
Đối với quỹ hỗ trợ nông dân :
Một là, Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế hoạt động đối với quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp chính sách tín dụng cho người nghèo trên cơ sở tham chiếu tính đặc thù hoạt động của Hội nông dân. Về hướng lâu dài, nếu đủ khả năng, cần chuyển nó trở thành dạng ngân hàng cổ phần nông thôn. Trước mắt, để củng cố hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện giúp đỡ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý quỹ này.
Hai là, phải xác định đối tượng cho vay nông dân nghèo là hộ. Hội nông dân phải kết hợp tốt với Ngân hàng người nghèo để phân vùng đối tượng cho vay, tránh cấp vốn chồng chéo. Mặt khác, quỹ hỗ trợ nông dân có thể kết hợp làm dịch vụ cho Ngân hàng người nghèo đối với các dự án nhỏ. Sự liên kết này sẽ cho phép giảm thiểu các chi phí trong vấn đề tiếp cận vốn tín dụng đến với nông dân nghèo.
Ba là, lãi suất cho vay đối với nông dân ngheo từ quỹ hỗ trợ nông dân phải quy định bằng mức lãi suất cho vay đối với hộ nghèo từ nguồn vốn của Ngân hàng người nghèo.
Bốn là, hoạt động của quỹ hỗ trợ nông dân phải được điều chỉnh trong một thiết chế kiểm soát của cộng đồng nông dân nghèo. Có như vậy mới đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững lâu dài của quỹ.
Năm là, để tăng nguồn vốn hoạt động, quỹ hỗ trợ nông dân cần thiết áp dụng mô hình nhóm nông dân tiết kiệm và vay vốn. Mặt khác mở rộng nguồn tài trợ thông qua hình thành các dự án phát triển nông thôn mới.
Về quỹ tương trợ phụ nữ nghèo :
Một là, để tạo nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài, Hội phụ nữ phải tích cực chủ động phối hợp với các tổ chức và các ngành liên quan xây dựng các dự án kêu gọi tài trợ theo hướng lồng ghép các mục tiêu, chương trình mà Hội phụ nữ là người đại diện.
Hai là, mở rộng hình thức tiết kiệm nhóm để tăng nguồn cho vay, đặc biệt Hội phụ nữ phải thường xuyên tổ chức các đợt tiết kiệm tạo quỹ vì phụ nữ nghèo để tăng nguồn hoạt động cho quỹ.
Ba là, về lãi suất cho vay, quỹ tương trợ phụ nữ nghèo không cần áp dụng lãi suất thấp, bởi 3 lý do : 1/ phụ nữ nghèo vay vốn gắn liền với tiết kiệm món nhỏ, họ cần đáp ứng vốn kịp thời hơn là ưu đãi về lãi suất; 2/ để mở rộng nguồn vốn cho quỹ thường phải đi vay các ngân hàng với lãi suất thị trường nên cho vay áp dụng lãi suất thị trường là tất yếu; 3/ đảm bảo nguồn tài chính cho quỹ hoạt động lâu dài.
Bốn là, cũng như quỹ hỗ trợ nông dân, để nâng vị trí pháp lý cho hoạt động quỹ tương trợ phụ nữ nghèo cũng cần có một quy chế từ phía Ngân hàng Nhà nước. Về lâu dài quỹ tương trợ này, cần phát triển thành các ngân hàng cổ phần nông thôn hoặc đô thị.
3.3. Những điều kiện thực hiện các giải pháp về tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo.
3.3.1. Tạo lập môi trường chính sách và pháp lý cần thiết để các tổ chức tài chính vi mô trực tiếp cung ứng vốn cho người nghèo hoạt động và phát triển.
Để thực hiện các giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo đã nói trên thì vấn đề quyết định trước hết, phải tạo ra một thể chế phù hợp cho hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô.
Theo tôi, Ngân hàng Trung ương cần xác định rõ loại ngân hàng "chính sách" trong hệ thống ngân hàng Việt nam, trong đó tất yếu có Ngân hàng người nghèo Việt nam. Ngân hàng "chính sách" được quy định bằng những điều cụ thể trong luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. Thể chế hoạt động của Ngân hàng người nghèo Việt nam được xây dựng bằng điều lệ hoặc cần thiết phải có pháp lệnh riêng.
Mặt khác, bên cạnh Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Trung ương phải tạo thể chế chính thức cho các tổ chức tài chính vi mô và dịch vụ tài chính vi mô có đủ môi trường pháp lý để hoạt động. Nên chăng mở rộng các mô hình dịch vụ tài chính vi mô lên một cấp độ mới trong sự liên kết với các tổ chức tài chính vi mô chính thức. Để làm được điều này, phải có một ban điều phối Trung ương từ phía Chính phủ, đảm bảo sự hoạt động thống nhất toàn hệ thống tài chính vi mô thực hiện hỗ trợ vốn cho người nghèo.
3.3.2 Thực hiện chính sách ruộng đất.
Ngày 27/9/1993, Chính phủ có nghị định 64/CP ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến ngày 15/1/1994, Chính phủ lại ban hành bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp tại nghị định 02/CP. Song theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, đến nay vẫn còn 19,3% số hộ gia đình nông dân với khoảng 20% diện tích đất nông nghiệp chưa được giao theo Nghị định 64/CP; việc giao đất, giao rừng kết hợp với chính sách định canh, định cư và thực hiện chương trình 327 vẫn tiến hành còn chậm. Bởi vậy, phải có những biện pháp hữu hiệu để thực hiện Nghị định 64/CP, đảm bảo cho nông dân thực hiện "5 quyền" được Luật đất đai quy định. Trong đó có quyền chuyển đổi để khắc phục tình trạng đất chia manh mún ảnh hưởng đến canh tác; quyền chuyển nhượng để ruộng đất từng bước tích tụ hình thành hộ sản xuất hàng hoá, thu hút lao động; quyền thế chấp để tạo điều kiện cho nông dân vay vốn sản xuất. Tuy nhiên, để ngăn chặn tình trạng đầu cơ đất làm cho nông dân nghèo bị phá sản thì Nhà nước cần thực hiện cơ chế thuế luỹ tiến trong việc sử dụng đất nông nghiệp. Về thực hiện Nghị định 02/CP, cần giao đất, khoán rừng ổn định lâu dài và giao một lần cho hộ gia đình, các tổ chức dự án 327, bao gồm : khoán đất lâm nghiệp để bảo vệ, trồng rừng mới, khoanh nuôi tái sinh rừng phòng hộ, băng cỏ cản lửa kết hợp với chăn nuôi; giao đất trồng lâm nghiệp cho hộ dự án thực hiện sản xuất nông, lâm kết hợp.
3.3.3. Thực hiện chính sách khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm (gọi chung là khuyến nông).
Mục đích chủ yếu của khuyến nông là đưa vào các vùng nông thôn những hiểu biết, kỹ thuật mới, những công nghệ hợp lý để kích thích sự tiến bộ trong sản xuất và cải thiện đời sống của những nông dân, gia đình họ và cộng đồng của họ. Đây là một lĩnh vực cực kỳ quan trọng, bởi thiếu nó người nông dân sẽ bị lệ thuộc vào nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất và làm ăn. Ví dụ, để đổi mới một loại giống cây trồng có năng suất cao hơn thì cần có cán bộ khuyến nông hướng dẫn cho nông dân kỹ thuật, kinh nghiệm gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sản phẩm.
Bởi vậy, về khuyến nông, phải đảm bảo chuyển giao đến hộ nông dân kịp thời và chính xác thông tin về kỹ thuật, các nguồn thông tin đa dạng khác tạo điều kiện để nông dân được tiếp cận trực tiếp với thị trường. Chương trình mà khuyến nông phải tập trung vào bao gồm : chuyển dịch cơ cấu cây trồng và mùa vụ, mở rộng các giống mới, công nghệ sản xuất mới và bảo vệ sản xuất mùa màng. Để khuyến nông thực sự là một dịch vụ quyết định năng suất cây trồng, vật nuôi, ngành nghề nông nghiệp thì tổ chức này cần được tăng cường cả chiều rộng và chiều sâu. Nhà nước phải có hỗ trợ nhất định về tài chính để tổ chức này hoạt động có hiệu quả, mặt khác nó được xem như một dịch vụ cho nông dân để thu hút nhưng cần có quy định là dịch vụ miễn phí cho các đối tượng nông dân nghèo.
3.3.4 Cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ để phát triển công nghiệp chế biến, dịch vụ và các ngành nghề đa dạng ở nông thôn.
Lâu nay khi bàn về phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ nói đến phát triển trồng trọt, chăn nuôi truyền thống; các ngành nghề chế biến, dịch vụ nông thôn, ngành nghề thủ công truyền thống, mở ra nghề mới thường không ai nhấn mạnh. Hiện nay, lao động dư thừa trong nông thôn ngày càng tăng, có thể tới 30%, tương ứng 6 - 7 triệu người nhưng nhiều ngành nghề truyền thống không được khơi dậy, sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi không tổ chức chế biến được, phải bán sản phẩm thô với giá thấp. Điều đó do nhiều nguyên nhân, song quyết định vẫn chưa có chính sách đầu tư mạnh mẽ vào khu vực này.
Chỉ có giải quyết tốt khâu chế biến sản phẩm nông nghiệp, mở ra nhiều ngành nghề ở nông thôn thì nông dân mới có thị trường tạo ra thu nhập cao hơn. Mặt khác hộ nghèo ở nông thôn không phải ai cũng đủ ruộng canh tác, thu nhập cuộc sống của họ phải nhìn từ nhiều nguồn. Bởi vậy, chính sách đầu tư của Nhà nước để phát huy mọi tiềm năng ở nông thôn, sẽ tạo điều kiện cho những hộ nghèo có thể vươn lên tăng thu nhập, dần dần bước khỏi ngưỡng đói nghèo.
3.3.5. Mở rộng thực hiện bảo hiểm bắt buộc đối với cây trồng, vật nuôi cho nông nghiệp.
Mức độ rủi ro của cây trồng, vật nuôi thường lớn và phụ thuộc đa dạng yếu tố như khí hậu, thời tiết, lụt bão, bệnh dịch và thiên tai khác. Nếu không được bảo hiểm đền bù thì nông dân nói chung, hộ nghèo nói riêng gặp rủi ro sẽ trắng tay. Song đây là một nghiệp vụ bảo hiểm gặp nhiều khó khăn, bởi phí bảo hiểm phải tính cao, nông dân và người nghèo khó chấp nhận. Thực tế để mở rộng nghiệp vụ bảo hiểm này, các công ty bảo hiểm đã có nhiều cách khác nhau, nhưng xét chung có mấy cách sau :
- Bảo hiểm từng loại cây trồng, vật nuôi.
- Bảo hiểm phần lớn các loại cây trồng vật nuôi chủ yếu .
- Không bảo hiểm rủi ro do thiên tai bão lụt gây ra.
Nhìn chung nghiệp vụ bảo hiểm cây trồng, vật nuôi cần được nghiên cứu để thực hiện trên bình diện rộng, vừa đảm bảo đền bù kịp thời rủi ro cho nông dân, vừa tạo cho công ty bảo hiểm có thể thực hiện được (thu lớn hơn chi), tôi xin đề xuất như sau :
Thứ nhất, rủi ro do thiên tai bão lụt không áp dụng bảo hiểm, mà nó được bù đắp bằng : một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của Ngân hàng người nghèo (đối với người vay vốn), ngân sách trợ cấp đột xuất, tương trợ của cộng đồng, tài trợ khác của các tổ chức trong và ngoài nước.
Thứ hai, rủi ro trong các trường hợp khác đều phải bảo hiểm, nông dân đóng bảo hiểm bằng hình thức bắt buộc, phí bảo hiểm được thu khi bán sản phẩm. Riêng phí bảo hiểm của các hộ nghèo được ngân sách Nhà nước tài trợ một phần hoặc toàn bộ.
3.3.6 Hình thành và ban bố dự luật tín chấp vay vốn tín dụng trong Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Như trên đã phân tích, cấp vốn tín dụng cho người nghèo tự nó đã hàm chứa tính rủi ro cao dẫn đến mất vốn. Hơn nữa, chủ yếu áp dụng biện pháp tín chấp khi cấp vốn thì rủi ro mất vốn càng có nguy cơ xẩy ra cao hơn.
Trong thực tế, mặc dù việc tín chấp có đảm bảo của chính quyền sở tại hoặc tổ nhóm vay vốn của người vay song khi rủi ro thì vấn đề xử lý mất vốn chưa có một điều luật cụ thể nào quy định. Không ít trường hợp gây phức tạp trong việc xử lý, giải quyết nợ khê đọng hoặc nợ khó đòi phát sinh khi cho các hộ nghèo vay vốn. Để thu hồi vốn, họ thường sử dụng giải pháp nhờ cơ quan pháp luật song trong tay cơ quan pháp luật vẫn chưa đủ điều luật cụ thể để phân định và xử lý. Rốt cuộc cơ quan yêu cầu là Ngân hàng người nghèo hoặc kho bạc Nhà nước thường phải chi phí một khoản tiền không biết hạch toán vào đâu cho hợp lý. Một số trường hợp, cơ quan cấp vốn tín dụng đã dùng tối đa các giải pháp khác nhau nhưng vốn vẫn không thu hồi được.
Từ thực tiễn nói trên, để hạn chế rủi ro mất vốn, tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và giám sát vốn cho vay, Nhà nước phải hình thành và ban bố một dự luật riêng về tín chấp vay vốn đối với người nghèo. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các cơ quan được giao nhiệm vụ cấp vốn tín dụng thực hiện thông đồng bén giọt chương trình tín dụng cho người nghèo.
3.3.7. Thể chế hoá chính sách nhà ở đối với người nghèo.
Nhà ở của đa số các hộ nghèo, gia đình chính sách đang được đặt ra như một chính sách lớn về xã hội ở nước ta hiện nay, đặc biệt là các đô thị, vùng gặp thiên tai. Song vấn đề đặt ra, chuyển sang cơ chế thị trường thì nhà ở được coi là một hàng hoá, Nhà nước không thể dùng vốn ngân sách xây dựng nhà ở và phân phối cho người nghèo. Bởi vậy cần phải có một chính sách riêng về nhà ở cho đối tượng người nghèo trên cơ sở thực hiện chiến lược "tạo điều kiện về nhà ở cho nhân dân" của Nhà nước. Mục tiêu của chính sách nhà ở cho người nghèo là làm sao tạo mọi điều kiện để người nghèo có nhà ở. Nhưng chính sách đó chỉ được thực thi trên một cơ chế nhất định từ phía Nhà nước. Theo tôi, chính sách nhà ở cho người nghèo phải xác định rõ một số cơ chế có thể thực thi trong điều kiện thực tế về đất ở, về hạ tầng nhà ở, quỹ nhà công, nguồn tài chính huy động.
ã Về đất ở : Nhà nước có thể miễn giảm tiền đất, các loại thuế đất cho người nghèo khi họ được giao đất làm nhà ở. Đối với khu vực đô thị, Nhà nước cần mở rộng xây dựng nhà cao tầng để bán hoặc cho người nghèo thuê. Họ có thể được mua hoặc thuê ở các tầng trên với giá thấp hơn bởi các căn hộ tầng cao không phải chịu hoặc chịu ít tiền đất tính theo hệ số tầng ở. Đối với các khu vực nhà ở "ổ chuột" hoặc ở tạm của dân nghèo, khi giải toả Nhà nước phải có chính sách đền bù riêng để họ có đủ chỗ ở tối thiểu.
ã Về hạ tầng nhà ở : Nói chung các khu nhà mới của dân nghèo đô thị, Nhà nước phải hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. Đối với các khu nhà tạm, nhà "ổ chuột" không phải di chuyển theo quy hoạch thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí và bằng các nguồn đóng góp khác để xây dựng và cải tạo từng bước hạ tầng tối thiểu cho sinh hoạt của dân cư.
ã Về quỹ nhà công : Kinh nghiệm ở nhiều nước, họ vẫn duy trì một quỹ nhà công riêng để giải quyết nhà ở cho người nghèo trong xã hội. ở nước ta diện tích quỹ nhà công vừa ít (81 triệu m2) lại vừa sử dụng lãng phí nên cần nhanh chóng có một cuộc thống kê, phân loại, điều chỉnh và khai thác triệt để quỹ nhà hiện có. Từ đó có thể tạo ra một quỹ nhà dư ra do sử dụng bất hợp lý để chuyển cho người nghèo thuê. Hiện nay tại các thành phố lớn đang nhiều người nghèo và người thu nhập thấp chỉ trông chờ được thuê nhà công với giá như hiện nay là họ có thể cải thiện được đời sống. Bởi thực tế thuê nhà ở tư nhân phải trả tiền thuê có khi gấp cả chục lần so với thuê nhà của Nhà nước. Bên cạnh quỹ nhà nói trên, Nhà nước cần khuyến khích phong trào xây dựng nhà tình nghĩa cho các hộ gia đình chính sách và neo đơn trong cộng đồng.
ã Về nguồn tài chính : Nhà nước có nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ nguồn tài chính cho các hộ nghèo tạo lập nhà ở nhưng có hai cách đang làm có nhiều kết quả cần phải tăng cường mở rộng, đó là :
- Ngân hàng cho vay làm nhà với lãi suất thấp và thế chấp chính bằng ngôi nhà đó. Đối với những vùng nghèo và thiên tai, việc áp dụng lãi suất thấp để cho vay làm nhà sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho ngân hàng.
- Chính quyền sở tại với tư cách thay mặt Nhà nước tại địa phương, thông qua các hội và đoàn thể để kêu gọi các cơ quan, cá nhân tài trợ cho các hộ nghèo làm nhà, có thể bằng tiền, hoặc bằng hiện vật.
Tóm lại : Đa dạng hoá mọi nguồn vốn hỗ trợ cho người nghèo và thương mại hoá nó là quan điểm chung nhất trong việc tạo nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo đói ở nước ta. Vấn đề có tính quyết định là phải thiết lập hệ thống tài chính vi mô đủ lớn để huy động vốn và chuyển tải vốn cho người nghèo, bao gồm: hệ thống Ngân hàng người nghèo chuyên biệt, nâng cao hiệu quả kênh vốn tín dụng Nhà nước và các tổ chức dịch vụ tài chính vi mô (Hội nông dân, Hội phụ nữ, ...) bằng việc xác lập vị trí pháp lý và cơ chế hoạt động cho mỗi mô hình tổ chức. Tuy nhiên việc hỗ trợ vốn cho người nghèo chỉ được giải quyết tốt trong mối quan hệ đồng bộ như tạo môi trường sản xuất kinh doanh, thực hiện hỗ trợ tích cực của cộng đồng cho người nghèo.
kếT LUậN
Tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo là vấn đề thời sự nóng hổi song nhiều khó khăn hiện nay ở nước ta. Qua toàn bộ những luận đề được trình bày, luận án đã giải quyết cơ bản các yêu cầu của đề tài nghiên cứu đặt ra, thể hiện trên các nội dung sau :
1. Khái quát hoá những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường, bao gồm : đặc trưng kinh tế thị trường và ưu khuyết tật của nó, vai trò điều tiết của Nhà nước và cơ chế sử dụng vốn trong nền kinh tế thị trường. Từ sự phân tích đi đến kết luận : đói nghèo là tất yếu khách quan ở nước ta hiện nay và có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo song suy cho cùng là do thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Phân tích các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo, luận án chỉ rõ, để sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo hiệu quả thì mọi nguồn vốn phải qua tác động của kênh tín dụng, giảm dần tài trợ cấp phát cho người nghèo.
2. Phân tích và đánh giá thực trạng đói nghèo và việc hỗ trợ vốn cho người nghèo thời gian vừa qua trên cả hai phương thức : cấp phát và cho vay; từ 3 loại nguồn : ngân sách, tín dụng ngân hàng và nguồn của các tổ chức cộng đồng. Luận án đã chỉ rõ hiệu quả một số tồn tại và nguyên nhân dẫn đến của từng phương thức tài trợ và từng kênh tài trợ. Đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm hỗ trợ vốn cho người nghèo ở một số nước trong khu vực, luận án rút ra một số vấn đề có thể vận dụng vào Việt nam.
3. Trình bày và phân tích rõ hệ thống các quan điểm hỗ trợ vốn cho người nghèo. Các quan điểm này được đặt ra trên cơ sở các luận cứ khoa học cũng như điều kiện thực tiễn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta.
4. Đề xuất hệ thống giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo trong điều kiện hiện nay ở nước ta, bao gồm 2 giải pháp lớn : 1/ Hoàn thiện và phát triển ngân hàng phục vụ người nghèo lên một cấp độ mới và tách khỏi hệ thống ngân hàng nông nghiệp; 2/ Khai thác và sử dụng tối đa các nguồn vốn hỗ trợ giảm nghèo thông qua các chương trình dự án quốc gia và tổ chức cộng đồng. Những giải pháp này sẽ đảm bảo tính khả thi đồng thời với việc hoàn thiện và phát triển hệ thống tài chính vi mô ở nước ta.
Tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ giảm nghèo đang là một nghị sự đồ sộ trên văn đàn kinh tế. Chúng ta không thể hy vọng một sớm một chiều có thể giải quyết được. Bởi vậy, để góp phần sớm giải được bài toán về vốn cho người nghèo, tác giả luận án kỳ vọng các giải pháp đề xuất sớm được nghiên cứu và áp dụng. Tuy nhiên với dung lượng nghiên cứu của một công trình khoa học, ắt rằng luận án không thể tránh khỏi những mặt hạn chế. Tác giả mong nhận được nhiều chỉ dẫn và góp ý của các nhà khoa học, cán bộ quản lý và đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện luận án tốt hơn.
danh mục Tài liệu tham khảo
1. Luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tiền tệ trong nền kinh tế thị trường - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mã ố KX 03 - 08 - Chủ nhiệm đè tài GS. Cao Cự Bội.
2. PTS. Cao Sỹ Kiên : Đổi mới chính sách tiền tệ tín dụng ngân hàng trong giai đoạn chuyển sang nền kinh tế thị trường - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà nội 1995.
3. PTS. Lê Văn Châu : Chính sách tiền tệ trong giai đoạn mới - Những điều kiện mới và thách thức mới - Tạp chí lý luận và nghiệp vụ ngân hàng 2/1996.
4. Hệ thống tài chính cộng hoà Triều tiên - Viện khoa học ngân hàng - Hà nội 1993.
5. Phan Văn Thường : Suy nghĩ về các giải pháp cân bằng thiếu hụt ngân sách Nhà nước - Tạp chí khoa học ngân hàng tháng 6/1996.
6. Văn kiện Đại hội 6 của Đảng cộng sản Việt nam.
7. Văn kiện Đại hội 7 của Đảng cộng sản Việt nam.
8. Văn kiện Đại hội 8 của Đảng cộng sản Việt nam.
9. S,Míhkin : Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật - Hà nội 1995.
10. Chính sách tài chính quốc gia 1996 - 2000 - Tạp chí Cộng sản số 2/1996.
11. F.Anghen, nguồn gốc gia đình của chế độ tư bản và của Nhà nước - NXB Sự thật, Hà nội năm 1961.
12. Các Mác : Tư bản, quyển 1, tập 2, NXB Sự thật, Hà nội 1960.
13. Các Mác : Tư bản, quyển 1, tập 3, NXB Sự thật, Hà nội 1976.
14. Các Mác : Tư bản, quyển 2, tập 1, NXB Sự thật, Hà nội 1960.
15. Các Mác : Tư bản, quyển 3, tập 1, NXB Sự thật, Hà nội 1960.
16. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế thị trường, NXB Sự thật, Hà nội 1991.
17. Võ Đình Hảo - Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường - Thông tin chuyên đề - Bộ Tài chính 1993.
18. Đổi mới ngân sách Nhà nước, NXB Thống kê, Hà nội 1992.
19. Hoàn thiện cơ chế tín dụng Nhà nước ở Việt nam và việc áp dụng nó trong hệ thống kho bạc Nhà nước, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tài chính, Cục kho bạc Nhà nước thực hiện năm 1993.
20. Kinh tế thị trường lý thuyết và thực tiễn, Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và quỹ hoà bình Sasakawa xuất bản năm 1993, tập 1, tập 3 .
21. Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước ngày 23/5/1990, tạp chí Ngân hàng số 6 năm 1990.
22. Tổng hợp tình hình thu - chi ngân sách 1991 - 1994. Bộ Tài chính - Vụ ngân sách Nhà nước tháng 9/1994.
23. Phan Văn Thường - Bàn về chính sách hỗ trợ vốn cho người thôi việc trong khu vực Nhà nước, Tạp chí Lao động công đoàn, số 173, tháng 8/1995.
24. Phan Văn Thường - Bàn thêm về các giải pháp hỗ trợ vốn xoá đói giảm nghèo, Tạp chí ngân hàng, tháng 9/1995.
25. Phan Văn Thường - Vấn đề đặt ra về vốn cho phát triển kinh tế tư nhân, Tạp chí ngân hàng, tháng 2/1996.
26. Phan Văn Thường - Ngân hàng thương mại với vai trò định chế tài chính trung gian trên thị trường chứng khoán, Tạp chí thị trường tài chính - tiền tệ, số 3, tháng 3/1996.
27. Phan Văn Thường - Cần điều chỉnh thời gian thu lãi suất khi nông dân vay vốn. Báo nhân dân 3/4/1996.
28. Giáo sư Cao Cự Bội - Vốn cho phát triển khoa học công nghệ, báo Nhân dân, 3/4/1996.
29. Tạp chí Tài chính - các số từ 1992 đến 1995.
30. Vũ Văn Hoá - Lưu thông tiền tệ và tín dụng, trường Đại học Tài chính - kế toán - Hà nội 1993.
31. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng nông nghiệp Việt nam.
32. Báo cáo thường niên kho bạc Nhà nước Việt nam.
33. Luật đất đai, NXB chính trị quốc gia.
34. Lê Hồng Thái - chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp ở Thái Lan, Inđonêxia, Tạp chí kinh tế dự báo, số 255 tháng 7 - 1994.
35. Cao Cự Bội - Tín dụng cho nông dân nghèo. Thời báo ngân hàng, tháng 8/1994.
36. Cao Cự Bội - Tín dụng nông thôn Việt nam, Tạp chí nghiên cứu của UBKHNN, năm 1990.
37. Niêm giám thống kê, 1991 - 1994.
38. Những điểm hình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Bộ kế hoạch và đầu tư, Hà nội , 6/1996.
39. Malayxia, Ngân hàng cho người nghèo đề ra mục tiêu cao hơn cho châu á, JocelineSan, trích từ Thời báo New Straits, 19/10/1993.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0117.doc