Đề tài: Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại các tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con tại Việt Nam.
phần mở đầu
Nhằm mục tiêu nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế trong cơ chế thị trường đa hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, tiến tới phát triển kinh tế ổn định, bền vững theo chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, trong thời gian qua, chứng ta đã có nhiều giải pháp đổi mới,
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1409 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại các tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp dụng nhiều mô hình kinh tế, tạo cơ sở pháp lý, môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tại hội Nghị TW 3, khoá IX, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết về các định hướng và những giải pháp tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các Tổng công ty Nhà nước nói riêng. Bên cạnh các giải pháp sắp xếp tổng công ty Nhà nước đang thực hiện, Nghị quyết đã tập trung đổi mới theo hướng thí điểm để nhân rộng việc thực hiện chuyển đổi tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con.
Thực hiện Nghị quyết TW 3, khoá IX, trong thời gian qua, Chính phủ đã đưa ra các cơ chê, chính sách, hướng dẫn và tiến hành thực hiện thí điểm chuyển các tổng công ty Nhà nước, các công ty Nhà nước độc lập và các công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty Nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con. Ngày 09/08/2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 153/2004/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty Nhà nước độc lập theo mô hình công ty mẹ-công ty con, tạo môi trường pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp thực hiện việc chuyển đổi và hoạt động tốt theo mô hình công ty mẹ-công ty con.
Mô hình công ty mẹ-công ty con tuy mới được triển khai thực hiện tại Việt Nam nhưng thực tế cho thấy sự chuyển đổi, tổ chức lại theo mô hình này đã thực sự thu được những kết quả nhất định, hoạt động của các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi, tổ chức lại đạt hiệu quả cao, bước đầu khẳng định được tính đúng đắn của việc chuyển đổi từ liên kết theo kiểu hành chính với cơ chế giao vốn sang liên kết chặt chẽ bằng cơ chế đầu tư tài chính, xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của các thành viên, phát triển năng lực, qui mô và phạm vi kinh doanh, thúc đẩy việc tích tụ, tập trung vốn, huy động các nguồn lực của doanh nghiệp vào đầu tư.
Tuy nhiên, quá trình hoạt động trong thời gian vừa qua, mô hình công ty mẹ-công ty con đã bộc lộ những vướng mắc, hạn chế cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện như cơ chế quản lý tài sản, cơ chế quản lý vốn, khả năng tài chính, phân định chức năng, nhiệm vụ của công ty mẹ, công ty con... Một trong những khâu quan trọng cần được tập trung phân tính, đánh giá, đưa ra các giải pháp tối ưu đó là cơ chế huy động vốn của các tổng công ty Nhà nước, công ty Nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty Nhà nước sau khi chuyển đổi hoạt động sang mô hình công ty mẹ-công ty con.
Nhận thức được vấn đề như trên, qua quá trình học tập, nghiên cứu, em đã lựa chọn đề tài cho bài tập lớn của mình là: “Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại các tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con tại Việt Nam.”
Bài viết gồm hai phần chính là:
- Các nội dung cơ bản về tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con.
- Thực trạng hoạt động, nguyên nhân và các giải pháp tăng cường huy động vốn đối với tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con tại Việt Nam.
Nội dung cụ thể từng phần em xin được trình bày như sau:
I/ Các nội dung cơ bản về Tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con
1/Một số khái niệm liên quan
1.1/ Tập đoàn kinh tế: là một tổ hợp các công ty độc lập về mặt pháp lý, hoạt động trong một hoặc nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, liên kết với nhau trên cơ sở đầu tư vốn, tài chính, công nghệ, đào tạo, nghiên cứu khoa học, thị trường, thương hiệu và các liên kết khác, trong đó thường có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các thành viên trong tổ hợp về tài chính và chiến lược phát triển.
Từ khái niệm trên cho ta thấy, tập đoàn kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các pháp nhân độc lập với nhau, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, có mối quan hệ hữu cơ với nhau tạo thành một tập hợp liên kết với qui mô lớn. Việc liên kết, mở rộng qui mô, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp hình thành nên các tập đoàn kinh tế một mặt có thể xuất phát từ bản thân doanh nghiệp đó thông qua quá trình tự tích tụ, tự phát triển tuần tự hoặc sát nhập hợp nhất, mua cổ phần các doanh nghiệp khác. Mặc khác, do các doanh nghiệp độc lập tự liên kết với nhau để hình thành tập đoàn các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế, tài chính, đầu tư mở rộng qui mô, phạm vi hoạt động, từ đó hình thành nên các tập đoàn lớn.
Như vậy, tập đoàn kinh tế có những đặc điểm cơ bản là: (1) tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, nhưng mỗi thành viên trong tập đoàn lại có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó, các thành viên trong tập đoàn bình đẳng với nhau trước pháp luật, tập đoàn không chịu trách nhiệm liên đới trước trách nhiệm và nghĩa vụ của các thành viên. Sự liên kết giữa các thành viên tập đoàn thông qua đầu tư vốn, công nghệ, thị trường, thương hiệu ... và thường được tổ chức dưới hình thức công ty mẹ-công ty con. (2) có qui mô lớn, tích tụ, tập trung lớn, có lực lượng sản xuất phát triển, chuyên môn hoá cao, khả năng cạnh tranh cao và chi phối thị trường, hoạt động đa ngành nghề như sản xuất, dịch vụ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm ... dự trên mối quan hệ kinh tế kỹ thuật giữa các ngành, trong đó thường có một ngành chủ đạo. (3) phạm vi hoạt động rộng không những trong nước mà cả ở nước ngoài nhằm khai thác lợi thế, chuyên môn hoá cao, cơ cấu tổ chức tập đoàn kinh tế phức tạp nhiều tầng, cấp độ khác nhau phụ thuộc vào mối liên hệ giữa các thành viên trong tập đoàn.
Trong số các loại hình tổ chức hoạt động của tập đoàn kinh tế, mô hình công ty mẹ-công ty con là phổ biến nhất hiện nay.
1.2/ Mô hình tổ chức công ty mẹ-công ty con: Tập đoàn kinh tế được phân thành các loại hình tổ chức như: mô hình tập đoàn kinh tế theo cấu trúc đơn nguyên và tập trung quyền lực, mô hình công ty mẹ-công ty con, mô hình cấu trúc hỗn hợp, cấu trúc sở hữu, mô hình liên kết ....
Mô hình tổ chức công ty mẹ-công ty con là hình thức liên kết và chi phối lẫn nhau bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ, thương hiệu hoặc thị trường giữa hai hay nhiều doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó có một công ty giữ quyền chi phối các doanh nghiệp thành viên khác (gọi tắt là công ty mẹ) và các doanh nghiệp thành viên khác bị công ty mẹ chi phối (gọi tắt là công ty con) hoặc có một phần vốn góp không chi phối của công ty mẹ (gọi tắt là công ty liên kết).
Trong mô hình này, công ty mẹ chi phối các công ty con bằng cách sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định trong vốn điều lệ các công ty con. Công ty con có thể là các công ty cổ phân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên, công ty liên kết. Sự liên kết, chi phối giữa công ty mẹ và công ty con rất phong phú, hiện nay tồn tại dưới một số hình thức chủ yếu như:
- Công ty mẹ nắm quyền kiểm soát thông qua đầu tư vốn vào công ty con. Theo đó, công ty mẹ thường là các tổ chức tài chính, ngân hàng lớn, đầu tư vốn cổ phần chi phối, thôn tính, khống chế các công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, biến chúng thành các công ty con dưới quyền điều hành, kiểm soát của công ty mẹ.
- Công ty mẹ chi phối, liên kết thông qua dây chuyền sản xuất-kinh doanh. Theo đó, mô hình này thường được áp dụng đối với những sản phẩm sản xuất phức tạp, qua nhiều công đoạn, nhiều phân tầng. Đòi hỏi công ty mẹ phải có tiền năng rất lớn, nắm giữ các khâu, mắt xích sống còn của quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, như hoạch định chiến lược, công tác tài chính, vốn đầu tư, công tác đối ngoại, thị trường ...
- Công ty mẹ chi phối, liên kết bằng công nghệ. Theo đó, công ty mẹ thuờng là các trung tâm nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, công ty con là các đơn vị sản xuất kinh doanh thực hiện ứng dụng các kết quả nghiên cứu của công ty mẹ để phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty con.
Từ khái niệm và các hình thức liên kết nêu trên, ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của việc tổ chức hoạt động của tập đoàn kinh tế theo mô hình công ty mẹ-công ty con như sau:
- Về cơ cấu tổ chức: công ty mẹ và các công ty con là các pháp nhân độc lập, bình đẳng trước pháp luật về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và các khoản nợ trong phạm vi số vốn góp của mình vào vốn điều lệ. Tỷ lệ vốn góp, vốn cổ phần của công ty mẹ vào công ty con qui định mức độ chi phối, liên kết giữa công ty mẹ và các công ty con. Tuy nhiên, từ cơ sở nắm giữ tỷ lệ vốn chi phối, thông thường công ty mẹ nắm giữ quyền quyết định trên các mặt đối với công ty con là: quyết định chiến lược, mục tiêu sản xuất kinh doanh, quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh chủ chốt và quyền quyết định nội dung và sửa đổi điều lệ đối với công ty con. Sự liên kết giữa công ty mẹ và công ty con như vậy sẽ tạo thành một tổ hợp các pháp nhân doanh nghiệp hoạt động theo những chiến lược phát triển chung nhất định và là cơ sở để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn hơn sau này.
- Về cơ chế vận hành: cũng giống như cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành giữa công ty mẹ và công ty con được thể hiện thông qua tỷ lệ vốn góp, quyền quản lý tài sản của công ty mẹ đối với công ty con. Ngoài việc quản lý, vận hành tài sản của chính mình, công ty mẹ thực hiện quản lý phần tài sản hình thành bằng vốn góp chi phối của mình đối với công ty con, trên cơ sở đó công ty mẹ thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư vào các công ty con và công ty liên kết. Trên cơ sở đó, tạo ra nhiều mối liên kết với mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào sự chi phối thông qua tỷ lệ đầu tư tài sản của công ty mẹ đối với công ty con, có thể là liên kết chặt chẽ, hay nửa chặt chẽ, hay lỏng lẻo. Công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình tại công ty con bằng cách cử đại diện của mình vào hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên của công ty con. Các công ty con trong những điều kiện cho phép có thể góp tài sản của mình để hình thành các công ty con khác gọi là công ty cháu.
2/ Sự cần thiết phải tăng cường huy động vốn và cơ chế huy động vốn trong tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con
2.1/ Khái niệm cơ chế huy động vốn
Cơ chế huy động vốn là một trong những nội dung của cơ chế quản lý vốn trong doanh nghiệp. Do đó, để hiểu thế nào là cơ chế huy động vốn, trước hết chúng ta cần phải hiểu các khái niệm về cơ chế quản lý tài chính, cơ chế quản lý vốn.
Cơ chế quản lý có thể được hiểu là cách thức, công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các phương pháp, hình thức và công cụ được áp dụng để quản lý các hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ.
Còn cơ chế quản lý vốn đối với doanh nghiệp là tập hợp các phương pháp, hình thức và công cụ được áp dụng để quản lý quá trình tạo lập và sử dụng các nguồn vốn nhằm đạt được các mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ. Nội dung chủ yếu cơ chế quản lý vốn bao gồm: các hình thức, công cụ và giải pháp huy động vốn; điều hoà vốn trong tập đoàn; quản lý nguồn vốn khấu hao; xác định cơ cấu vốn tối ưu.
Từ đó, có thể hiểu cơ chế huy động vốn của tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty me-công ty con là tổng thể các hình thức, giải pháp và công cụ được áp dụng để huy động các nguồn vốn cho hoạt động của tập đoàn kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong từng thời kỳ.
2.2/ Sự cần thiết phải tăng cường huy động vốn và cơ chế huy động vốn đối với tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty me-công ty con
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một yếu tố quan trọng hành đầu, không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, đặc biệt đối với các tập đoàn kinh tế. Do các tập đoàn kinh tế có qui mô sản xuất kinh doanh lớn, phạm vi hoạt động rộng, đa ngành nghề nên nhu cầu về nguồn vốn cho hoạt động sản suất kinh doanh là rất lớn. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra cho nhà quản lý các tập đoàn kinh tế là vốn: huy động từ những nguồn nào, cách thức ra sao và bằng những công cụ tài chính nào để có thể đáp ứng nhu cầu hoạt động ngày càng phát triển của các thành viên trong tập đoàn. Việc huy động vốn không những chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên trong tập đoàn kinh tế trong ngắn hạn mà còn đối với sự tồn tại và phát triển dài hạn của cả tập đoàn; không những là công ty mẹ mà bất kỳ một thành viên nào trong tập đoàn cũng đều phải quan tâm đến vấn đề huy động, quản lý và sử dụng vốn.
Đối với công ty mẹ, việc huy động vốn cho hoạt động có một ý nghĩa rất lớn trong tập đoàn vì công ty mẹ, ngoài việc thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh của mình còn thực hiện chức năng đầu tư tài chính hay kinh doanh vốn đầu tư vào các thành viên khác trong tập đoàn. Mặt khác, khả năng tài chính của công ty mẹ phụ thuộc trước hết vào các nguồn vốn huy động được. Do đó, nếu hoạt động huy động vốn và cơ chế tạo vốn không đáp ứng được yêu cầu về tài chính của công ty mẹ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chi phối của công ty mẹ đối với các công ty con thông qua đầu tư vốn, dẫn đến trong nhiều trường hợp hạn chế khả năng mở rộng hoạt động cũng như hiệu quả kinh doanh của tập đoàn.
Đối với công ty con, nguồn vốn được tài trợ bởi vốn của bản thân công ty con và vốn đầu tư của công ty mẹ. Thông thường, vốn đầu tư của công ty mẹ chiếm tỷ lệ chi phối. Tuy nhiên, trong thực tế công ty mẹ không có đủ năng lực tài chính để thoả mãn tất cả các nhu cầu về vốn của các công ty con. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn, các công ty con phải tự tìm nguồn vốn bổ sung bằng cách huy động từ thị trường tiền tệ và thị trương vốn.
Nếu xét trên góc độ tổng thể thì hoạt động của tập đoàn kinh tế dựa trên nhiều mối quan hệ, liên kết đa dạng, giữa công ty mẹ với các công ty con, giữa các công ty con với nhau và với các công ty liên kết cũng như mối quan hệ giữa các thành viên tập đoàn với các tổ chức ngân hàng tài chính ... Thông qua đó thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra thu nhập cho các thành viên trong tập đoàn. Để có thể quản lý, điều hoà lợi ích trong quá trình hoạt động nhằm đạt hiệu quả cao, Nhà nước cần phải thiết lập một hành lang pháp lý để quản lý và bản thân các thành viên trong tập đoàn cũng phải xây dựng cho mình một cơ chế quản lý riêng phù hợp với hình thức hoạt động của bản thân. Trong đó, cơ chế huy động vốn không phải là một ngoại lệ, đòi hỏi công ty mẹ và các công ty con cần quan tâm đúng mức đối với việc thiết lập một cơ chế huy động vốn như thế nào để có thể huy động được vốn ở mức chi phí thấp nhất, có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất tương ứng với số vốn đã bỏ ra để đầu tư.
3/ Các hình thức, công cụ và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con
3.1/ Các hình thức, công cụ huy động vốn
Vốn, cũng như bất kỳ một loại hàng hoá nào khác, đều có chủ sở hữu đích thực, người sử dụng vốn chỉ nhượng quyền sử dụng vốn với các điều kiện nhất định (thu phí quyền sử dụng, đượng hưởng một số quyền hạn nhất định đối với doanh nghiệp...). Vốn của tập đoàn kinh tế được tạo lập từ nguồn vốn đầu tư ban đầu (vốn sở hữu của công ty mẹ) và vốn bổ sung trong quá trình hoạt động. Đối với các công ty con trong tập đoàn, vốn ban đầu thường do công ty mẹ và các chủ sở hữu khác bỏ ra đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động của công ty mẹ và các công ty con có thể được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như lợi nhuận để lại, từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn tín dụng, thuê mua tài chính ... Vốn được chu chuyển và giao dịch phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của tập đoàn kinh tế thông qua nhiều kênh, xoay quanh thị trường vốn. Như vậy, có thể coi chính sách huy động và sử dụng vốn là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tài chính, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động của tập đoàn kinh tế.
Việc đầu tư, huy động và quản lý vốn cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản: xác định tỷ trọng vốn cần huy động phù hợp với khả năng chi trả của doanh nghiệp trong từng thời kỳ; xác định hiệu quả sử dụng vốn theo các chỉ tiêu cụ thể: tỷ suất lợi nhuận/vốn, tỷ suất lợi nhuận/ doanh thu, thời gian thu hồi vốn, khả năng tiêu thụ, cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường ...
Các hình thức huy động vốn của tập đoàn kinh tế phản ánh mối quan hệ về tài chính giữa công ty mẹ và các công ty con với thị trường tài chính và giữa công ty mẹ và các công ty con với nhau. Cơ chế huy động vốn vừa là sản phẩm của cơ chế quản lý vừa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. Thị trường vốn phát triển mạnh và đa dạng sẽ tạo điều kiện đa dạng hoá các hình thức và các kênh huy động vốn của tập đoàn kinh tế.
Các hình thức và công cụ huy động vốn đó là:
3.1.1/ Huy động vốn chủ sở hữu
- Góp vốn khi thành lập doanh nghiệp: để có thể tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, các chủ sở hữu bao giờ cũng phải góp một số vốn nhất định khi thành lập doanh nghiệp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn tự có ban đầu được nhà nước đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Theo cơ chế hiện hành, nguồn vốn này có thể xem là nguồn vốn chủ yếu của các doanh nghiệp nhà nước. Tại thời điểm thành lập, doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ nhưng không thấp hơn vốn pháp định qui định cho ngành nghề đó.
Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, nguồn vốn do các thành viên hoặc các cổ đông đóng góp, là điều kiện tiên quyết để thành lập công ty. Mỗi thành viên (hoặc cổ đông) là một chủ sở hữu công ty theo tỷ lệ vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn bằng giá trị phần vốn góp (hoặc trị giá cổ phần mà họ nắm giữ).
Ngoài số vốn đầu tư ban đầu đã bỏ ra khi thành lập doanh nghiệp trong tập đoàn, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, mở rộng qui mô, các doanh nghiệp có thể thực hiện các hình thức và các công cụ huy động vốn như:
- Phát hành cổ phiếu: Cổ phiếu là giấy xác nhận sư tham gia góp vốn của một chủ thể (gọi là cổ đông) vào một công ty, tức là xác định cổ đông có quyền sở hữu một phần vốn đối với công ty đó theo tỷ lệ phần trăm cổ phiếu của cổ đông đó.
Phương thức huy động nguồn vốn chủ sở hữu được áp dụng phổ biến đối với các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường là phát hành cổ phiếu. Về cơ bản cơ chế phát hành những công cụ tài chính này đối với các tập đoàn kinh tế là giống nhau. Phát hành cổ phiếu là quá trình đưa ra bán trên thị trường cổ phiếu để huy động vốn. Người mua cổ phiếu được gọi là cổ đông, là người đầu tư vốn để hình thành nên vốn tự có của doanh nghiệp. Cổ đông có trách nhiệm và quyền lợi được pháp luật qui định tuỳ theo loại cổ phiếu mà họ nắm giữ như: chiếm hữu một phần lợi nhuận dưới hình thức lãi cổ phiếu và được quyền tham gia quản lý doanh nghiệp. Những cổ đông cũ được quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới theo tỷ lệ cổ phiếu mà hiện họ đang nắm giữ, có thể với giá thấp hơn giá thị trường của loại cổ phiếu đó. Cổ đông không được rút vốn ra khỏi doanh nghiệp mà chỉ có thể chuyển nhượng cổ phiếu trên thị truờng.
Cổ phiếu được phát hành theo nhiều loại khác nhau như: cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi:
Cổ phiếu thường: là loại cổ phiếu không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó, không có mức lãi suất cố định. Số lãi được chia vào cuối niên độ quyết toán được gọi là cổ tức, cổ tức nhiều hay ít phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, khi tiến hành phát hành cổ phiếu thông thường để huy động nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp phải cân nhắc một cách kỹ lưỡng về tính pháp lý và tính hiệu quả của nó, vì theo qui định doanh nghiệp phải tuân thủ giới hạn phát hành cổ phiếu. Giới hạn phát hành là một qui định ràng buộc có tính pháp lý. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành là vốn cổ phiếu được cấp phép. ở Việt nam, đây là một trong những quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán. Tại một số nước, số cổ phiếu được phép phát hành có thể được ghi vào điều lệ công ty. Như vậy, muốn tăng vốn cổ phần trước hết cần phải được đại hội cổ đông cho phép, sau đó phải hoàn thành những thủ tục qui định khác.
Do đó, khi phát hành ra thị trường cổ phiếu này, đòi hỏi nhà quản lý phải căn cứ vào một số yếu tố như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư, tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường, chính sách đối với việc sát nhập hay thông tính công ty, tình hình trên thị trường chứng khoán và qui định của cơ quan quản lý liên quan, mệnh giá và thị giá của chứng khoán ...
Cổ phiếu ưu đãi: tương tự như cổ phiếu thường nhưng có một số hạn chế nhất định như cổ đông sở hữu cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng củ vào Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Ngược lại, họ được ưu đãi về tài chính theo một mức lãi cổ phần riêng biệt, có tính cố định hàng năm, được ưu tiên chia lãi cổ phần trước cổ phiếu thông thường và được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi thanh lý, giải thể. Tuy nhiên họ không có lợi gì khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Loại cổ phiếu này thường do những nhà đầu tư muốn có thu nhập ổn định, đều đặn làm chủ sở hữu. Để tạo nên sự hấp dẫn cho cổ phiếu ưu đãi và phù hợp với tâm lý của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp thường sử dụng đa dạng các loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau như: cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, không tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi có thể chuộc lại...
Một điểm quan trọng cần phải chú ý khi phát hành loại cổ phiếu ưu đãi đó là khác với lãi tiền vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng cổ tức thì được lấy từ lợi nhuận sau thuế nên không được giảm trừ khi tính thuế thu nhập. Đây là một hạn chế của cổ phiếu ưu đãi.
Một vấn đề đặt ra là, khi nào thì các tập đoàn tiến hành phát hành cổ phiếu để huy động vốn chủ sở hữu và khi nào thì huy động vốn nợ? Điều này được lý giải là: trong sản xuất kinh doanh tuỳ từng loại hình hoạt động, các doanh nghiệp nói chung và tập đoàn kinh tế nói riêng đều tính toán để cân đối một cách hợp lý giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu để bảo đảm khả năng thanh toán, cũng cố uy tín tài chính. Do đó, khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng vốn nợ (mà không tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu). Ngược lại nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, đơn vị phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ nên chọn cách phát hành cổ phiếu.
- Nguồn vốn tự bổ sung: tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn của các tập đoàn kinh tế được áp dụng khá phổ biến, nhờ đó các thành viên trong tập đoàn phát huy được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài, nhất là khi có các biến động trên thị trường tài chính. Ngoài số vốn chủ sở hữu góp ban đầu khi thành lập doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn có thể tự bổ sung nguồn vốn cho nhu cầu đầu tư của mình bằng các hình thức: tái đầu tư thông qua chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ.
Nhiều doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại. Trong kế hoạch hàng năm, doanh nghiệp đặt ra mục tiêu tỷ lệ phần trăm vốn tái đầu tư cần đạt được nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Để làm được điều này, đòi hỏi tập đoàn kinh tế phải hoạt động hiệu quả, phải có một lượng lợi nhuận đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng, phục vụ nhu cầu ngày càng phát triển của doanh nghiệp. Việc tái đầu tư có thể thực hiện bằng cách ghi tăng giá trị sổ sách của cổ phiếu hoặc phát hành thêm cổ phiếu thông thường. Trường hợp thứ nhất, giá trị danh nghĩa của cổ phiếu tăng sẽ làm tăng thị giá cổ phiếu. Trường hợp thứ hai, cổ đông sẽ nhận cổ phiếu thay vì nhận thu nhập của họ dưới dạng cổ tức. Đây là một phương thức tạo vốn quan trọng và khá hấp dẫn đối với các tập đoàn kinh tế vì doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài
Trong các tập đoàn đa quốc gia, do phạm vi phân bố và hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau nên các hoạt động khai thác và lưu chuyển các nguồn tài chính nội bộ rất phức tạp và có ý nghĩa quan trọng. Giữa các công ty thành viên với nhau và công ty mẹ phải thiết lập được một hệ thống trao đổi các nguồn tài chính, cho phép thực hiện các hoạt động lưu chuyển, điều hoà vốn trong nội bộ tập đoàn với chi phí thấp và có hiệu quả cao.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn chủ sở hữu từ lãi không chia không những phụ thuộc lợi nhuận thu được hàng năm mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Còn đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Do đó, có thể khuyến khích cổ đông giữ cố phiếu lâu dài, nhưnh mặt khác dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chia cổ tức thấp hơn khi chưa chia lợi nhuận để lại hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể giảm sút.
Như vậy, khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như: tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ, mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó, hiệu quả của việc tái đầu tư.
3.1.2/ Huy động nợ
Trong quá trình hoạt động, công ty mẹ cũng như bất cứ một công ty thành viên nào khác trong tập đoàn rất cần được bổ sung thêm vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt khi doanh nghiệp đầu tư để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới càng nhiều thì nhu cầu về vốn càng lớn. Ngoài phương thức huy động vốn chủ sở hữu, công ty mẹ và các công ty con có thể tìm kiếm nguồn vốn bằng các hình thức huy động nợ. Nếu căn cứ theo thời gian, huy động nợ bao gồm huy động nợ ngắn hạn và huy động nợ trung, dài hạn.
Huy động nợ ngắn hạn có các hình thức: vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, vay cán bộ công nhân viên, vay nước ngoài, các khoản vốn trong thanh toán chưa đến kỳ trả. Huy đọng nợ ngắn hạn được sử dụng nhằm trang trải cho nhu cầu tiền đã được dự toán trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, các khoản nợ được coi là ngắn hạn là các khoản nợ có thời hạn trả nợ dưới 01 năm.
Huy động nợ trung, dài hạn có các hình thức: phát hành trái phiếu, vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vay cán bộ nhân viên, vay nước ngoài ... Huy động nợ dài hạn nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất hiện có tại doanh nghiệp. Các khoản nợ trung, dài hạn có thời hạn vay vốn trên 01 năm.
Nếu căn cứ theo nguồn huy động thì huy động nợ bao gồm:
- Phát hành trái phiếu: Trái phiếu là giấy tờ ghi nợ do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn trung và dài hạn với các điều kiện về mệnh giá, lãi suất và thời hạn xác định. Khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu tức là doanh nghiệp đó thực hiện một quan hệ tín dụng thông qua việc bán các công cụ tài chính ra thị trường chứng khoán. Độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn so với cổ phiếu. Chi phí trả lãi trái phiếu được coi là khoản chi phí trước thuế.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại: trái phiếu tín chấp, trái phiếu thế chấp, trái phiếu có khả năng chuyển đổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thả nổi... Trước khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính vì nó sẽ liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Các loại trái phiếu chủ yếu trên thị trường tài chính các nước hiện nay là:
Trái phiếu có lãi suất cố định: đây là loại trái phiếu được sử dụng nhiều nhất. Đặc điểm của loại trái phiếu này là lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy, người đi vay và người cho vay đều biết rõ mức lãi suất, kỳ hạn thanh toán của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Khi phát hành trái phiếu để huy động vốn, doanh nghiệp phải cân nhắc, tính toán đến các yếu tố như: lãi suất đã phù hợp với thị trường, đã hấp dẫn các nhà đầu tư hay chưa và điều quan trọng hơn cả là tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh đối vơi mức chi phí vốn đưa ra; kỳ hạn trái phiếu phải phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn và tình hình thị trường, tâm lý người dân; ngoài ra doanh nghiệp còn phải chú ý đến các yếu tố như uy tín của doanh nghiệp đối với công chúng, mệnh giá cổ phiếu phải tạo điều kiện cho nhiều đối tượng có khả năng mua được.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi: Trong trường hợp có mức lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định thì doanh nghiệp có thể phát hành loại trái phiếu có lãi suất thay đổi để khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Theo đó, nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thoả đáng trong tình hình thị trường có nhiều biến động. Tuy nhiên, nhược điểm của công cụ này là doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, do đó có thể gây khó khăn cho việc lập kế hoạch tài chính; việc quản lý trái phiếu mất nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
- Nguồn vốn tín dụng và các nguồn vốn khác: nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn quan trọng hàng đầu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ và công ty con trong tập đoàn kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, công ty mẹ và._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0226.doc