Các giải pháp tài chính phát triển thủy sản tỉnh An Giang

1 LỜI MỞ ĐẦU An Giang là một tỉnh Tây Nam của Tổ quốc, nằm trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nằm giữa hai dòng sông Tiền, sông Hậu và dọc theo hữu ngạn sông Hậu (thuộc hệ thống sông Mêkông) nên có nguồn nước ngọt phong phú và có hệ thống kênh rạch chằng chịt, với gần sáu tháng của mùa nước nổi hằng năm là điều kiện thuận lợi cho nghề khai thác và nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh. Với 73% diện tích là đất phù sa màu mỡ từ hai nhánh sông Tiền và sông Hậu, diện tích mặt

pdf90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp tài chính phát triển thủy sản tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ngọt lớn, An Giang có thế mạnh về sản xuất lúa gạo và thủy sản. Hiện nay sản lượng lúa của An Giang lớn nhất toàn vùng; sản lượng khai thác thủy sản đứng thứ ba, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng theo địa phương lớn nhất toàn quốc (năm 2005 là 232.139 tấn, tăng 9,12% so với năm 2004 - Niên giám Thống kê 2005). Thời gian vừa qua, An Giang không chỉ nổi tiếng về xuất khẩu lương thực, mà còn vươn lên là một trong những tỉnh đứng đầu về xuất khẩu thủy sản của cả nước. Bằng việc thực hiện tốt mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hai hướng: khai thác tốt các thế mạnh của địa phương và tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, nếu vào năm 1995 kim ngạch xuất khẩu thủy sản chỉ bằng ¼ giá trị của xuất khẩu gạo, thì nay đã vượt qua và là ngành đứng đầu thu ngoại tệ về cho tỉnh. Có thể nói An Giang đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất đúng hướng và có hiệu quả. Do biết tận dụng ưu thế về tiềm năng nguồn nước và điều kiện tự nhiên, ngư dân An Giang đã tích cực đầu tư mọi nguồn lực để nuôi trồng và khai thác thủy sản, nên thời gian qua phát triển thủy sản đã là một trong nhiều thế mạnh về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của tỉnh, trong đó cá tra, cá basa là hai loại thủy sản thích hợp với môi trường nguồn nước tỉnh An Giang và có giá trị kinh tế cao, nên đã thu hút ngư dân tập trung đầu tư sản xuất và đã mang lại hiệu quả đáng kể, đã trực tiếp góp phần rất quan trọng trong việc tạo ra lượng hàng hóa xuất khẩu thu ngoại tệ cao và ngày càng khẳng định là một trong những ngành hàng phát triển mạnh, có hiệu quả trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh. 2 Ngành thủy sản ở An Giang đã tạo ra lượng hàng hóa xuất khẩu, đáp ứng khá ổn định nhu cầu thực phẩm và tạo công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện đáng kể đời sống nhân dân. Tuy nhiên, để phát triển ngành theo hướng sản xuất hàng hóa tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng cao, giá thành hạ nhằm tăng sức cạnh tranh, bảo vệ và giữ vững uy tín hàng thủy sản Việt Nam nói chung và hàng thủy sản của An Giang nói riêng trên thị trường thế giới, thì cần phải có những giải pháp thích hợp. Do đó, tôi đã chọn đề tài “Các giải pháp tài chính phát triển thủy sản tỉnh An Giang”. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này chỉ giới hạn làm rõ một số khía cạnh trên một số lĩnh vực chủ yếu của ngành thủy sản: nuôi trồng, khai thác, giống, chế biến, tiêu thụ thủy sản … và đi sâu phân tích con cá tra, basa vì nó chiếm kim ngạch xuất khẩu khoảng 85% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh. Luận văn được kết cấu ngoài phần mở đầu và kết luận, được chia thành ba chương gồm : Chương 1: Vai trò của đầu tư tài chính đối với phát triển ngành thủy sản tỉnh An giang. Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển ngành thủy sản tỉnh An giang. Chương 3: Các giải pháp tài chính phát triển thủy sản tỉnh An Giang. Luận văn này dựa trên cơ sở phân tích lý luận chung, phương pháp điều tra - thống kê, so sánh thực trạng ngành thủy sản của tỉnh. Từ đó đề xuất định hướng phát triển và một số giải pháp về tài chính để phát triển thủy sản tỉnh An Giang. Đây là vấn đề đòi hỏi kiến thức tổng hợp sâu rộng, cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong khi điều kiện nghiên cứu và kiến thức bản thân có hạn nên sẽ không tránh khỏi thiếu sót trong đề tài. Rất mong nhận được sự đóng góp của quí thầy cô và các bạn, xin chân thành cám ơn. 3 CHƯƠNG 1 VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN TỈNH AN GIANG 1.1. Tầm quan trọng của ngành thủy sản trong phát triển kinh tế của tỉnh An Giang: 1.1.1. Trong phát triển kinh tế của tỉnh: Trước tiên phân tích Vai trò của ngành thủy sản đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam: Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa và là một quốc gia ven biển có đường bờ biển dài khoảng 3.260 km, với bờ biển và thềm lục địa rộng lớn hơn 1 triệu km2, có nhiều cửa sông rạch và hàng ngàn đảo lớn nhỏ ven biển; trong nội địa có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt; hệ sinh thái phong phú đa dạng. Những đặc điểm trên tạo ra cho đất nước ta tiềm năng to lớn về thủy sản và kinh tế thủy sản có vị trí quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế góp phần thắng lợi trong việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Việt Nam ngành thủy sản đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế và là một trong những ngành mũi nhọn đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua ngành thủy sản nước ta luôn giữ tốc độ tăng trưởng cao cả về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị, đã tạo được nhiều việc làm góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân và bộ mặt nông thôn, giải quyết tốt các vấn đề môi trường sinh thái. Ngành thủy sản hiện nay đã trở thành một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất nước, trung bình từ năm 1995 đến năm 1999 mỗi năm đạt kim ngạch xuất khẩu trên 750 triệu USD, đặc biệt năm 2000 có sự tăng tốc vượt bậc xuất khẩu thủy sản gần 1,5 tỷ USD, và giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2004 đã là 2,4 tỷ USD. Trong những năm vừa qua ngành thủy sản luôn tăng trưởng trên dưới 9%/năm, chiếm không dưới 20% tổng giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thực sự trở 4 thành một ngành sản xuất chính (tổng hợp theo báo cáo hàng năm của Bộ Thủy sản).Việt Nam đã trở thành một trong những nước có kim ngạch xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới. Dự kiến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt trên 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,5 tỷ USD vào năm 2010. Như vậy, ngành thủy sản Việt Nam hàng năm đã thu về khoản ngoại tệ không nhỏ để xây dựng đất nước và cung cấp lượng hàng hóa tiêu dùng đáp ứng cho nhu cầu thị trường trong nước. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành thủy sản đã thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất xã hội ngày càng cao, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi để tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới. Như vậy, có thể thấy vai trò của ngành thủy sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn mà cả nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại mà Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010 văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần X đã đề ra. Sự phát triển không ngừng của nền kinh tế nước ta hiện nay, trong đó không thể không ghi nhận sự đóng góp của ngành thủy sản vào sự tăng trưởng GDP hàng năm của đất nước. Những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển thủy sản ở Việt Nam: Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế thì lĩnh vực quản lý ngành thủy sản phải thật sự được quan tâm, nếu không nói đó là một trong những lĩnh vực phải được đổi mới đầu tiên và quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế phải được thực hiện một cách đồng bộ trên cơ sở ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới ngành thủy sản nước ta thời gian qua đã có những bước phát triển mới. Kinh tế thủy sản có vị trí quan trọng trong nền kinh tế công– nông nghiệp. Việc phát triển ngành thủy sản, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 5 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Quán triệt những quan điểm của Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần VIII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 20 CT/TW ngày 22/09/1997 về “Đẩy mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa” và ngày 10/11/1998 Bộ Chính trị tiếp tục ra Nghị quyết 06 – NQ/TW về “Một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn”. Nghị quyết đã đánh giá những thành tựu phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong 10 năm qua đã góp phần quan trọng vào sự ổn định phát triển kinh tế – xã hội đất nước, tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng của nông nghiệp – nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt tồn tại và yếu kém cần giải quyết khắc phục, xác định quan điểm, mục tiêu, một số chủ trương và chính sách lớn về đất đai, lao động để tạo ra lực mới duy trì sự tăng trưởng cao và chuyển nông nghiệp sang giai đoạn phát triển toàn diện, nâng cao phát triển ngành thủy sản trong nền nông nghiệp toàn diện. Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg, ngày 08/12/1999 phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 – 2010. Quyết định đã chỉ rõ “Phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu, phấn đấu đến 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt trên 2 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 3,5 tỷ USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu người, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế– xã hội đất nước và an ninh ven biển”. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP, ngày 15/06/2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, nghị quyết đã đánh giá những thành tựu đã đạt được trong sản xuất nông, lâm, thủy sản của những năm qua, đồng thời đưa ra những định hướng về cơ cấu kinh tế nông nghiệp của nước ta trong 10 năm tới. 6 Tháng 11/2000, Bộ thủy sản đã ban hành Thông tư 05/2000/TT - BTS hướng dẫn việc thực hiện Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ. Thông tư hướng dẫn trong 10 năm tới kinh tế thủy sản cần phát triển theo định hướng sau: đầu tư phát triển mạnh mẽ ngành thủy sản trong các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ đặc biệt là nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển bền vững. Để thực hiện Nghị quyết số 243/1998/QĐ–TTg ngày 18/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 06 (lần 1) ngày 31/03/1999 Bộ thủy sản có chương trình phát triển kinh tế thủy sản 1999 – 2010 trong đó chỉ rõ tiềm năng, hiện trạng và sự cần thiết của sự phát triển kinh tế thủy sản, nêu những chủ trương giải pháp để phát triển kinh tế thủy sản bền vững, góp phần giữ vững an ninh thực phẩm, cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và tạo nguyên liệu chế biến cho xuất khẩu. Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định: “Phát huy lợi thế về thủy sản, tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh nuôi, trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, nhất là nuôi tôm, theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác khải sản xa bờ; chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn định khai thác gần bờ; nâng cao năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông nước, bảo đảm cho sự tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản”. Ngày 26/11/2003 Quốc Hội khóa XI đã biểu quyết thông qua Luật Thủy sản tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thủy sản của nước ta trong thời gian tới. Vai trò của ngành thủy sản đối với kinh tế tỉnh An Giang: An Giang có hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt với nguồn lợi thủy sản phong phú và đa dạng đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thủy sản. Trong thời gian qua ngành thủy sản An Giang luôn được củng cố và không 7 ngừng phát triển góp phần quan trọng vào việc ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tế, tạo nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, từng bước hình thành những cụm kinh tế chuyên ngành tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, là động lực để thúc đẩy ngành công – nông – thương nghiệp và dịch vụ phát triển, góp phần không nhỏ cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư đưa công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất. Tạo tiền đề để thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất, mở rộng phân công lao động về ngành nghề để sản xuất hàng hóa phát triển, làm nhân tố kích thích phát triển giữa các ngành các vùng nhất là gắn công nghiệp với nông - lâm - ngư nghiệp góp phần nâng cao đời sống dân cư trong cộng đồng. Ngành thủy sản An Giang đã giữ vai trò tích cực trong quá trình phát triển kinh tế. Tỉnh An Giang, thủy sản là một trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất tỉnh. Trong hơn 10 năm trở lại đây ngành thủy sản An Giang luôn có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai sau gạo. Đặc biệt, năm 2002 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 69,4 triệu USD, chiếm 47,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh và đây là lần đầu tiên xuất khẩu thủy sản đã vượt qua gạo (62,2 triệu USD) chiếm vị trí số một. Năm 2003 do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa nên kim ngạch chỉ đạt 54,8 triệu USD chỉ bằng 79% so với năm 2002. Tuy nhiên năm 2004 ngành thủy sản đã được phục hồi và phát triển mạnh, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục chiếm vị trí đầu và đạt 122 triệu USD (gạo 92,4 triệu USD, cả tỉnh là 240 triệu USD). Trong năm 2005, kế hoạch kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh là 300 triệu USD, trong đó thủy sản 130 triệu USD và gạo 125 triệu USD. Như vậy, hiện tại và trong thời gian tới thủy sản sẽ là ngành đứng đầu mang ngoại tệ về cho tỉnh nhà. Xét trên cơ cấu nông, lâm, thủy sản thì từ năm 1999 đấn nay ngành thủy sản luôn chiếm tỷ trọng hơn 10% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp của tỉnh và tỷ trọng này có xu hướng ngày càng tăng: nếu như năm 1999 chỉ là 12,28 %, thì năm 2004 đã là 17,42% và dự kiến năm 2005 sẽ là 18,59%. Sự phát triển của ngành thủy sản đã tác động tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công 8 nghiệp và dịch vụ. Thế mạnh tài nguyên thủy sản được chủ động khai thác, từ đó giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, từng bước thay đổi dần bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống cộng đồng, tạo cảnh quan đặc thù của An Giang, góp phần phát triển mô hình du lịch sinh thái. Quá trình đổi mới của đất nước, sự phát triển kinh tế của An Giang, trong đó có kinh tế thủy sản đã góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta, giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc vận dụng cơ chế thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất và phân công lao động xã hội, tạo ra nguồn lực vật chất lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư hiện đại hóa sản xuất, sự phát triển đồng bộ giữa các ngành – vùng nhất là nông thôn và thành thị, gắn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lâm – ngư – thương nghiệp và dịch vụ. 1.1.2. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững có cơ cấu hợp lý, trên cơ sở phát huy nội lực và khai thác chiều sâu các tiềm năng lợi thế về sản xuất lương thực và thủy sản. Đến năm 2010, ngành nông, lâm, thủy sản của An Giang vẫn là nền tảng, là cơ sở để phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Cụ thể hơn là ngành nông, lâm, thủy sản được phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa gắn chặt với ngành công nghiệp chế biến và các hoạt động thương mại, đặc biệt là xuất khẩu, nhằm tạo đà phát triển mạnh mẽ cho kinh tế nông thôn nói riêng và cả tỉnh An Giang nói chung. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải phát huy cao lợi thế của từng vùng và từng khu vực nhưng phải phù hợp với điều kiện thị trường, tập trung vào các loại cây trồng vật nuôi, hàng hóa có thị trường tiêu thụ, có khả năng cạnh tranh, tạo điều kiện làm ra sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường, tiêu thụ đạt giá trị cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn do nông dân và các thành phần kinh tế thực hiện. Nhà nước hướng dẫn và tạo điều kiện hỗ trợ thông 9 qua việc xây dựng kết cấu hạ tầng, nghiên cứu và chuyển giao khoa học kỹ thuật, tạo hành lang pháp lý có cơ chế, chính sách thuận lợi, tổ chức cung ứng giống và vật tư nông nghiệp đảm bảo chất lượng, thúc đẩy chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn phải đảm bảo các yêu cầu phát triển bền vững, an toàn về mặt kỹ thuật trong điều kiện lũ lụt, thiên tai, dịch bệnh có thể xảy ra, phản ứng linh hoạt trước biến động của thị trường, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Chuyển dịch cơ cấu và phát triển nông nghiệp nông thôn phải đạt mục tiêu cơ bản: xây dựng một vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển bền vững, với các loại nông sản là thế mạnh có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao, nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên nông nghiệp, đồng thời phát triển công nghiệp, dịch vụ, tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân, góp phần tích cực đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thực hiện các mục tiêu do Đại hội Đảng lần VIII tỉnh An Giang đề ra đối với nông nghiệp và nông thôn. Xét trên cơ cấu nông, lâm, thủy sản thì từ năm 1999 đấn nay ngành thủy sản luôn chiếm tỷ trọng hơn 10% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh và tỷ trọng này có xu hướng ngày càng tăng: nếu như năm 1999 chỉ là 12,28 %, thì năm 2005 là 17,27%. Sự phát triển của ngành thủy sản đã tác động tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Thế mạnh tài nguyên thủy sản được chủ động khai thác, từ đó giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, từng bước thay đổi dần bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống cộng đồng, tạo cảnh quan đặc thù của An Giang, góp phần phát triển mô hình du lịch sinh thái. Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị sản phẩm nông – lâm – ngư nghiệp trung bình hàng năm trong thời kỳ 2004-2010: 5,4%, trong đó: nông nghiệp 4,31%, lâm nghiệp 3,96% và thủy sản 9,9%. Trong đó, phát triển thủy sản trên quan điểm kết hợp hợp lý giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, đưa ngành thủy sản thành ngành mũi nhọn của tỉnh; đặc biệt quan tâm đến chất lượng cá 10 nuôi. Quy hoạch vùng nuôi cá hợp lý trên cơ sở bảo vệ môi trường nguồn nước; phát triển nhanh, vững chắc việc nuôi tôm càng xanh ở chân ruộng, bãi bồi ven sông và kênh rạch. Gia tăng mức đóng góp giá trị GDP của ngành thủy sản năm 2010 vào GDP của ngành nông nghiệp là 20,4% và của toàn tỉnh là 4,7%, kim ngạch xuất khẩu là 350 triệu USD. Quá trình đổi mới của đất nước, sự phát triển kinh tế của An Giang, trong đó có kinh tế thủy sản đã góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta, giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc vận dụng cơ chế thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hóa sản xuất và phân công lao động xã hội, tạo ra nguồn lực vật chất lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, đầu tư hiện đại hóa sản xuất, sự phát triển đồng bộ giữa các ngành - vùng nhất là nông thôn và thành thị, gắn sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình phát triển lâm - ngư - thương nghiệp và dịch vụ. 1.1.3. Trong tích lũy và đóng góp vào nguồn thu ngân sách Nhà nước: Tỷ trọng chi phí sản xuất xuất thủy sản từ năm 1995 – 2004 ngày càng tăng mạnh, tăng chủ yếu là ngành nuôi thủy sản (chủ yếu cá xuất khẩu), ngành chế biến, bên cạnh đó còn phát triển dịch vụ phục vụ cho nuôi thủy sản (dịch vụ thức ăn thủy sản, thuốc thú y thủy sản), chế biến (dịch vụ vận chuyển cá thương phẩm, phụ phẩm). Sự phát triển của ngành thủy sản đã thu hút số lượng lớn lực lượng lao động của tỉnh, trong tương lai có thể ngành thủy sản sẽ phát triển thành quy mô công nghiệp. ”Sản lượng cá ngày càng tăng, năm 1990 sản lượng cá nuôi chỉ đạt 7.714 tấn, đến năm 1995 đạt 35.060 tấn, tăng lên 3,5 lần, năm 2000 đạt 80.032 tấn tăng 9,3 lần và đến năm 2005 đạt 180.809 tấn tăng 23,4 lần so năm 1990, một tốc độ tăng không thể ngờ tới.” Chế biến đông lạnh thủy sản là một trong những ngành chế biến quan trọng của tỉnh, nguồn nguyên liệu từ thủy sản thiên nhiên trên sông Mêkông và cá nuôi bè, ao hầm, đăng quầng trong tỉnh; phát triển mạnh từ năm 1995 đến nay. Toàn tỉnh có 11 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh công suất 89.800 tấn/năm với tổng vốn đầu tư: 592.170 triệu đồng. Trong giai đoạn 2001 đến 2005, các doanh 11 nghiệp chế biến hàng đông lạnh thủy sản đóng góp vào ngân sách tỉnh 60 tỷ đồng. Vì thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nên Nhà nước miễn thuế cho các hộ nuôi trồng thủy sản. 1.2. Vai trò của đầu tư tài chính đối với phát triển ngành thủy sản tỉnh An Giang: Về công nghệ chế biến, cần đầu tư vốn cho nâng cấp và xây dựng các nhà máy chế biến với công nghệ tiên tiến hiện đại, nâng công suất chế biến, đa dạng hoá các mặt hàng từ thủy sản, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hầu hết, các doanh nghiệp chế biến thủy sản đều đăng ký thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế như: ISO, HACCP, chứng nhận HALAL của tổ chức cộng đồng người Hồi giáo, Code xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU… Vì máy móc công nghệ là khâu quyết định chất lượng của sản phẩm nên không thể mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mà không đầu tư lớn cho máy móc công nghệ. Tài chính còn là điều kiện để xây dựng phát triển các ngành sản xuất nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất sản phẩm có giá rẻ, một lợi thế của An giang để cạnh tranh thị trường thế giới. Trước mắt cần đầu tư vốn cho phát triển con giống có chất lượng tốt, muốn vậy các cơ sở sản xuất giống phải đầu tư mua cá thể bố mẹ dùng để nuôi thuộc trại gốc, tốt, chất lượng phù hợp tiêu chuẩn chất lượng giống. Có đội ngũ nhân viên có trình độ từ trung cấp nuôi thủy sản trở lên. Phải sản xuất đúng phạm vi, chuẩn loại sản xuất phải làm thủ tục lên cơ quan quản lý xem xét, phê duyệt. Việc sản xuất giống thủy sản phải tuân thủ quy trình thao tác kỹ thuật sản xuất do Bộ thủy sản quy định, bảo đảm chất lượng giống. Về đầu tư cho công nghệ nuôi trồng, phải lập các thiết kế mẫu, hướng dẩn ngư dân kỹ thuật, xây dựng vùng nuôi đúng tiêu chuẩn, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng khu vực, tránh gây ô nhiểm nguồn nước, vì vậy cần đầu tư để nuôi cá sạch, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt cho người dân sống trong vùng lân cận. Hiện nay ở An Giang đang phát triển mô hình trang trại nuôi cá, vì thế cần đầu vốn cho việc nuôi cá đảm bảo chất lượng, không chứa chất kháng sinh. 12 Vốn cho phát triển thủy sản là rất lớn (nuôi thủy sản, chế biến thủy sản, dịch vụ…), hiện nguồn vốn cho nhu cầu phát triển thủy sản là nguồn vốn tín dụng (thế chấp, bè, đất, nhà …), cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển thủy sản (nuôi, chế biến thủy sản) nhằm thu hút nguồn vốn cho ngành. Vấn đề quan trọng hiện nay là chiến lược đào tạo con người để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vốn cho đào tạo công nhân cũng là một vấn đề nan giải. Vì hầu hết lao động việt Nam còn mang tính lao động giản đơn, chưa được đào tạo nhất là trong lĩnh vực chăn nuôi cá sạch và chế biến sản phẩm từ cá cho đa dạng và phong phú hơn. Do vậy, cần thiết phải đầu tư chi phí cho đào tạo để đáp ứng chất lượng sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Việc đào tạo con người để có một nghề nghiệp vững chắc là một chiến lược chung của cả nước, cũng như của một ngành sản xuất. Nếu công việc đào tạo không được quan tâm đầu tư đúng mức sẽ làm cho hiệu quả của sản xuất bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngành sản xuất đó. Có thể nói trong nhiều năm qua việc đào tạo nghề cho công nhân ở An Giang là chưa được đầu tư đúng mức cho ngành thủy sản. Do đó đã tạo ra một lớp công nhân mà tay nghề thiếu sự đảm bảo cho cuộc cạnh tranh gay gắt. Cần phải nhận thức đúng đắn rằng sự tinh thông nghề nghiệp là yếu tố quyết định sự thắng lợi trên thị trường. Máy móc công nghệ thì có thể mua, nhưng con người sử dụng công nghệ thì không thể mua được, mà chỉ có đào tạo mới có. Bên cạnh đầu tư để đào tạo công nhân, việc đào tạo các nhà quản trị các nhân viên phục vụ cho quá trình quản trị các doanh nghiệp cũng là một vấn đề không thể không quan tâm, và tất yếu việc đào tạo các nhà quản trị cũng cần có sự đầu tư vốn nhất định. Tính đồng bộ về nhân sự cho phép nâng cao hiệu quả sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất và do đó nâng cao hiệu quả cạnh tranh trên thị trường. Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất, nó sẽ nói lên rằng việc sản xuất có hiệu quả hay không. Do vậy việc đầu tư cho việc tìm kiếm thêm thị trường cho mặt hàng thủy sản chế biến là hết sức quan trọng để ổn định và phát triển sản xuất. Công việc xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ, quãng cáo thương mại đều 13 cần phải có các chính sách tài chính hỗ trợ. Các nguồn tài chính trong việc phát triển ngành thủy sản ở An Giang là: - Trước hết đó là nguồn tài chính của chính phủ: từ vốn ngân sách nhà nước của ngân hàng nhà nước. - Nguồn tài chính từ thị trường tài chính, thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu kho bạc. Các định chế tài chính trung gian bao gồm cá quỹ tín dụng đầu tư, Quỹ phát triển, Quỹ bảo hiểm, Quỹ tương hỗ, Quỹ hưu trí, Quỹ bảo hiểm xã hội. - Nguồn tài chính từ các quỹ tín dụng, các ngân hàng thương mại của Việt Nam, các ngân hàng liên doanh, các ngân hàng vốn 100% của nước ngoài ở Việt Nam tạo ra các nguồn vốn vay tín dụng trong và ngoài nước. - Nguồn tài chính từ các liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh. - Nguồn tài chính từ đầu tư trực tiếp của mọi thành phần kinh tế trong nước tham gia vào việc phát triển ngành Thủy sản tỉnh An giang. Nhà nước khuyến khích mọi người dân đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh mặt hàng thủy sản. Thành lập các công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu (Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản An Giang là ví dụ điển hình). Khi thành lập, mời gọi thêm vốn đầu tư, đa dạng hoá các hình thức góp vốn trên thị trường. Đây nguồn vốn quan trọng nhất để phát triển. Nguồn tài chính từ vốn nước ngoài bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp, vay nợ (ODA), nhận viện trợ (NGO) cho việc tổ chức sản xuất kinh doanh ngành thủy sản, đặc biệt sự giúp đỡ của nước ngoài trong việc nâng cao chất lượng quản lý, sản xuất, xúc tiến thương mại… khuyến khích các doanh nghiệp tự sử dụng một phần lợi nhuận của mình nhằm gia tăng vốn sở hữu của doanh nghiệp. Điều đó cho phép doanh nghiệp hoặc có thể mua sắm thêm máy móc thiết bị, hoặc cải tiến công nghệ sản xuất, hoặc tự đảm bảo một phần vốn lưu động,hạ thấp tỷ lệ vốn lưu động đi vay để chủ động trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian vừa qua, việc phát triển ngành thủy sản An giang là một nổ lực đáng kể của Đảng, Nhà nước và nhân dân tỉnh An giang. 14 Tổng số hộ nuôi thủy sản trong toàn tỉnh là 13.464 hộ; trong đó nhiều nhất là nuôi ao, hầm 9.351 hộ chiếm 69,5%, nuôi bè 1.897 hộ chiếm 14,1% và 2216 hộ nuôi đăng quầng chiếm 16,4%. 1.3. Các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển ngành thủy sản An Giang: 1.3.1. Nguồn vốn trong nước: 1.3.1.1. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành thuỷ sản tỉnh An Giang, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển ngành thủy sản tỉnh An Giang, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 64/QĐ.UB ngày 18/01/1999 v/v phê duyệt Đề án phát triển Thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 1999 – 2000 và đến năm 2005. Trong thời gian này, ngân sách tỉnh An Giang đã đầu tư 461,4 tỷ đồng để phục vụ cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản, cụ thể việc xây dựng hệ thống thủy lợi phục vụ cho phát triển nuôi thủy sản ao hầm và chân ruộng. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản vay vốn ưu đãi 17,2 tỷ đồng để đầu tư mới máy móc thiết bị hoặc đầu tư mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng để việc tiêu thụ sản phẩm theo hướng xuất khẩu được thuận lợi hơn. Bảng 1.1: Vốn đầu tư phát triển các ngành của tỉnh thời kỳ 1999 - 2005 ĐVT: Triệu đồng Năm Toàn tỉnh Nông Lâm Thủy sản Các ngành khác 1999 916011 178757 2055 735199 2000 2606381 377377 81748 2147256 2001 2701907 308739 73768 2319400 2002 3253688 546799 68739 2638150 2003 3642145 565172 63947 3013026 2004 4047725 605495 77793 3364437 2005 4632098 782161 93350 3756587 TĐPTBQ 131.01 127.89 188.89 131.24 Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang từ 2000 đến 2005. 15 Nếu như tốc độ phát triển bình quân vốn đầu tư của toàn tỉnh 31% và các ngành khác là 31,24% thì ngành thủy sản là 89%. Chứng tỏ sự quan tâm hàng đầu của lãnh đạo tỉnh An Giang về việc phát triển ngành thủy sản. Vì thực tế đã chứng minh tốc độ phát triển GDP bình quân ngành thủy sản tỉnh An Giang là 9,2% (gần bằng 10%) trong thời kỳ từ 1999 đến năm 2005. Bên cạnh đó, trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005 tỉnh cũng đã đầu tư cho chương trình phát triển thủy sản là 17,236 tỷ đồng được thể ở bảng sau: Bảng 1.2: Vốn đầu tư chương trình thủy sản từ ngân sách địa phương từ 2000 – 2005 ĐVT:Triệu đồng Vốn đầu tư Danh mục công trình 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng cộng STT Tổng số 500 3317 3117 1314 2350 6638 17236 1 Trại tôm Bình Thạnh 1814 1717 70 600 4201 2 Trại SX cá giống MHH 88 88 3 Vùng thủy sản Tân Hòa 500 61 561 4 Quy hoạch vùng nuôi cá bè 20 20 5 Trại giống thủy sản Mỹ Thạnh 1334 1400 244 210 3188 6 Trại kiểm ngư 1000 1000 7 Trung tâm khuyến nông 1140 6638 7778 8 Vùng nuôi tôm Thoại Sơn 400 400 (Nguồn Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh An Gi._.ang) Tình hình đầu tư vốn tài sản cố định và lưu động giai đoạn 2000 – 2005 được thể hiện ở bảng sau: Bảng 1.3: Vốn đầu tư tài sản cố định phát triển ngành thủy sản thời kỳ 2001 – 2005 ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng vốn 73.768 68.739 63.947 77.793 93.350 TSCĐ 53.825 46.689 38.839 46.326 56.010 Vốn lưu động 19.943 22.050 25.108 31.467 37.347 Nguồn: Niên giám thống kê An Giang năm 2005 16 1.3.1.2. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Kể từ khi mặt hàng cá Basa, cá Tra đông lạnh được thị trường nước ngoài ưa chuộng vào năm 1998 và các cơ sở ương giống thành công trong việc nhân giống nhân tạo cá Tra và cá Basa kích thích việc nuôi trồng thủy sản phát triển, từ đó các doanh nghiệp chế biến thủy sản lần lượt ra đời. Nếu 1997 chỉ mới có 01 doanh nghiệp thì đến 2006 toàn tỉnh đã có 11 doanh nghiệp chế biến thủy sản lạnh với tổng vốn đầu tư: 592,17 tỷ đồng, công suất 89.800 tấn/năm. Thực hiện Đề án phát triển cá tra, basa giai đoạn 2000 – 2005, 2010, UBND tỉnh khuyến khích các thành phần kinh tế trong vùng, trong nước và nước ngoài đầu tư tham gia chế biến hàng thủy sản xuất khẩu , chuyển giao công nghệ, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động mà chủ yếu là lao động nữ của tỉnh và các vùng lân cận. Nguồn vốn này được đầu tư từ vốn tự có và vốn vay các ngân hàng thương mại của các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh. 1.3.1.3. Nguồn vốn đầu tư từ kinh tế tư nhân và dân cư. Cách đây gần 100 năm, người dân An Giang đã biết nghề nuôi cá hầm, bè, tuy nhiên chủ yếu nuôi cá tra với diện tích ao nhỏ, qui mô gia đình và để bán chợ. Qui mô nhỏ mang tính thủ công và nhỏ lẻ. Điều kiện nuôi kém vệ sinh về nguồn thức ăn cho cá và cả nguồn nước bị ao tù, không tháo nước ra vào hầm, đưa đến chất lượng thịt không ngon, có màu vàng, và vị bị hôi mùi cỏ và thường tiêu thụ cho dân có thu nhập thấp (mà người dân hay gọi là cá vồ). Trong thời gian này, nguồn cá sông tự nhiên rất dồi dào phong phú, có rất nhiều loại cá ngon dễ đánh bắt nên nghề nuôi cá hầm, bè hầu như không phát triển được. Mãi cho đến những năm của thập niên 70, tình hình chính trị của Campuchia biến động, một số kiều bào đã về nước định cư tại Châu Đốc, Tân Châu, An Phú. Những huyện này là đất biên giới, thượng nguồn của dòng sông Mekong khi chảy qua Việt Nam. Khi còn ở campuchia họ đã sống bằng nghề nuôi cá bè nên nghề nuôi cá được phát triển hết sức thuận lợi. Đến năm 1986 khi Nhà nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì việc tiêu thụ cá tươi ở thành phố Hồ Chí Minh có dấu hiệu phát triển. Nên việc phát triển nghề nuôi cá ở An giang lại càng phát triển. 17 Tổng số hộ nuôi thủy sản trong toàn tỉnh là 13.464 hộ; trong đó nhiều nhất là nuôi ao, hầm 9.351 hộ chiếm 69,5%, nuôi bè 1.897 hộ chiếm 14,1% và 2216 hộ nuôi đăng quầng chiếm 16,4%. Trong đó, có 195 doanh nghiệp chăn nuôi cá hầm, bè với tổng vốn đầu tư: 224,993 tỷ đồng. (nguồn Sở Kế hoạch & Đầu tư tỉnh An Giang). Nằm rãi rác khắp các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Thị xã Châu Đốc, thành phố Long Xuyên. 1.3.1.4. Nguồn vốn vay từ ngân hàng. Nhằm phục vụ cho việc phát triển sản xuất và tiêu thụ thủy sản trong toàn tỉnh, các ngân hàng thương mại tỉnh An Giang đã tích cực cho vay các doanh nghiệp chế biến hàng thủy sản đông lạnh cụ thể như sau: Bảng 1.4: Ngân hàng cho vay chế biến thủy sản thời kỳ 2001 - 2005 ĐVT: Triệu đồng 2001 2002 2003 2004 2005 Cho vay 312.735 751.302 711.970 1.362.963 1.270.059 Thu nợ 315.493 650.396 709.333 1.273.565 1.312.763 Dư nợ 52.199 153.105 155.742 245.332 202.749 Nguồn: Các ngân hàng Thương mại tỉnh An Giang. Nhìn bảng trên ta nhận có sự gia tăng đột biến về việc vay vốn của các doanh nghiệp chế biến từ 312,7 tỷ đồng năm 2001 tăng lên 751,3 tỷ đồng vào năm 2002 và từ 711,9 tỷ đồng năm 2003 tăng lên 1.270 tỷ đồng năm 2004, tốc độ phát triển cho vay bình quân trong thời kỳ này gần 42%. Như vậy, trong giai đoạn này ngành ngân hàng đã cho vay 4.409 tỷ đồng. Bảng 1.5: Ngân hàng cho vay nuôi trồng thủy sản thời kỳ 2001 – 2005 ĐVT: Triệu đồng 2001 2002 2003 2004 2005 Cho vay 112 204 273 482 835 Thu nợ 102 127 208 391 703 Dư nợ 114 191 256 347 478 Nguồn: Các ngân hàng Thương mại tỉnh An Giang. 18 Song song với việc cho vay chế biến thủy sản thì các ngân hàng cũng hỗ trợ cho các hộ nuôi thủy sản vay tổng cộng 1.906 tỷ đồng để các hộ này làm vốn lưu động nuôi cá, qua bảng trên ta nhận thấy kể từ năm 2003 đến 2005 các hộ nuôi cá đã từ 273 tỷ đồng năm 2003 lên 482 tỷ đồng năm 2004 và năm 2005 là 835 tỷ đồng. Tốc độ phát triển cho vay các hộ nuôi cá của các ngân hàng thương mại là 65,2%. 1.3.1.5. Nguồn vốn cổ phần của các công ty cổ phần. Toàn tỉnh, chỉ mới có 01 công ty hoạt động lãnh vực thủy sản được cổ phần hoá. Đó là công Cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang (AGIFISH Co) Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang được thành lập từ việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là công ty xuất nhập khẩu thủy sản An Giang theo quyết định số 792/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 28/6/2001, được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp do quốc hội Nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/6/1999. Ngày 01/9/2001, Công ty chính thức hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và công ty được cấp phép niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam ngày 8/3/2002. Ngày 2/5/2002 cổ phiếu của công ty được chính thức niêm yết trên thị trường Chứng khoán Việt Nam. Từ ngày 01/9/2002 công ty đã đưa 38 mặt hàng giá trị gia tăng được chế biến từ cá Basa vào tiêu thụ tại thị trường nội địa, năm 2003 đã phát triển thêm gần 40 sản phẩm, nâng tổng số mặt hàng tiêu thụ là 70 sản phẩm, năm 2004 phát triển thêm 30 mặt hàng nâng tổng số mặt hàng tiêu thụ lên đến trên 100 sản phẩm. Công ty Agifish đạt 6 huy chương vàng và 01 sản phẩm độc đáo tại hội chợ Vietfish 2004 và lần đầu tiên các sản phẩm chế biến từ cá Basa, Tra (mỡ cá, cá xiên que tẩm kem, sa tế. Chạo cá, chả giò…) được xuất sang các nước Âu, Á, Mỹ, Úc… đạt danh hiệu “Hàng Việt nam chất lượng cao” năm 2003 – 2004 do người tiêu dung bình chọn. Thương hiệu Agifish là thương hiệu mạnh năm 2004 do bạn đọc Thời báo kinh tế Việt Nam, Báo điện tử Thời báo kinh tế Việt nam và triển lãm thương hiệu Việt Nam trên internet bình chọn. Liên tục các năm 2002 đến 2005 công ty được tặng thưởng cờ thi đua của chính phủ trong việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất 19 kinh doanh góp phần vào sự phát triển chung của ngành thủy sản Việt Nam. Công ty Agifish chính thức là thành viên của VASEP, VCCI, G18, AFA. Đến nay, Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh An Giang (AGIFISH) có tổng vốn đầu tư: 251.633 triệu đồng trong đó tài sản cố định: 100.862 triệu đồng. 1.3.2. Nguồn vốn nước ngoài: 1.3.2.1. Nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đây là nguồn vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đem vốn vào một nước để đầu tư trực tiếp bằng việc tạo ra những doanh nghiệp FDI trong những thập kỹ qua tăng rất nhanh, FDI đã và đang trở thành hình thức huy động vốn nước ngoài phổ biến của nhiều nước đang phát triển khi mà các luồng dịch chuyển vốn tư các nước phát triển đi tìm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để gia tăng khai thác về lợi thế so sánh. Nguồn vốn FDI không chỉ đơn thuần đưa vốn ngoại tệ vào nước sở tại, mà còn kèm theo chuyển giao công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và khả năng tiếp cận thị trường thế giới, tiếp nhận FDI lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đang phát triển. Song, điều quan trọng đặt ra cho các nước tiếp nhận là phải khai thác triệt để các lợi thế có được của nguồn vốn này nhằm đạt được tổng thể cao về kinh tế. Vì FDI cũng có những mặt trái của nó. Vốn FDI về thực chất cũng là một khoản nợ; trước sau nó vẫn không phải là nguồn chi phối của nước sở tại. Ngày hôm nay, nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào và hết hạn họ lại rút ra, giống như các khoản nợ, có vay có trả. Vả lại, trong các khoản vay nợ, thông thường mức lãi suất do hai bên thoả thuận trước, còn trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư bao giờ cũng mưu cầu lợi nhuận tối đa. Hơn nữa, đối với các khoản nợ, người đi vay có toàn quyền sử dụng vốn vay, người cho vay không có quyền can thiệp, miễn là người đi vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền vay và lãi; còn trong FDI, chủ đầu tư vẫn toàn quyền sử dụng vốn, nếu là hình thức 100% vốn nước ngoài, còn nếu là hình thức liên doanh thì quyền đó cũng bị chia sẽ dựa theo tỷ lệ góp vốn. đó là chưa kể đến việc các nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều thiệt thòi do phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu tư hay bị các nhà đầu tư nước ngoài tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các nhân tố đầu vào, cũng như bị chuyển giao những công nghệ và kỹ thuật lạc hậu. 20 Tại An Giang, từ năm 1988 đến năm 2005 chỉ thu hút được 27,416 triệu USD tập trung vào ngành công nghiệp, và ngành du lịch, không có đầu tư vào lãnh vực thủy sản. 1.3.2.2. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA). Đây là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác phát triển do chính phủ các nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức liên chính phủ và các tổ chức phi chính phủ cho một nước tiếp nhận. Nguồn vốn ODA bao gồm viện trợ không hoàn lại, các khoản cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, khối lượng vốn vay và thời hạn thanh toán, nhằm vào hỗ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ các chương trình dự án. Nguồn vốn ODA tuy có ưu điểm về chi phí sử dụng, nhưng các nước tiếp nhận viện trợ thường xuyên phải đối mặt với những thử thách rất lớn đó là gánh nặng nợ quốc gia trong tương lai, chấp nhận những điều kiện và ràng buộc khắc khe về thủ tục chuyển giao vốn, đôi khi còn gắn cả những điều kiện về chính trị. Mỗi tổ chức, mỗi chính phủ đều có những phương cách và thông lệ riêng trong việc cung cấp ODA nhằm để đạt được những mục tiêu chính sách riêng của họ. Với những ràng buộc về chính trị không phải nước nào cũng có thể nhận được viện trợ hoặc sử dụng có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng của mình. Còn đối với điều kiện kinh tế, điển hình nhất là IMF và WB đều đưa ra cung cách áp đặt nước nhận tài trợ phải tiến hành những chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo một khuôn khổ nhất rất cứng nhắc. Thực tế, cung cách đó đã mang lại những hệ quả tốt lẫn xấu trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn này. 21 Chương 2 Thực trạng đầu tư phát triển ngành thủy sản tỉnh An Giang. 2.1. Thực trạng của ngành thủy sản tỉnh An giang. 2.1.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội tác động đến việc phát triển ngành thủy sản tỉnh An giang: * Điều kiện tự nhiên: - Vị trí địa lý, địa hình: An Giang là một tỉnh Tây Nam của Tổ quốc, nằm trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nằm giữa hai dòng sông Tiền, sông Hậu và dọc theo hữu ngạn sông Hậu (thuộc hệ thống sông Mêkông). Phía Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 100km, phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang và phía Đông Nam giáp thành phố Cần Thơ. Diện tích toàn tỉnh là 3.406 km2 bằng 1,05% diện tích toàn quốc và bằng 8,71% diện tích toàn vùng ĐBSCL (đứng thứ 4 trong vùng). Hiện có 11 đơn vị hành chính trực thuộc với 150 đơn vị xã, phường, thị trấn. Đường giao thông thủy, bộ khá thuận tiện. Hệ thống sông Cửu Long chảy qua địa phận tỉnh An Giang suốt từ Bắc xuống Nam có vai trò quyết định đến đặc trưng về địa hình của tỉnh. Sông Cửu Long với nguồn nước phong phú chảy vào đồng bằng châu thổ qua hai tuyến: sông Tiền và sông Hậu. Hai nhánh sông Cửu Long chảy qua địa phận tỉnh cùng với hai nhánh sông Châu Đốc và Vàm Nao và hệ thống kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài 5.170 km là điều kiện thuận lợi cho nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trên địa bàn tỉnh An Giang. Địa phận tỉnh An Giang phân thành ba vùng với những đặc trưng rõ rệt bao gồm: vùng cù lao, vùng đồng bằng thuộc tứ giác Long Xuyên chủ yếu do phù sa sông Tiền và sông Hậu tạo nên, vùng đồi núi thấp. 22 Nhìn chung, địa hình An Giang không phức tạp và khá thuận lợi cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác. Toàn vùng nhận được nước ngọt quanh năm từ hệ thống sông Cửu Long chảy vào hệ thống kênh rạch chằng chịt trong nội đồng rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Tất cả những điều kiện đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề khai thác thủy sản, nuôi cá lồng bè, nuôi cá tôm, thủy đặc sản trong ao và trong các hệ thống đa canh. Đồng thời, điều kiện địa hình còn có tác dụng trữ nước trong mùa kiệt. - Khí hậu: Tỉnh An Giang chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao và ổn định. Lượng mưa tương đối lớn và phân bổ theo mùa. Nhiệt độ bình quân ổn định quanh năm, tương đối đồng nhất theo không gian. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho quần thể sinh trưởng, trong đó quá trình quang hợp của phiêu sinh vật nhận năng lượng từ ánh sáng mặt trời tạo ra sinh khối thức ăn, dưỡng khí cho nguồn nước, tạo điều kiện thuận lợi cho nguồn lợi thủy sinh phát triển. Chế độ mưa phân hóa theo mùa khá rõ rệt. Tổng lượng mưa năm ở An Giang ít biến động qua các năm. Mùa mưa trùng với gió mùa Tây Nam, mùa khô trùng với gió mùa Đông Bắc. Mưa góp phần vào dòng chảy trên các tuyến sông và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề nuôi trồng thủy sản về các mặt như mang lại nguồn đạm, nguồn ôxy khuyếch tán vào thủy vực. Cường độ mưa cao giúp quá trình vật đẻ của cá xảy ra nhanh hơn. Mưa góp một lượng nước lớn làm chảy tràn các vùng trũng nội địa, làm tăng diện tích mặt nước, tạo vi khí hậu… Đồng thời, tạo nguồn nước mát trong các thủy vực, đó là môi trường thuận lợi để cá tôm và các sinh vật làm thức ăn cho cá, tôm…. có điều kiện sinh sôi, phát triển. Gió mùa Tây Nam (từ tháng 05 – tháng11 ) đem nước mưa cộng với nước tuyết tan từ thượng nguồn, dâng lũ, dồn về hai ngã, một trong hai ngã đổ vào biển hồ, mở rộng vùng ngập, nước chảy tràn bờ cuốn theo chất mùn bã và phát triển phiêu sinh tạo điều kiện thuận lợi cho cá đẻ trứng và cá non tăng trưởng. Cuối mùa gió Nam sau đỉnh lũ, dòng nước chảy xiết về phía hạ lưu mang theo nguồn lợi thủy sản dồi dào và phong phú chủng loại. 23 Vào thời điểm gió mùa Đông Bắc (từ tháng 12 đến tháng 04 ) thì mưa lũ chấm dứt, dòng sông chính hạ mực nước, chảy chậm lại, nước trong dần. Cá trắng rời bỏ đồng lụt tuột xuống dòng chính và di chuyển ngược về biển hồ. Cá đen gom về các trũng nội địa. Nắm được qui luật gió mùa và sự di trú của cá, người dân An Giang đã tổ chức nhiều hình thức đánh bắt thủy sản; vì vậy ngành thủy sản trong tỉnh đã phát triển từ rất sớm và ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển. -Thủy văn – nguồn nước: An Giang là tỉnh đầu tiên sử dụng nguồn nước ngọt của hệ thống sông Cửu Long từ Campuchia chảy qua theo sông Tiền và sông Hậu. Chế độ thủy văn An Giang phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước sông Cửu Long và chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố chính là chế độ thủy triều, chế độ dòng chảy sông Cửu Long, chế độ mưa nội đồng và đặc điểm về địa hình, hình thái sông rạch. An Giang có chế độ bán nhật triều, với hai lần triều lên và hai lần triều xuống trong ngày. Hàng năm vào mùa lũ, dòng nước từ thượng nguồn đổ về làm ngập lụt gần 70% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, với độ ngập phổ biến từ 1 – 2,5 m đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn. Mùa lũ nước từ thượng nguồn chảy xuống xuôi theo một chiều (bắt đầu từ tháng 06 và kết thúc vào tháng 11). Mùa kiệt, toàn bộ hệ thống sông ngòi, kênh mương chảy theo hai chiều. Trong đó, mùa lũ chiếm 70 – 80% tổng lưu lượng dòng chảy trong năm. Dòng chảy mùa lũ đem nước từ Biển Hồ tuôn ra dòng Tonlésap, lùa bầy cá non về hạ lưu thuộc lãnh thổ nước ta, qua hai ngã sông Tiền và sông Hậu. Đây là cơ sở để làng quê An Giang hình thành nên nghề khai thác và ương nuôi cá từ bao đời nay. Dòng chảy đem nguồn phiêu sinh, nguồn dưỡng khí dồi dào làm tăng sinh khối thủy vực, đồng thời làm tăng trưởng nghề nuôi cá lồng bè ở An Giang từ dạng tồn trữ, nuôi bán thâm canh chuyển sang nuôi thâm canh theo hình thức công nghiệp. Về chất lượng nước: các yếu tố thủy lý, thủy hóa trong điều kiện nguyên thủy rất phù hợp với sự tăng trưởng của cá tôm và nghề nuôi trồng thủy sản tại An Giang đồng thời giúp sông ngòi An Giang tồn trữ lượng lớn cá tôm mà từ đó sản lượng khai 24 thác thừa cho nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh. Theo đề tài nghiên cứu “Đánh giá tác động qua lại của môi trường đối với nghề nuôi trồng thủy sản” (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản) thì công tác nuôi và khai thác thủy sản trên sông thời gian qua chưa gây biến động lớn cho chất lượng nước. Tuy nhiên, sự cố về sụt giảm sản lượng cá khai thác qua từng năm, bệnh cá thường xuyên xảy ra với những tác nhân gây bệnh mới…. chính là sự cảnh báo cho công tác khai thác, sử dụng tài nguyên nước là cần có sự bảo vệ và cải tạo. * Về kinh tế – xã hội: Tổng GDP toàn tỉnh An Giang năm 2005 tính theo giá hiện hành là 18.685 triệu đồng bằng 11,8% toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long và gần bằng 2,2% so cả nước; GDP bình quân/người là 8,5 triệu đồng; Cơ cấu GDP bao gồm: nông, lâm, thủy sản chiếm 37,8%; công nghiệp – xây dựng 12,0% và dịch vụ 50,2%. An Giang là tỉnh đất hẹp người đông với dân số năm 2005 gần 2,2 triệu người; cơ cấu giới của dân cư: nữ giới là 50,8%, và nam giới là 49,2%. Diện tích đất tự nhiên 353.551 ha, bình quân đất tự nhiên trên 1.611 m2/người và bình quân đất nông nghiệp là 1.362 m2/người. Dân số trong tỉnh phân bố không đều. Ở các đô thị mật độ dân số cao, các huyện thị còn lại có mật độ chênh lệch đáng kể. Các huyện cù lao có mật độ dân số khá cao, các huyện nằm trong tứ giác Long Xuyên có mật độ dân số thưa thớt hơn, trong đó thấp nhất là huyện Tri Tôn. Dân cư trên địa bàn An Giang gồm bốn dân tộc: Kinh, Hoa, Khơme, Chăm. Trong đó, dân tộc Kinh là đông nhất chiếm khoảng 91% dân số toàn tỉnh. Tháng 12/1998 An Giang đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học và đang tiến tới phổ cập trung học cơ sở. Số người trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, nếu như năm 1995 tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động so tổng dân số là 56,0% thì đến năm 2005 con số này là 61,5% (hơn 1.350 ngàn người), đã vượt ngưỡng “dân số vàng” (50%), đây là tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, phần lớn lao động tập trung ở khu vực nông thôn, trình độ thấp. Lực lượng lao động chủ yếu vẫn tập trung vào trong ngành nông, lâm, thủy sản với khoảng 73%, còn lại ở ngành công nghiệp - 25 xây dựng (hơn 7,6%) và ngành dịch vụ (khoảng 19,4%). Lao động trong ngành thủy sản khoảng trên 80 ngàn người bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như tham gia khai thác thủy sản trong nội địa, nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, lao động làm nước mắm cho các doanh nghiệp, lao động sản xuất bột cá cho doanh nghiệp, nhân dân tham gia các hoạt động dịch vụ khác như bán thưốc thú y thủy sản, bán thức ăn, lao động ở các vựa cá… An Giang cũng là một trong những tỉnh có hệ thống đường giao thông nông thôn khá phát triển phục vụ cho hoạt động đi lại. Bên cạnh đó, hệ thống sông rạch chằng chịt từ bao đời nay được người dân An Giang sử dụng trở thành mạng lưới giao thông đường thủy rộng khắp có thể đi đến mọi miền quê hẻo lánh trong đó có những nơi hệ thống giao thông đường bộ không thể đến được và đi qua các tỉnh khác và một số nước bạn trong khu vực dễ dàng là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh trong đó có hoạt động thủy sản. * Một số đặc điểm xã hội cơ bản trong thời kỳ đầu phát triển ngành thủy sản: Vào những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ XX, nghề nuôi trồng thủy sản ở An Giang chỉ có hai dạng: ương cá tra bột truyền thống và nuôi cá lồng. Qua giữa thập niên 70, khi nghề ương nuôi cá ổn định và trên đà tăng trưởng thì chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra và lũ lụt năm 1978 đã làm suy giảm nghề nuôi trồng thủy sản. Giai đoạn đầu những năm 80, tình hình biên giới ổn định, tài nguyên thủy sản của An Giang đã thu hút nguồn lao động từ xứ khác đến sinh cơ lập nghiệp. Tỉnh đã có những chính sách phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, ngành thủy sản chuyển biến theo chiều hướng ổn định. Cơ cấu nghề nuôi trồng thủy sản đã được bổ sung thêm các dịch vụ: trại trung chuyển giống, thuốc thú y thủy sản, bán buôn thức ăn cho nuôi cá bè… Giai đoạn cuối những năm 80 và những năm đầu của thập niên 90, do nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy sản tăng cao, đồng thời Nhà nước đã đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến đông lạnh thủy sản xuất khẩu ở thị xã Long Xuyên và huyện Châu Thành. Vào thời gian đầu hoạt động, các nhà máy phải mua nguyên liệu thủy sản từ 26 các tỉnh bạn như Đồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ… vì sản lượng nguyên liệu thủy sản trong tỉnh không đủ cho nhu cầu hoạt động của nhà máy. Tiến theo kịp với nhu cầu chế biến, nghề nuôi thủy sản chuyển sang thâm canh bằng hình thức đóng thêm bè lớn, nuôi cá tra trong ao hầm với mật độ cao, bổ sung thức ăn, tăng vòng quay sản xuất… đã đưa sản lượng nuôi tăng nhanh; song song đó các dịch vụ nghề cá ngày càng hoạt động hiệu quả hơn. Nghề nuôi thủy sản ở An Giang thời kỳ này đã đánh dấu sự tăng trưởng đột phá của ngành thủy sản trong thập niên 90 và trở thành tiền đề cho sự phát triển của ngành thủy sản của An Giang về sau. 2.1.2. Tình hình nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản tỉnh An Giang: * Tình hình chung: Tỉnh An Giang chủ trương đẩy nhanh tốc độ sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ trên nền tảng nguồn cá giống được thiên nhiên ưu đãi và năng lực ương nuôi cá của ngư dân An Giang. Hỗ trợ cho ngư dân nuôi cá trên một trăm tỷ đồng để làm vốn lưu động và mua sắm máy móc thiết bị phục vụ nuôi trồng. Nhìn tổng quát, ngành thủy sản trong thời kỳ 1998 – 2005 đã có bước phát triển vượt bậc, tốc độ tăng trưởng bình quân GDP đạt 9,2%. Giá trị sản xuất của ngành năm 2005 đạt 2.421,8 tỷ đồng tăng tỷ trọng trong toàn ngành nông nghiệp từ 11,6% (năm 1995) lên 18,1%. Sản lượng thủy sản trong năm 2005 trên 232,1 nghìn tấn, là tỉnh có sản lượng thủy sản nuôi trồng cao nhất đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, bình quân đạt hơn 180,8 nghìn tấn/năm. Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản không ngừng được mở rộng từ 1.373 ha năm 1995 lên 1.710,2 ha năm 2005, tương ứng lồng bè nuôi cá tăng từ 2.126 cái lên 3.058 cái. Ngành thủy sản đang đứng đầu thu ngoại tệ về cho tỉnh, với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 122,3 triệu USD. Năm 2005, tỉnh có 11 nhà máy chế biến thủy sản với tổng công suất là 89.800 tấn/năm. Hiện nay, ngành thủy sản đang thu hút khoảng 80 nghìn lao động và dịch vụ thủy sản đã có sự phát triển một cách hiệu quả, phục vụ tốt việc nuôi trồng, khai thác và chế biến, đem lại nguồn thu đáng kể cho ngư dân. Về hình thức nuôi trồng thủy sản: nghề nuôi thủy sản của An Giang là nuôi thủy sản nước ngọt, với các loại hình nuôi như: nuôi lồng bè, nuôi ao hầm, nuôi chân 27 ruộng, nuôi đăng quầng ven sông, trong đó mô hình truyền thống là nuôi cá trong lồng bè tồn tại từ thập kỷ 70 cho tới nay. Về đối tượng nuôi: đối tượng nuôi thủy sản của tỉnh cũng rất phong phú, bao gồm: cá tra, cá basa, cá lóc bông, cá hú, cá he, tôm càng xanh, cá rô phi, cá lóc, cá rô đồng, cá thát lát, cá trê phi, cá trê lai, cá mè vinh, cá chép, cá chim trắng, cá mè, cá hường… trong đó cá tra, cá basa là đối tượng nuôi chính, sản lượng chiếm khoảng 85-90% tổng sản lượng nuôi trồng của tỉnh và là nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu. Do biết tận dụng ưu thế về tiềm năng nguồn nước và điều kiện tự nhiên, ngư dân An Giang đã tích cực đầu tư mọi nguồn lực để nuôi trồng và khai thác thủy sản nên thời gian qua phát triển thủy sản đã là một thế mạnh của tỉnh, trong đó cá tra, cá basa là hai loại thủy sản thích hợp với môi trường nguồn nước tỉnh An Giang và có giá trị kinh tế cao, nên đã thu hút ngư dân tập trung đầu tư sản xuất và đã mang lại hiệu quả đáng kể. Bảng 2.1: Bảng sản lượng thủy sản nuôi các tỉnh ĐBSCL (2002-2004) STT Diễn giải 2002 2003 2004 Tỉ lệ (%) (tấn) 2002 2003 2004 Tổng cộng 561.561 697.472 803.725 100 100 100 1 An Giang 111.599 136.825 154.675 19,87 19,62 19,24 2 Bạc Liêu 46.500 71.970 110.000 8,28 10,32 13,69 3 Bến Tre 67.206 81.380 89.100 11,97 11,67 11,09 4 Cần Thơ 44.980 50.980 40.000 8,01 7,31 4,98 5 Cà Mau 97.000 105.000 108.000 17,27 15,05 13,44 6 Kiên Giang 14.664 20.636 21.000 2,61 2,96 2,61 7 Long An 16.134 17.832 21.300 2,87 2,56 2,65 8 Đồng Tháp 38.170 52.723 72.500 6,80 7,56 9,02 9 Sóc Trăng 31.024 40.858 45.000 5,52 5,86 5,60 10 Tiền Giang 39.377 49.512 48.500 7,01 7,10 6,03 11 Trà Vinh 36.900 48.102 70.000 6,57 6,90 8,71 12 Vĩnh Long 18.007 21.654 23.650 3,21 3,10 2,94 Nguồn: Cục Thống kê An Giang – Sở NN & PTNT AG 28 Sản lượng nuôi thủy sản của An Giang ba năm gần đây luôn đứng số một, điều này cho chúng ta thấy nghề nuôi thủy sản chính là một lợi thế của tỉnh An Giang, cần được củng cố và phát huy hơn nữa lợi thế so sánh này. Bên cạnh nghề nuôi thì nghề đánh bắt thủy sản ở An Giang cũng là nghề truyền thống với phương tiện đa dạng và kỹ thuật cao như: đáy cá tra bột, vó gạt, vó càng, cào, dớn, lờ, lợp, câu, đăng, lưới kéo… trong đó nghề khai thác cá tra bột là khởi nguyên cho nghề nuôi thủy sản của An Giang. Trước đây sản lượng khai thác luôn lớn hơn nuôi trồng, nhưng thời gian gần đây sản lượng cá tôm và thủy đặc sản khai thác hầu như giảm dần theo thời gian, tỷ trọng sản lượng thủy sản nuôi trồng và đánh bắt trong thời gian qua ngày càng nghiêng về phần nuôi trồng và đến năm 2003 sản lượng nuôi lần đầu tiên đã vượt qua sản lượng khai thác đánh bắt. Chương trình khuyến nông, khuyến ngư với ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất không ngừng được đẩy mạnh, từ đó các thành tựu công nghệ sinh học đã được ứng dụng thành công trong sản xuất cá ba sa, cá tra giống được thực hiện từ năm 1995 nay đã phát huy hiệu quả tốt. Công tác tìm kiếm, mở rộng khai thác thị trường không ngừng phát triển. Tỉnh tích cực tạo điều kiện và cùng với sự chủ động của các doanh nghiệp, đi đầu là Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản, đã từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ cá ba sa, cá tra từ châu Á sang châu Âu, Australia và Mỹ… Việc sản xuất gắn với sự bảo đảm ổn định trong tiêu thụ sản phẩm được chú ý đặc biệt. Toàn tỉnh đã thành lập được ba câu lạc bộ thủy sản với 199 hội viên, có khả năng cung cấp ổn định sản lượng 53.000 tấn/năm; Hội nghề cá đã kiện toàn một bước quan trọng về tổ chức; 5 hợp tác xã thủy sản, thu hút 112 xã viên và trên 140 lao động, có vốn điều lệ trên 349 triệu đồng. Chính sách tín dụng nông nghiệp với phương thức cho vay vốn đến tận hộ sản xuất đã được tỉnh thực hiện rộng rãi ngay từ năm 1990. Nhất là đối với các hộ chuyên chăn nuôi, thủy sản và ngành nghề tiểu – thủ công nghiệp được chú trọng đầu tư thỏa đáng. 29 Nuôi trồng thủy sản phát triển đã tác động tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Thế mạnh, tài nguyên thủy sản được chủ động khai thác, từ đó giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, từng bước thay đổi dần bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống cộng đồng, tạo cảnh quan đặc thù của An Giang, góp phần phát triển mô hình du lịch sinh thái. Tuy nhiên việc quy hoạch chi tiết vùng nuôi thủy sản còn nhiều khiếm khuyết; giữa người nuôi với các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu chưa thật sự có sự gắn kết cần thiết, nên dẫn đến khủng hoảng thừa (1996, 2000, 2003) xảy ra, gây thiệt hại lớn cho ngư dân và ngành thủy sản; công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch thủy sản còn hạn chế, giống nhập về nuôi, việc phòng trừ dịch bệnh chưa được quan tâm đúng mức nên dịch bệnh xảy ra, làm thiệt hại cho người nuôi. * Nuôi trồng thủy sản: An Giang là tỉnh nằm sâu trong nội địa, không giáp biển, có hai nhánh sông MeKong chảy qua cung cấp nguồn cá giống dồi dào, phong phú về chủng loại. Nghề nuôi thủy sản của An Giang là nuôi thủy sản nước ngọt với các mô hình đặc trưng là nuôi lồng bè, nuôi ao hầm, nuôi chân ruộng, đăng quầng ven sông. Bảng 2.2: Bảng tổng hợp chỉ tiêu hoạt động nuôi thủy sản (1998-2005) Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Diện tích NTTS (ha) 1.092 1.219 1.215 1.219 1.748 1.493 1.777 1.710 Trong đó: - DT nuôi tôm 6 5 6 235 283 370 560 587 - DT nuôi cá 1.086 1.214 1.209 984 1.465 1.123 1.217 1.123 2. Số lượng bè(cái) 2.070 2.439 3.086 3.237 4.053 3.178 3.504 3.058 3. Sản lượng NTTS (T) 40.731 60.977 80.156 83.643 111.599 136.825 154.675 180.809 - Tôm 3 3 5 178 305 459 651 698 - Cá 40.728 60.742 80.032 83.335 111.157 136.231 152.507 179.412 - Thủy sản khác 232 119 130 137 135 1.517 699 Nguồn: Niên giám thống kê An Giang 2005 Năm 1999, được đánh dấu là năm đầu tiên tỉnh triển khai thực hiện Đề án phát triển thủy sản giai đoạn 1999-2005. Sau khi thực hiện đề án, ngành thủy sản của tỉnh đã có bước phát triển vượt bậc. Số bè nuôi cá tăng đáng kể, chỉ sau một năm đã tăng thêm 369 bè và hiện năm 2005 toàn tỉnh có 3.058 bè tăng so với trước khi thực hiện 30 đề án là 988 bè. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng từ 1.092 ha năm 1998 lên 1.219 ha vào năm 1999 (tuy nhiên trong thời gian này tỉnh không khuyến khích nuôi cá tra ao, hầm, vấn đề này sẽ được phân tích phần nuôi ao, hầm) và năm 2005 là 1.710 ha tăng hơn 156,5% so năm 1998. Đặc biệt, sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng ấn tượng nhất, nếu như sản lượng năm 1998 là 40.731 tấn thì một năm sau sản lượng đã là 60.977 tấn tăng gần 150% và sau 07 năm đề án được thực hiện năm 2005 sản lượng thủy sản đạt 180.809 tấn tăng gấp 4,43 lần so với năm 1998. -Đối tượng nuôi thủy sản: Từ năm 1998 trở về trước đối tượng nuôi chính là: cá basa, cá tra, cá lóc bông, cá hú, cá he, ngoài ra còn có._.kế hoạch chung. Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, hội thảo về thương mại thủy sản trong và ngoài nước, đẩy mạnh công tác tiếp thị để tiếp cận thị trường, tìm hiểu đối tác để có sách lược thích hợp. Phải thu thập thông tin và dự báo chính xác nhu cầu và xu hướng phát triển của thị trường (xuất khẩu, nội địa) để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Mở rộng những mặt hàng phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường, tăng tỷ trọng hàng GTGT, các mặt hàng chế biến sẵn vẫn sẽ có nhu cầu lớn tropng thời gian tới như chả cá, xúc xích sandwich, bánh mè… Cần phát triển thị phần xuất khẩu, tránh quá tập trung vào vào một thị trường. Hiện nay, thị trường Mỹ đang gặp khó khăn nhưng bù lại thị phần xuất khẩu vào châu Âu đang có chiều hướng tăng mạnh cả về khối lượng và giá trị. Vì vậy, đến năm 1010 thị trường Châu Âu sẽ giữ ở mức 55%, thị trường Mỹ 18%, xuất khẩu vào Nhật Bản những năm qua đang có chiều hướng giãm dần nhưng nói chung thị phần Nhật Bản không lớn lắm và giữ khoảng 2% vào năm 2010, thị trường Châu Á khác (trừ Nhật) 15%, thị trường Úc 5% và các thị trường khác 5%. 3.4. Hoàn thiện các chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển ngành thủy sản tỉnh An Giang. 3.4.1. Các giải pháp về hỗ trợ tài chính của địa phương. - Ưu đãi về thuế. Theo lý thuyết tài chính thì thuế là công cụ tài chính chỉ để phục vụ chính cho cải tạo và vận hành các thành phần kinh tế, nhằm ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh, cho đến thuế chỉ là công cụ tăng nguồn thu cho ngân sách, và đến nay thuế mới được xác định đúng vị trí của nó, đó là thuế không chỉ là nguồn thu ngân sách mà đồng thời chính sách thuế cũng phải bồi dưỡng nguồn thu giúp tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp từ đó thúc đẩy tăng GDP. Tư duy mới này về chính sách thuế đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế quốc gia. Tuy nhiên để thuế là là công cụ hữu 76 hiệu hơn trong hệ thống chính sách tài chính, chúng tôi đề nghị thêm các giải pháp về thuế như sau: Vì thu thuế chủ yếu là bắt nguồn từ kết quả sản xuất kinh doanh nền kinh tế. Vì vậy một sự tăng lên nguồn thu từ thuế chính là kết quả trực tiếp của quá trình tăng trưởng kinh tế biểu hiện bằng thu nhập bình quân đầu người tăng. Chúng ta thu thuế mà không tính đến mức độ tăng GDP thì sẽ tác động tiêu cực đến tiết kiệm và đầu tư của các doanh nghiệp và dân cư, làm cho nền kinh tế khó phát triển. Từ đó đề nghị thống nhất một mức thuế suất về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cả 2 loại hình doanh nghiệp trong nước và FDI, đồng thời xóa bỏ thuế thu nhập bổ sung. Mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trong nước là 32%, doanh nghiệp FDI là 25% đề xuất thống nhất một mức trong khoảng từ 27- 30%. Từ đó sẽ tăng lợi nhuận để lại sau khi nộp thuế thu nhập của các doanh nghiệp trong nước sẽ tăng mức tái đầu tư quỹ phát triển sản xuất giúp tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời miễn thuế thu nhập cho phần lợi tức được sử dụng để tái đầu tư vào sản xuất kinh doanh chính là kích thích các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp phần làm lớn lên vốn tự có của doanh nghiệp nâng cao giá trị các cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Điều này cho phép các công ty cổ phần, các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân nâng cao uy tín trên thị trường. Về thuế giá trị gia tăng: Hoàn thiện hơn nữa quy trình hoàn thuế theo hướng hiện đại hệ thống mạng máy tính của tổng cục thuế, tiến hành phân loại doanh nghiệp để có quyết định hoàn thuế trước kiểm tra. Song song với rút ngắn thời gian hoàn thuế cần quy định các hình thức chế tài các doanh nghiệp vi phạm. Từ đó thực hiện nghiêm Luật thống kê, Luật kế toán trong các doanh nghiệp để mở rộng diện nộp thuế khấu trừ. Chính phủ nên định hướng trong vòng 2 -3 năm nữa chỉ còn sử dụng phương pháp tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đối với những hộ cá thể, kinh doanh nhỏ, không tổ chức hệ thống kế toán, chứng từ, hoá đơn đáng tin cậy thì áp dụng mức thuế kinh doanh khoán nhằm bớt chi phí hành thu. Hiện nay, các hộ nuôi thủy sản không phải nộp thuế vì nhà nước đang khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ theo quyết định 77 1465/QĐ-UBND ngày 01/8/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh An Giang “Ban hành chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phát triển thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 2006 – 2010. - Trợ giá. Để giảm bớt rủi ro cho người nuôi cá, khi gặp phải những sự cố giống như vụ kiện chống bán phá giá cá tra, basa vào thị trường mỹ của hiệp hội chủ trang trại cá nheo Hoa Kỳ là cho giá cá nguyên liệu sụt giảm dưới mức giá thành của các hộ nuôi cá, dẫn đến tình trạng nợ nần, phá sản. Hoặc do tình trạng dịch bệnh, thay đổi thời tiết làm cho cá chết hàng loạt thì nhà nước nên thành lập Quỹ Dự phòng rũi ro để hỗ trợ cho các hộ nuôi cá bằng cách khoanh nợ hoặc bù trợ lãi suất cho vay, hay gặp lúc hộ nuôi phải bán cá mà giá cá lại thấp thì nhà hỗ trợ bằng cách cho doanh nghiệp vay mua vào trữ lại hệ thống cấp đông với lãi suất bằng 0%. - Giá thuê đất, mặt nước nuôi trồng thủy sản. Nuôi thủy sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp thì thực hiện thuế nông nghiệp hiện hành. Nuôi thủy sản trên đất bãi bồi, cồn ven sông áp dụng chính sách theo luật đất đai. Tuy nhiên, để khuyến khích ngành thủy sản phát triển tỉnh An Giang đã miễn thuế cho thuê mặt nước cho bè nuôi cá neo đậu trên sông. 3.4.2. Các giải pháp về tín dụng để phát triển ngành thủy sản. Ngành ngân hàng thương mại đã cải tiến và đổi mới tích cực trong thời gian vừa qua, việc này đã đem lại cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên so với nhu cầu về vốn vay, nhu cầu thanh toán quốc tế của doanh nghiệp, và nhất là việc thanh toán các ngân hàng sở hữu nhà nước vẫn còn gặp khó khăn trong quá trình đổi mới, qua kinh nghiệm của các ngân hàng thế giới, thì hệ thống ngân hàng chúng ta cần phải: Cải tiến nghiệp vụ tín dụng để các doanh nghiệp dân doanh và dân cư có cơ hội tiếp xúc với các nguồn vốn vay ưu đãi và vay trung hạn dài hạn. Ngân hàng nhà nước nên nhanh chóng chủ động phối hợp cùng các ngân hàng thương mại tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp và xác lập cơ chế thanh toán quốc tế với các nước là thị trường nhập khẩu hàng thủy sản của ta lần đầu, hoặc các nước có hệ thống ngân 78 hàng theo cơ chế thị trường chưa rõ ràng. Điều này đang rất cần cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào các thị trường các nước chậm phát triển hoặc đang chuyển đổi nền kinh tế. Hiện nay, việc Ngân hàng cho vay các doanh nghiệp chế biến hàng đông lạnh xuất khẩu với hạn mức cho vay được tính hàng năm là một bước tiến trong quá trình cải tiến nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, cần áp dụng hình thức cho vay thấu chi để đáp ứng nhu cầu trả lương cho công nhân của doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp chưa thu hồi được hàng bán của mình, hoặc trả tiền cho khách hàng bán nguyên liệu cho mình… Nhưng việc cho vay thấu chi các ngân hàng nên áp dụng đối với một số khách hàng truyền thống của mình. Chính phủ nên thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm để đáp ứng nhu cầu thực tế đầu tư của một số doanh nghiệp và một bộ phận dân cư. Loại hình đầu tư này mang tính rũi ro cao và tỷ suất lợi nhuận hấp dẫn ở một số ngành mới, một số thị trường mới, hoặc nhu cầu vốn cho các doanh mới bắt đầu khởi sự thường các ngân hàng hoặc Quỹ hỗ trợ phát triển (nay là ngân hàng phát triển) từ chối, hoặc cho vay với tỷ lệ rất thấp so với vốn tự có. Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ đáp ứng được cho loại hình vừa kể trên. Vì nó có đủ tiềm năng về về tài chính mà các tổ chức tín dụng khác không có, nó có đủ thông tin và năng lực phân tích những bài toán về quan hệ tương quan giữa rũi ro và lợi nhuận của từng lần đầu tư, nhằm quyết định cho doanh nghiệp có đầu tư hay không. Quỹ sẽ có tác dụng kích thích và tạo cơ hội nhiều hơn cho các doanh nghiệp luôn thích đầu tư sản xuất sản phẩm mới. Xoá dần tư tưởng ngại trách nhiệm sợ khó, chỉ đầu tư hoạt động sản xuất khi thật chắc chắn, rũi ro thật thấp của các doanh nghiệp nhà nước. 3.4.3. Hỗ trợ thông tin về thị trường tiêu thụ. Để hỗ trợ cho doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường, vì thị trường tiêu thụ sản phẩm luôn quyết định sự phát triển của các doanh nghiệp. Do vậy cần phải đưa vào chi phí những khoản chi phí cần thiết cho việc nghiên cứu thị trường, tiếp thị sản phẩm thì mới có kết quả tốt được. Nhà nước cho phép doanh nghiệp được hạch toán chi phí tiếp thị vào chi phí giá thành sản phẩm, và mức hạch toán là 5% tổng 79 mức chi phí khác đã phát sinh. Tuy nhiên để kiểm soát chặt chẻ việc tính và sử dụng chi phí tiếp thị cần quy định cụ thể chi phí này chỉ được sử dụng cho một mục đích duy nhất là nghiên cứu tiếp thị, doanh nghiệp không được sử dụng cho công việc khác. Thông qua Phòng công nghiệp thương mại Việt Nam và Vasep các doanh nghiệp có điều kiện nắm bắt các thông tin dự báo về khối lượng cung - cầu, giá cả sản phẩm của mình để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với từng thời điểm. Thông tin về thị trường tiêu thụ sẽ giúp cho việc nghiên cứu thị trường trong nước và thế giới về số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm đang và sẽ có nhu cầu tiêu thụ lớn. Những thông báo về thời tiết, khí hậu và những đột biến về kinh tế, chính trị xảy ra ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm tại các thị trường trọng điểm, quan trọng. Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ về thủy sản, máy móc thiết bị chuyên ngành thủy sản cũng giúp cho doanh nghiệp đầu tư để sản xuất các mặt hàng GTGT. Để các doanh nghiệp có dịp khảo sát thị trường, giao lưu tiếp xúc mua bán ở nước ngoài với tư cách là người hướng dẫn và tài trợ. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hệ thống quản lý chất lượng (ISO, GAP, HACCP,…), đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hóa để có cơ hội xâm nhập vào các thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng. Khai thác thị trường dễ tính của các nước trong khu vực để xuất khẩu thẳng hàng hóa thủy sản tươi sống nhằm tiêu thụ hết sản phẩm cho ngư dân. Các doanh nghiệp cần chú trọng đến công tác chiêu thị bằng cách tổ chức cho khách hàng tham quan hội chợ thưởng thức các sản phẩm của mình, giới thiệu sản phẩm tham gia vào thực đơn của khách du lịch nước ngoài đi tour trong tỉnh và cả nước với giá cả phù hợp ban đầu hấp dẫn. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần thành lập các đại lý bán hàng cấp I cho đơn vị mình, có chế độ khen thưởng cho những đại lý hoàn thành chỉ tiêu bán hàng, tại các thành phố lớn trong nước như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà nẵng… 80 Doanh nghiệp cần làm quen tiếp thị và bán hàng qua mạng internet, giúp cho doanh nghiệp địa phương khắc phục được bất lợi thế về vị trí địa lý của mình. Các công ty nhất thiết phải thành lập trang web của mình giới thiệu sản lượng các loại sản phẩm và sẳn sàng phục vụ cho khách hàng. 3.4.4. Chính sách hỗ trợ xuất khẩu thủy sản. Qũy hỗ trợ xuất khẩu được thành lập theo quyết định số 195/1999/QĐ-TTg và Thông tư số số 150/1999/TT-BTC để hỗ trợ khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh hàng xu6át khẩu Việt Nam. quỹ được hình thành từ khoản thu chênh lệch giá hàng xuất khẩu nhập khẩu, lệ phí cấp hạn ngạch, giấy chứng nhận xuất xứ, mở văn phòng đại diện, chi nhánh, ngân sách nhà nước và số dư còn lại của quỹ bình ổn giá, đuợc Bộ tài chính quản lý. Quỹ có mục đích hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng để mua, dự trữ hàng nông sản sản xuất xuất khẩu khi thị trường thế giới giảm, hỗ trợ tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rũi ro do nguyên nhân khách quan gây ra, thường về tìm kiếm thị trường và mở rộng thị trường xuất khẩu, mặt hàng mới sản xuất lần đầu tiên tham gia xuất khẩu sản phẩm đạt chất lượng cao được tổ chức quốc tế công nhận, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn và đạt hiệu quả cao. Thông tư số 61/2001/TT-BTC hướng dẫn chi hỗ trợ cho hoạt động phát triển thị trường thì Nhà nước hỗ trợ tối đa không quá 50% mức chi thu thập thông tin, chi tư vấn thương mại, chi hoạt động tìm kiếm thị trường xuất khẩu, hỗ trợ tối đa không quá 70% mức chi của doanh nghiệp cho hội chợ, triển lãm ở nước ngoài, chi đặt trung tâm xúc tiến thương mại hoặc văn phòng đại diện của doanh nghiệp và Hiệp hội ngành hàng Việt nam ở nước ngoài. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc quản lý và sử dụng có hiệu quả Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, để thưởng cho các doanh nghiệp đạt được chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu do nhà nước đặt ra, để hỗ trợ tín dụng xuất khẩu. Ngay như chính phủ Hoa Kỳ thường tuyên truyền về thương mại quốc tế công bằng, cũng đã trợ cấp rất lớn cho ngành nông nghiệp nội địa. khoảng cuối năm 2002 Hoa Kỳ đã trợ cấp 150 tỷ USD 81 cho nông nghiệp trong vòng 5 năm về an ninh trang trại và nông thôn. Vì vậy, chúng ta cũng phải có trợ cấp, nhưng phải đạt hiệu quả kinh tế ở tầm vĩ mô vừa phù hợp với lộ trình cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu trong thời gian vừa qua đã phát huy tác dụng làm tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, và quỹ này đã chi đúng đối tượng hơn so với Qũy bình ổn trước đây. Những mặt hàng được tài trợ phải mang tính minh bạch, phù hợp cho từng thời kỳ. Đề nghị Bộ Thương mại nên giao cho chính quyền địa phương và cơ quan tài chính địa phương thẩm tra hồ sơ tài trợ xuất khẩu và sau khi thẩm tra xong thì bộ hồ sơ này có giá trị cho Quỹ xuất chi tài trợ. Hiện tại, việc thẩm tra đã giao cho địa phương nhưng doanh nghiệp thường phải thuyết minh, bổ sung cho Bộ. Đôi lúc, có những hồ sơ tài trợ đã được cấp địa phương thẩm định nhưng phải sau 3 tháng doanh nghiệp mới nhận đượctiền tài trợ. Chính phủ đã chuẩn hóa thời hạn kiểm tra, thời hạn cấp phát, nhưng Chính phủ cũng phải rà soát tổng kết công khai lại việc thực hiện của cơ quan điều hành có đúng chưa. 3.5. Đào tạo nhân lực phục vụ cho tiếp thị, khuyến ngư, tìm kiếm thị trường tiêu thụ thủy sản trong và ngoài nước. Nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trên mọi lãnh vực, vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho công tác tiếp thị, khuyến ngư, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước là nhiệm vụ mang tính bức thiết, nhất là nước ta đã chính thức gia nhập vào tổ chức WTO vào ngày 07/11/2006 và là thành viên thứ 150 của tổ chức này. Việc đào tạo nhân lực này phải hết sức thực tế mới mang hiệu quả cao. Vì muốn thực hiện tốt mọi vấn đề, tất cả phải dựa vào nguồn lực của con người. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bảo , cụ thể là công nghệ thông tin, cả thế giới đang nổi lên những vấn đề bức xúc và nóng bỏng như toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế, nền kinh tế tri thức, sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao… Đó là những vấn đề được đặt ra cho các nước đang phát triển mà nội hàm của nó cũng 82 chưa được minh định rõ ràng. Có thể nói, các nước đang phát triển đang vừa làm vừa tìm hiểu; vừa tiếp cận vừa vận hành. Đối với Việt Nam chúng ta cũng vậy, các doanh nghiệp chế biến và nhà nước cùng các hộ nuôi cá phải chuẩn bị cho mình nguồn nhân lực thật tốt để thực hiện các mục tiêu mà đơn vị của mình mong muốn. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, basa cần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện như vừa kể trên, thì doanh nghiệp phải có kế hoạch đào tạo và tái đào tạo thường xuyên nhân viên của mình. - Đào tạo nhân lực phục vụ cho tiếp thị: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ về kinh doanh, tiếp thị, xuất nhập khẩu, quản lý kinh doanh,… cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế trong ngành thủy sản. Để đào tạo nhân viên làm công tác tiếp thị, đây là nghiệp vụ mang tính chuyên môn cao nên đòi hỏi các doanh nghiệp cần tuyển chọn nhân viên được đào tạo chuyên ngành tiếp thị, quãng cáo của các trường Đại học kinh tế trong nước, bên cạnh đó trình độ ngoại ngữ tiếng anh là hết sức quan trọng, vì công tác có liên quan đến việc tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và cá nhân của nước ngoài. Các nhân viên tiếp thị cần được đào tạo chính qui và bản thân nhân viên tiếp thị phải nhiệt tình, yêu thích công việc này, xem như đây là một nghề vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính nghệ thuật, để có thể nghĩ ra những chiêu thị mới không trùng với các chiêu thị của các doanh nghiệp khác, các nhân viên tiếp thị cần trải qua kinh nghiệm thực tiển thì mới có thể làm tốt công tác này. - Đào tạo nhân lực phục vụ cho khuyến ngư: Xây dựng hoàn chỉnh chương trình quản lý chất lượng sản phẩm để làm cơ sở huấn luyện cán bộ khuyến ngư và ngư dân, nhằm thực hiện nghiêm việc sản xuất sản phẩm sạch. Tổ chức huấn luyện về khuyến ngư cần có chương trình, thời gian huấn luyện thích hợp và cấp giấy chứng nhận cụ thể. Quan tâm huấn luyện về trình độ thực thi pháp luật, về thị trường và đạo đức, kỹ thuật sản xuất sản phẩm sạch và các biện pháp bảo vệ môi trường sản xuất. 83 Đào tạo cho cán bộ làm công tác khuyến ngư về trình độ nắm bắt thông tin và phân tích thị trường để giới thiệu và hướng dẫn ngư dân kế hoạch sản xuất gắn với nhu cầu thị trường. Chọn lựa quảng bá, chuyển giao những kỹ thuật phù hợp với trình độ và triển vọng phát triển của địa phương; tạo thêm cơ hội phát triển công việc làm. Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo và đào tạo lại cán bộ khuyến ngư, để cán bộ làm công tác khuyến ngư thạo về lý thuyết, giỏi về thực hành. Sử dụng đa dạng các hình thức khuyến ngư, đặc biệt phải giải quyết tốt về qui trình, công nghệ ở các mô hình trình diễn kỹ thuật, để các mô hình đó phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng nuôi trồng thủy sản An Giang. Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên môn sâu thuộc các lĩnh vực sinh học, kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thủy sản. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật có khả năng triển khai và ứng dụng tốt. Chọn lựa những con em tại địa phương nơi có nghề nuôi thủy sản phát triển, có khả năng trình độ để đào tạo thành những kỹ thuật viên am tường địa bàn hoạt động, biết làm việc và làm việc nghiêm chỉnh, có hiệu quả. Thường xuyên tổ chức những cuộc trao đổi về thông tin thị trường, hội thảo chuyên đề, xây dựng các mô hình trình diễn… để kịp thời chuyển giao đến ngư dân những tiến bộ khoa học, công nghệ mới về nuôi trồng thủy sản; chọn lựa, chuyển giao những kỹ thuật phù hợp với trình độ ngư dân và triển vọng phát triển thủy sản của địa phương. Quan tâm nâng cao ý thức nhân dân về bảo vệ môi trường. Tổ chức các lớp huấn luyện ngắn hạn định kỳ cho ngư dân và thực hiện các biện pháp để bảo vệ môi trường và kỹ thuật phòng trị bệnh cá. Triển khai thực hiện rộng rãi Qui trình nuôi thủy sản đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế SQF1000 (qui trình của công ty SGS, Thuỵ Sĩ) cho người nuôi. 84 - Đào tạo nhân lực phục vụ cho tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước: Các doanh nghiệp chế biến cần quan tâm hơn nữa việc đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ cho việc tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước để thực hiện các công việc sau đây: Thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị trường và đa dạng hóa sản phẩm, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại. Việc củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu phải tiến hành đồng thời với phát triển thị trường tiêu thụ nội địa, nhằm khai thác mọi tiềm năng, tiêu thụ hết nguyên liệu cho ngư dân, giảm bớt rủi ro khi thị trường có biến động xấu. Tích cực thu thập thông tin về thị trường trong và ngoài nước, giúp chủ doanh nghiệp và ngư dân có định hướng rõ ràng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm đảm bảo yêu cầu của khác hàng (tiêu chuẩn, chất lượng), cũng như đầu tư sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả theo kế hoạch chung. Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hệ thống quản lý chất lượng (ISO, HACCP,…), đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hóa để có cơ hội xâm nhập vào các thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng. Khai thác thị trường dễ tính của các nước trong khu vực để xuất khẩu thẳng hàng hóa thủy sản tươi sống nhằm tiêu thụ hết sản phẩm cho ngư dân. Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, hội thảo về thương mại thủy sản trong và ngoài nước, đẩy mạnh công tác tiếp thị để tiếp cận thị trường, tìm hiểu đối tác để có sách lược thích hợp. Phải thu thập thông tin và dự báo chính xác nhu cầu và xu hướng phát triển của thị trường (xuất khẩu, nội địa) để có kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp. Những nhận định về triển vọng đầu tư tài chính cho phát triển tỉnh An Giang: . Thuận lợi: Qua khảo sát thực trạng phát triển thủy sản của tỉnh An Giang trong thời gian qua chúng tôi nhận thấy các mặt thuận lợi sau: 85 Một là, thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, với cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng về đầu tư, về tín dụng để mở rộng sản xuất và xuất khẩu đã thực sự tạo khí thế mới, động lực mới cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh, mở ra những lợi thế và thời cơ để ngành thủy sản phát triển nhanh hơn và vững chắc hơn trong thời gian tới, tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Hai là, nghề nuôi thủy sản ở An Giang là nghề truyền thống của ngư dân trong tỉnh, đã có tác dụng tích cực về giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người sản xuất. Song song với những thuận lợi về điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường, ngư dân An Giang có trình độ sản xuất cao, biết tận dụng nguồn thức ăn giàu chất đạm có sẵn tại địa phương kết hợp thức ăn công nghiệp, rút ngắn thời gian nuôi, tận dụng lao động trong gia đình lấy công làm lời, sản xuất nhân tạo con giống… các yếu tố trên đã làm góp phần hạ giá thành sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tăng dần thu nhập cho ngư dân. Ba là, các doanh nghiệp cũng thực hiện các giải pháp tích cực để giảm giá thành sản xuất như: thường xuyên đảm bảo dây chuyền sản xuất (300 ngày/năm) để tăng sản lượng chế biến, giảm khấu hao, giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, giảm tỷ lệ hao hụt trong chế biến, tăng giá trị sản phẩm thu hồi…đó là các yếu tố quan trọng để tăng sức cạnh tranh của hàng thủy sản An Giang trên thương trường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngày càng mở rộng thị trường tiêu thụ. Bốn là, thị trường xuất khẩu thủy sản đang có xu hướng mở rộng, nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng có khuynh hướng gia tăng nên sẽ rất thuận lợi cho phát triển nghề nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới. Hiện nay trước tình trạng dịch cúm gà đang lan tràn, người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển sang tiêu thụ các loại thủy sản làm cho nhu cầu tăng. Năm là, về mặt tổ chức quản lý đã bước đầu thực hiện được sự gắn kết trong sản xuất giữa người nuôi và doanh nghiệp, đặc biệt là có hướng cho ngư dân tham gia vào các hợp tác xã và câu lạc bộ, đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ hợp tác hóa trong sản xuất làm nền tảng cho việc bảo đảm quyền lợi chính đáng đối với người sản xuất. 86 Sáu là, nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của An Giang, trong đó cá tra, basa là sản phẩm thủy sản đặc trưng, là sản phẩm có giá trị hàng đầu trong cơ cấu sản xuất của tỉnh. Với cơ sở những ao hầm, mô hình R.A, mô hình R.A.C, V.A.C vườn đồi… hiện có bên cạnh những tiểu vùng đê bao đang phát triển rộng khắp trên đồng ruộng An Giang cùng với nguồn lao động dồi dào,… là điều kiện vô cùng thuận lợi để nghề nuôi thủy sản của An Giang tăng tốc trên các mặt năng suất, sản lượng, chất lượng và giá trị. . Khó khăn, tồn tại : Một là, công tác dự báo thị trường chưa chặt chẽ nên không điều tiết ngành nuôi thủy sản phù hợp với thị trường và đạt hiệu quả cao. Chưa có được những bến bãi tiêu thụ sản phẩm thủy sản tươi sống ngay trên thị trường đông dân cư, chưa tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ cho những sản phẩm sơ chế, chưa điều tiết được sản xuất theo hợp đồng nguyên liệu. Không có thông tin về năng lực chế biến, tiêu thụ sản phẩm thủy sản của nhà máy chế biến cho ngư dân nắm biết để tự điều tiết sản xuất. Hai là, một bài học lớn cho người nuôi cá và các ngành chức năng đó là không gắn chặt với thị trường và không có công tác quy hoạch định hướng một cách phù hợp đồng thời cũng cho thấy tình trạng thiếu thông tin đã làm cho người nuôi thủy sản An Giang bị thua thiệt. Đây cũng là một bài học lớn về tính sản xuất nhỏ, phân tán trong sản xuất thủy sản nói riêng và trong sản xuất hàng hóa nói chung. Và “trúng mùa rớt giá” là một vấn đề cần phải khắc phục. Ba là, kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính tiền tệ, giá xuất khẩu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo nên rất khó khăn cho công tác định hướng xuất khẩu của các doanh nghiệp. Bốn là, khả năng cạnh tranh của hàng hóa thủy sản đông lạnh Việt Nam nói chung và An Giang nói riêng chưa cao do mẫu mã, chủng loại còn đơn điệu chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Năm là, kết cấu hạ tầng, hệ thống thông tin, hệ thống dịch vụ thương mại hàng hóa thủy sản chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện đúng mức. Sản xuất còn mang nặng tính tự phát, không theo quy luật cung 87 cầu, chưa quan tâm đến yêu cầu thị trường, chủ yếu tập trung nâng cao số lượng , chưa chú ý đến chất lượng sản phẩm nên sản xuất còng mang tính rủi ro cao mỗi khi thị trường có diễn biến không thuận lợi. Sáu là, sản xuất giống đã được xã hội hóa nhưng công tác quản lý, kiểm nghiệm chất lượng con giống chưa được thực hiện chặt chẽ; nhận thức về bảo vệ môi trường của ngư dân chưa cao nên sản xuất còn chưa đảm bảo yếu tố bền vững. Tuy bước đầu hoạt động đạt hiệu quả nhất định, nhưng các hoạt động của các tổ chức hợp tác còn mang tính hình thức, chưa thực sự đạt chất lượng như yêu cầu. 88 Kết luận Trong thời gian qua sự phát triển của ngành thủy sản An Giang đã tác động tích cực đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đóng góp đáng kể vào nguồn thu của tỉnh, tạo kim ngạch xuất khẩu từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Thế mạnh, tài nguyên thủy sản đã được chủ động khai thác, từ đó giải quyết được việc làm cho nhiều lao động, từng bước thay đổi dần bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống cộng đồng, tạo cảnh quan đặc thù của An Giang, góp phần phát triển mô hình du lịch sinh thái. Nhưng, quá trình phát triển, ngành thủy sản An Giang cũng đã trải qua những bước thăng trầm, bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn, nhưng với những chủ trương chính sách phù hợp và cộng với truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động của ngư dân An Giang từng bước vượt qua những khó khăn và đạt được nhiều hiệu quả. Đây cũng là cơ sở tiền đề để ngành thủy sản của An Giang không ngừng phát triển trong thời gian tới. An Giang đã và đang xem phát triển ngành thủy sản vẫn là một trong những ngành mũi nhọn quan trọng, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà. Cho nên, phát triển thủy sản tỉnh An Giang theo hướng sản xuất hàng hóa lớn là một hướng đi đúng, phục vụ cho việc xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, nhưng sự phát triển phải trên cơ sở ổn định, bền vững kết hợp, hợp lý giữa khai thác, nuôi trồng và chế biến để tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, lấy thị trường làm căn cứ đẩy mạnh sản xuất, sản xuất phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của thị trường trong và ngoài nước. Với những tiềm năng và lợi thế, chắc chắn rằng ngành thủy sản An Giang sẽ không ngừng phát triển và đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà và của đất nước Việt Nam. Cám ơn sự giúp đỡ tận tình của Quý thầy cô Trường Đại Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Khoa đào tạo sau đại học và đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của Thầy Nguyễn Thanh Tuyền, cùng với việc cung cấp thông tin của Cục Thống kê, Cục 89 Thuế, Sở Tài chánh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Thương mại, Sở Công nghiệp, Sở Thủy sản, Hiệp hội nghề nuôi và chế biến thủy sản tỉnh An Giang để tôi hoàn thành luận văn này. Do điều kiện nghiên cứu bản thân còn những hạn chế và thời gian viết có hạn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong được Quý thầy cô, Hội đồng khoa học và các bạn quan tâm đóng góp thêm để luận văn được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cám ơn. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/ Văn kiện Đại hội Đại biển toàn quốc lần thứ IV,X của Đảng cộng sản Việt Nam, 2/ Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ. Nhà xuất bản Thống kê 1998, 3/ Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính 1999 Khoa tài chính doanh nghiệp và kinh doanh tiền, Trường đại học Kinh tế TP.HCM, 4/ Định hướng phát triển thủy sản năm 1999 – 2010 của Bộ Thủy sản, 5/ Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh An Giang đến năm 2010, 6/ Quy hoạch phát triển ngành nông nghiệp An Giang đến năm 2010, 7/ Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp An Giang đến năm 2010, 8/ Quy hoạch phát triển ngành Thủy sản An Giang đến năm 2010, 9/ Đề án xuất khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2005 tỉnh An Giang tháng 04/2001, 10/ Đề án phát triển thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 2000 – 2005, 11/ Đề án phát triển cá tra, cá ba sa giai đoạn 2000 – 2005, 2010, 12/ Đề án phát triển hệ thống sản xuất giống thủy sản tỉnh An Giang giai đoạn 2000- 2005, 2010, 13/ Quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra, cá basa vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Thủy sản 14/ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh An Giang khóa VI, VIII, 15/ Niên giám Thống kê tỉnh An Giang 2000 - 2005, 16/Tài liệu “An Giang triển vọng và cơ hội đầu tư – UBND tỉnh An Giang tháng 02/2003, 17/ Các báo cáo tổng kết ngành nông nghiệp, thủy sản của tỉnh và Bộ, 18/ Tạp chí Thông tin Khoa học kỹ thuật - Bộ Thủy sản, Tạp chí cộng sản, Báo Nhân Dân, Tạp chí Kinh tế Việt Nam, Báo An Giang, 19/ Trang web: http//www.fistennet.mofi.gov.vn (Trung tâm tin học của Bộ thủy sản). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0788.pdf
Tài liệu liên quan