lời nói đầu
Ngày nay, du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của con người, đặc biệt là trong xã hội có sự phát triển cao. Chúng ta có thể thấy hình ảnh của những người khách du lịch khắp mọi nơi trên thế giới: trong các khu rừng nhiệt đới ẩm ướt đến các vùng sa mạc nóng bỏng, trên dãy núi Himalaya tới đáy biển sâu, dọc các mũi băng ở hai cực trái đất lạnh giá hay những nơi đô thị ồn ào… Đồng thời du lịch đã, đang và sẽ trở thành ngành công nghiệp lớn nhất trên thế giới vì theo
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Bước đầu nghiên cứu tiềm năng tài nguyên phát triển du lịch ở Hương Sơn - Mĩ Đức - Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dự báo trong "Tầm nhìn du lịch 2020" của WTO khách du lịch được dự báo sẽ tăng 4,3% mỗi năm trong hai thập niên tới, trong khi mức thu từ du lịch quốc tế sẽ lên tới 6,7% mỗi năm. Như vậy đến năm 2020 sẽ có khoảng 1,5 tỉ khách du lịch đến các nước hàng năm và chi tiêu hơn 2020 tỉ USD mỗi ngày. Đối với du lịch nội địa, các dự báo về số lượng khách du lịch sẽ tăng lên 10 lần và mức thu nhập lên 4 lần, đưa tổng số lên 16 tỉ khách du lịch tiêu hết khoảng 8 ngàn tỉ USD vào năm 2020. Như vậy du lịch trong thế kỉ 21 không chỉ là ngành công nghiệp lớn nhất toàn cầu mà còn là rộng khắp thế giới. Điều đó cũng có nghĩa là tương lai của du lịch sẽ phụ thuộc vào sự phát triển có trách nhiệm về xã hội đối với cộng đồng người dân địa phương vùng du lịch. Song cùng với sự tăng trưởng đó công nghiệp du lịch phải chịu trách nhiệm về các tác động đến nền kinh tế mà còn đến môi trường xã hội và văn hoá.
Du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã và đang dần khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế, du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và mang lại lợi nhuận cao góp phần phát triển đất nước. Thế kỉ 21 - Thiên niên kỉ mới hứa hẹn với sự phát triển tốc độ của nền kinh tế tri thức, trong đó công nghệ thông tin là chủ đạo. Chính vì vậy ngành du lịch Việt Nam càng được phát triển hội nhập với sự giao lưu văn hoá thế giới. Du lịch Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức du lịch thế giới (WTO), của Hiệp hội du lịch Châu á - Thái Bình Dương (PATA). Hiệp hội du lịch Đông Nam á (ASEANTA). Các doanh nghiệp du lịch Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với gần 1000 doanh nghiệp của các nước trên thế giới.
Không những thế du lịch Việt Nam đang đứng trước những vấn đề lớn như: "du lịch sinh thái", "du lịch bền vững", hay nói cách khác là du lịch "có trách nhiệm". Điều này gợi cho chúng ta dạng thức du lịch với các tác động tiêu cực đến môi trường và văn hoá là thấp nhất, và đảm bảo rằng lợi nhuận phải đến với người nghèo. Du lịch "có trách nhiệm" không phản đối du hành nhưng phải đảm bảo cho các cảnh quan không bị phá huỷ, các giá trị thẩm mỹ của thiên nhiên và công trình kiến trúc được bảo vệ lưu giữ, các nền văn hoá được tôn trọng và lợi nhuận kinh tế được chia đều. Du lịch sinh thái đáp ứng được mong muốn của khách du lịch được nghỉ ngơi ở những nơi trong lành, đem lại các lợi ích cho nhân dân địa phương thôn qua việc làm và thu nhập từ du lịch.
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới - gió mùa cùng với sự phân hóa phức tạp của các điều kiện sinh thái cảnh quan cho nên đã tạo ra tính đa dạng về tiềm năng du lịch sinh thái. Đảng và Nhà nước ngay càng quan tâm đến việc phát triển du lịch sinh thái nhân văn ở nhiều vùng và điểm du lịch như: Các Vườn quốc gia (Cát Bà, Cúc Phương, Bến En)…
Du lịch Hà Tây cũng đang trên đà xây dựng, phát triển trong hệ thống du lịch Việt Nam với những chỉ tiêu phấn đấu cụ thể và được định hướng trong báo cáo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây khoá IX nhiệm kỳ 2000-2005. Trong những trọng điểm phát triển kinh tế du lịch - dịch vụ trọng điểm Hương Sơn - Mỹ Đức là một trọng điểm chính.
Khu di tích danh thắng Hương Sơn (thuộc địa bàn xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây) đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh đặc biệt quốc gia năm 1962. Những giá trị tự nhiên, giá trị nhân văn của khu di tích thắng cảnh Hương Sơn đã tạo cho nơi đây trở thành khu du lịch nổi tiếng. Hương Sơn chẳng những là khu di tích Phật giáo lâu đời nhất, mà vùng đất này còn chứa đựng tinh thần văn hoá sâu sắc của dân tộc Việt Nam, rừng núi nơi đây đã cung cấp những đặc sản có giá trị như mơ Hương Tích, rau sắng… các loại động vật hoang dã chim thú quý hiếm đã được bảo vệ bảo tồn, là nơi hội tụ của quần thể núi rừng, hang động suối hồ, chùa chiền với nhiều cảnh quan và tài nguyên vô cùng hấp dẫn như: Suối Yến, Chùa Thiên Trù, động Phật Tích… Đặc biệt Hương Sơn còn là nơi có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa phương đông nhất nước ta. Đó là những bằng chứng rất sống động cho thấy Hương Sơn có đủ điều kiện để phát triển du lịch sinh thái nhân văn.
Từ trước đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về Hương Sơn như "cải thiện môi trường và hỗ trợ giải quyết ách tắc khu lễ hội" của Phó Tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, "Quy hoạch tổng thể Hương Sơn" của Viện nghiên cứu phát triển du lịch… Song Hương Sơn vẫn như một chân trời mới đầy hứa hẹn cho những học giả nghiên cứu về mình. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Bước đầu nghiên cứu tiềm năng tài nguyên phát triển du lịch ở Hương Sơn - Mĩ Đức - Hà Tây" cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Để hoàn thành khoá luận, tác giả cũng gặp phải một số khó khăn trong quá trình thực hiện. Nguồn tài liệu mang tính cập nhật chưa phong phú, thời gian tìm hiểu, kiến thức lý luận và thực tiễn của người viết còn hạn chế do đó đã không tránh được những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự xem xét, đóng góp ý kiến để bổ xung kiến thức cho bản thân.
Nguồn tư liệu cũng đóng góp một phần quan trọng trong khoá luận của tác giả, nguồn tư liệu đó bao gồm tư liệu thành văn (tài liệu sách, báo, tạp chí, tranh ảnh, các công trình nghiên cứu) và quan trọng hơn là những tư liệu trong quá trình khảo sát thực tế (Số liệu, bảng hỏi, tranh ảnh).
Trong khoá luận này tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như: Phương pháp thu thập tài liệu, xử lý thông tin, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp thực địa, phương pháp phỏng vấn.
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận được chia làm 2 phần:
Phần 1: Báo cáo quá trình thực tập
Phần 2: Báo cáo chuyên đề
Nhân đây tác giả xin tỏ lòng biết ơn, sự cảm tạ tới sở du lịch Hà Tây, UBND huyện Mỹ Đức, UBND huyện Hương Sơn, Ban quản lý khu Di tích danh thắng Hương Sơn cùng các cô giáo, bè bạn trong và ngoài khoa và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thành bài báo cáo tốt nghiệp này đặc biệt tác giả xin chân thành cảm ơn, giành những tình cảm sâu sắc nhất tới Giám đốc chi nhánh công ty du lịch Hồng Gai, Đỗ Xuân Ngoạn - người thầy, người hướng dẫn đã tận tình chu đáo trực tiếp định hướng và giúp đỡ tác giả hoàn thành bài báo cáo này.
Phần I: Báo cáo quá trình thực tập
1. Mở đầu
1.1. Mục tiêu thực tập tốt nghiệp
Sau một khoá học được đào tạo tại khoa Du lịch - Trường Đại học Đông Đô Hà Nội trong khoảng 3 năm. Đó là một thời gian rất dài với những môn học lý thuyết trên giảng đường. Để giúp sinh viên có được một kiến thức tốt hơn ngay sau khi tốt nghiệp cả về lý thuyết cũng như thực tế. Với thời gian thực tập này đã giúp cho chúng em phát huy và sử dụng các kiến thức đã được học trong điều kiện thực tế công việc.
Qua đó chúng em có thể xác định được những công việc cần được làm và quan tâm. Đồng thời xác định rõ lại các ngành nghề đã học, tìm hiểu công việc phù hợp với khả năng và trình độ của mình.
1.2. Lịch sử hình thành và chức năng hoạt động của HONGGAI TOURIST COMPANY
Nằm ở miền Đông Bắc Việt Nam, Quảng Ninh được biết đến với Vịnh Hạ Long luôn nổi bật lên như một hình ảnh độc đáo và hấp dẫn vào bậc nhất cùng hàng trăm di tích lịch sử, văn hoá thiên nhiên khác có khả năng thu hút khách Du lịch trong nước và quốc tế. Nhằm khai thác những giá trị tài nguyên Du lịch đó đồng thời là để quảng bá rộng rãi hơn nữa với du khách về hình ảnh quê hương vùng than. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã:
- Căn cứ vào luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND ngày 06/06/1989
- Căn cứ vào nghị định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991
- Căn cứ vào nghị định số 156/HĐBT ngày 07/5/1992 về quy chế giải thể và thành lập DNNN.
- Căn cứ vào thông báo số 29/TB ngày 08/3/1993 của Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch.
- Quyết định: thành lập DNNN Công ty Du lịch và dịch vụ Hồng Gai ngày 09/3/1993.
Trụ sở chính đặt tại 130A - Lê Thánh Tông - Thành phố Hạ Long
Công ty được cấp giấy phép lữ hành quốc tế số 00063/LHQT với tên giao dịch là: Hồng Gai Tuorist and Service Company.
Công ty Du lịch và dịch vụ Hồng Gai từ khi chính thức đi vào hoạt động cũng gặp phải những khó khăn và thử thách chung như nhiều Công ty khác. Song bằng sự cố gắng của cán bộ công nhân viên đã duy trì và tạo được uy tín trong hoạt động kinh doanh của Công ty cho đến ngày hôm nay. Công ty đã gặp được rất nhiều thành tựu và đời sống của cán bộ công nhân viên chức ngày càng được nâng cao. Hiện nay, Công ty đã có chi nhánh và văn phòng đại diện tại: Hà Nội (số 130, phố Lò Đúc và văn phòng Du lịch Thanh Vân ở Gia Lâm), Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Móng Cái, Lạng Sơn và ở nước ngoài như: Nam Ninh (Trung Quốc), Bangkok (Thái Lan), Hồng Kong. Điều này cho thấy phạm vi hoạt động của Công ty khá lớn và nguồn thu nhập về Du lịch sẽ là không nhỏ.
Công ty Du lịch và dịch vụ Hồng Gai là đơn vị kinh tế quốc doanh trực thuộc UBND tỉnh Quảng Ninh, hạch toán kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và có con dấu riêng.
Nội dung hoạt động của Công ty
Kinh doanh Du lịch như: lữ hành, khách sạn, vận chuyển, ăn uống, hướng dẫn viên, phiên dịch, dịch vụ thông tin, vui chơi, giải trí và các loại hình dịch vụ khác.
Kinh doanh hàng hoá tổng hợp phục vụ nhu cầu trong nước và nước ngoài.
Tham gia xuất nhập khẩu hàng hoá phục vụ cho hoạt động Du lịch, phục vụ đời sống cho mọi đối tượng xã hội.
Mở rộng liên doanh liên kết với các tổ chức Du lịch và dịch vụ trong nước và quốc tế nhằm không ngừng nâng cao chất lượng về Du lịch và dịch vụ.
1.3. Tổ chức bộ máy của Công ty
Bảng 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty
Hội đồng quản trị
Giám đốc
Phó giám đốc
Bộ phận hỗ trợ
Bộ phận
lễ tân
Bộ phận nghiệp vụ du lịch
Hệ thống chi nhánh
Khách sạn
Kinh doanh khác
Bộ phận tổng hợp
Tài chính kế toán
Tổ chức hành chính
Phòng điều hành
Phòng thị trường
Phòng hướng dẫn
Phòng lữ hành quốc tế
Phòng lữ hành nội địa
1.4. Mô tả về thị trường hoạt động
Thị trường khách Du lịch chủ yếu là khách Trung Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan và khách Việt Nam. Ngoài ra còn cung cấp các chuyển tour: Inbound, Outbound và Domestic.
1.5. Bộ phận thực tập
Chủ yếu bộ phận nghiệp vụ Du lịch, đây là bộ phận có nhiệm vụ xây dựng các chương trình để bán, khai thác khách và điều hành.
2. Nội dung thực tập
2.1. Nguyên lý thực hành hướng dẫn và hoạt động của Công ty trong kinh doanh lữ hành và các dịch vụ liên quan
Hiện nay Du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn hàng đầu của hầu hết các nước trên thế giới, và ngành này đã được đánh giá là ngành kinh tế năng động nhất hiện nay. Ngày nay, ngành Du lịch có sự cạnh tranh vô cùng gay gắt, do vậy mà các nhà Du lịch phải luôn luôn cập nhật thông tin, nắm bắt được các xu hướng phát triển của ngành để có thể tồn tại vững vàng trên thị trường về cả khách hàng và sản phẩm.
Và một trong những nhân tố tạo lên sự thành công của chuyến Du lịch đó là vai trò của hướng dẫn viên. Hướng dẫn viên phải là người có kiến thức sâu rộng về mọi vấn đề trong cuộc sống như: Lịch sử, Địa lý, văn hoá, Phong tục - Tập quán… trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp là hai yếu tố quan trọng nhất của hướng dẫn viên dẫn tới sự thành công của mình. Ngoài ra, họ còn phải có thái độ làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm, yêu nghề, nhanh nhậy trong mọi tình huống để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong chuyến đi một cách an toàn.
Hướng dẫn viên được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau như:
+ Hướng dẫn tại một điểm du lịch: Hay còn gọi là hướng dẫn địa phương
+ Hướng dẫn từng phần: Thường hoạt động ở trong các bảo tàng
+ Lái xe kiêm hướng dẫn
+ Phiên dịch kiêm hướng dẫn
+ Hướng dẫn đoàn: đây là người có trách nhiệm cao nhất. Phải đón khách, đi tour, thuyết minh, giải quyết các vấn đề và làm việc với khách với thời gian dài.
Thông thường hướng dẫn viên phải dẫn các đoàn khách trong và ngoài nước đi thăm các điểm du lịch trong thành phố và các vùng phụ cận. Do vậy mà hướng dẫn phải cho mình các kiến thức cần thiết để có thể đảm nhận thành công vai trò của mình.
Một chương trình du lịch chia làm 3 phần: Mở đầu, nội dung và tiễn đoàn. Tất cả đều phải được sắp xếp một cách hoàn chỉnh đảm bảo cho chuyến đi thành công tốt đẹp. Và công việc của hướng dẫn bắt đầu từ khi đón khách, thu xếp công việc chung cho đoàn, xây dựng bài thuyết minh,… tiễn đoàn. Nhưng quan trọng nhất phần mở đầu, bởi vì nó tạo cơ hội cho hướng dẫn viên tạo ấn tượng với khách hàng và nó cũng làm cho chuyến tour vui vẻ và thành công. Về nội dung thì hướng dẫn sẽ chia sẻ với du khách và giúp họ cảm nhận được mục đích của chuyến du lịch. Do vậy mà hướng dẫn cần phải có một kiến thức vững vàng về điểm Du lịch đồng thời có khả năng diễn đạt tốt.
Tiễn khách cũng là một nghệ thuật. Tạo cho du khách có được những thông tin cũng như sự bất ngờ cuối cùng.
Hơn thế nữa hướng đẫn viên còn phải có khả năng đáp ứng các nhu cầu thông tin khác của khách như: thông tin chỉ dẫn, vui đùa, học hỏi… Quá trình tiếp nhận và truyền đạt thông tin giữa khách và hướng dẫn chỉ thực sự thành công khi đôi bên cảm nhận và được đáp ứng được các mong muốn của mình.
Tóm lại, để trở thành hướng dẫn viên giỏi thì cần phải thành thạo các kỹ năng và thông thạo mọi lĩnh vực.
2.2. Thực tế hoạt động của Công ty trong kinh doanh Du lịch, lữ hành và
các dịch vụ liên quan
Thế nào là một chương trình Du lịch? Bao gồm các dịch vụ của du khách đã được lên kế hoạch, đặt trước, khách du lịch đã thanh toán đầy đủ. Theo giáo trình đã học thì hoạt động Du lịch trọn gói mang tính chất đặc trưng cho hoạt động lữ hành. Các Công ty Du lịch liên kết các sản phẩm của các nhà cung cấp thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách Du lịch với một mức giá nhất định đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và du khách có thể tham gia: Chương trình du lịch nội địa, quốc tế, văn hoá và các chương trình theo nhu cầu của khách.
Tour Du lịch trọn gói là sự kết hợp ít nhất 3 yếu tố: vận chuyển, cư trú, ăn uống đã được thu xếp từ trước.
Công ty Du lịch Hồng Gai có đa dạng các sản phẩm Du lịch trọn gói, độc lập, trong nước, nước ngoài, nội địa và thiết kế theo nhu cầu của khách hàng.
Với các chương trình đã được thiết kế sẵn để lựa chọn như:
+ Phía bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Sapa, Hoà Bình, Điện Biên Phủ, Sơn La…
+ Miền trung: Huế, Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Quy Nhơn, Kom Tum, Pleiku, Buôn Mê Thuật, Đà Lạt…
+ Miền Nam: Mỹ Tho, Vĩnh Long, Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ, An Giang, Bạc Liêu…
+ Chương trình Du lịch Outbound: Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan…
Trên thực tế hoạt động của Công ty đã tổ chức nhiều chuyến tour cho các nhóm du lịch và em đã được tiếp xúc thực tế chuyến tour: Hà Nội - Hạ Long (2 ngày/1 đêm)…
Trước khi bắt đầu chương trình Du lịch hướng dẫn viên cần phải đọc chương trình Du lịch một cách chi tiết cụ thể: Vận chuyển, ăn uống thăm vịnh, khách sạn, tên khách hàng…
Hầu hết những nội dung lý thuyết đã học đều gắn liền với thực tế. Một hướng dẫn viên phải nắm chắc các kĩ năng đã học và nhanh nhậy nắm bắt được các vấn đề nảy sinh trong chuyến Du lịch và không ngừng học hỏi vươn lên thì sẽ thành công trong công việc.
2.3. Hoạt động Marketing, thị trường khách Du lịch và xu hướng mới trong Du lịch, ưu tiên nghiên cứu những cơ hội và thách thức trong kinh doanh Du lịch ở các thị trường mục tiêu.
Marketing là một thuật ngữ được dùng một cách phổ biến trong các ngành kinh tế. Nó có một vai trò to lớn đối với cả người sản xuất, cả người tiêu dùng theo nghĩa rộng của nó. Vì người sản xuất muốn tạo lợi nhuận, người tiêu dùng muốn tạo ra lợi ích.
Để thực hiện marketing mục tiêu người ta cần phải phân đoạn những vùng mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong đó người ta cần phải quan tâm tới 4 khía cạnh sau:
+ Khả năng bán
+ Cạnh tranh
+ Chi phí
+ Lợi nhuận
Sự lựa chọn mục tiêu thay thế mà một vùng chọn lựa bao gồm từ thị trường không có sự phân đoạn đến thị trường có rất nhiều phân đoạn.
Thị trường không phân đoạn
Thị trường nhiều phân đoạn
Marketing có tính chất lựa chọn
Phân đoạn đơn lẻ
Những bạn chế trong việc lựa chọn thị trường mục tiêu: Có rất nhiều đến yếu tố có thể hạn chế sự lựa chọn các phân đoạn thị trường. Bao gồm:
+ Nếu vùng có nguồn lực hạn chế
+ Thị trường có nhiều nhu cầu
Khi xác định mục tiêu Du lịch của vùng chung ta lên cân nhắc một vấn đề sau: kinh tế, môi trường, dân số, khách.
Ví dụ: Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch Việt Nam (1995 - 2010) xác định 5 mục tiêu:
Mục tiêu kinh tế: Tối ưu hoá sự đóng góp của ngành Du lịch vào thu nhập quốc dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc làm và cán cân thanh toán bằng cách tạo ra một môi trường kinh tế thuận lợi cho sự phát triển của ngành, sao cho vào thập kỷ 21 Du lịch trở thành một ngành công nghiệp tương xứng với tiềm năng Du lịch to lớn của đất nước (Nghị quyết trung ương VII).
Mục tiêu an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội: Nhằm thu hút ngày càng cao lượng khách Du lịch quốc tế đến Việt Nam, nhưng không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Mục tiêu về môi trường: Gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững, từ đó đặt ra các kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp với việc tôn tạo, khai thác và bảo vệ các di sản thiên nhiên, cảnh quan, môi trường.
Mục tiêu văn hoá xã hội: Gắn liền với việc giữ gìn truyền thống văn hoá đồng thời khai thác các di sản văn hoá nghệ thuật có giá trị cao, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, các di tích lịch sử, công trình văn hoá nổi tiếng, nâng cao các tiêu chuẩn ngành, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phát triển Du lịch và văn hoá có chất lượng cao của cả nước để đa dạng hoá các sản phẩm Du lịch Việt Nam. Song song với nó là việc đẩy mạnh phát triển Du lịch, trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại thăm thân, thăm quan của nhân dân.
Mục tiêu hỗ trợ phát triển: Cung cấp thông tin tư liệu, những định hướng chiến lược cơ bản để hỗ trợ cho việc lập kế hoạch, xúc tiến, phát triển, sự phối hợp, nghiên cứu, thống kê… Giúp cho sự phát triển của ngành ở trung ương cũng như ở địa phương.
3. Đánh giá những lợi thế, thuận lợi, những khó khăn trong thực tập
3.1. Lợi thế, thuận lợi
Trong thời gian thực tập vừa qua, mặc dù với thời gian không nhiều nhưng em đã thu nhận được rất nhiều kinh nghiệm trong thực tế, có cơ hội tiếp xúc được với các khó khăn cũng như thuận lợi trong công việc.
Trong 3 năm học qua với sự cố gắng của bản thân và sự tận tình giúp đỡ dạy bảo của các thầy cô giáo trong khoa Du lịch, em đã lĩnh hội được rất nhiều kiến thức lý thuyết bổ ích. Lại thêm 4 tuần thực tập tại cơ sở để thực tập các kiến thức của mình đã tạo cho em rất nhiều thuận lợi: Em được tiếp cận với công việc Marketing, một công việc được đánh giá là phức tạp và khó khăn nhất, đòi hỏi phải có lòng kiên trì, giao tiếp tốt, nhanh nhẹn… để đạt được sản phẩm ra thị trường và làm thế nào để khách hàng có thể tiếp cận được.
Và điều đặc biệt hơn là rèn luyện được cách đối diện với khách hàng tự tin và trả lời được các câu hỏi mà khách hàng đặt ra. Hồng Gai Tourism là một Công ty lớn, bao gồm đầy đủ các phòng ban. Chính vì vậy, em có cơ hội áp dụng các kiến thức đã học trên lớp với thực tế thuận lợi.
3.2. Những khó khăn
Công ty Du lịch Hồng Gai là một Công ty lớn và họ rất mạnh về đón khách quốc tế là Trung Quốc do vậy rất khó khăn cho chúng em trong việc giao tiếp.
4. Kiến nghị và kết luận
4.1. Các kiến nghị
Với khoa: Hiện nay người Việt Nam có xu hướng đi Du lịch sang các nước Đông Nam á là rất phổ biến. Do vậy, chúng em cần có nhiều hơn nữa các nghiệp vụ quốc tế và một số luật lệ quốc tế.
Với cơ sở thực tập: Với khả năng và trình độ của sinh viên Trường Đại học Dân lập Đông Đô thực tập tại Công ty, sau thời gian này em mong muốn Công ty sẽ tạo điều kiện giúp đỡ những sinh viên khoá sau của trường đến thực tập.
4.2. Kết luận
Với khoảng thời gian thực tập tuy không dài nhưng em đã thu nhận được rất nhiều điều bổ ích, em cảm thấy tự tin hơn trong công việc.
Qua đợt thực tập này em muốn bày tỏ lòng biết ơn đến ban giám đốc và điều hành của Công ty đã tạo điều kiện cho chúng em thực tập trong thời gian qua.
Qua đây em muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa Du lịch - Trường Đại học Dân lập Đông Đô đã truyền đạt cho chúng em nhiều kiến thức bổ ích.
Phần II: Báo cáo chuyên đề
Chương I
Tổng quan về Hương Sơn
1.1. Địa lý, cảnh quan.
Hà Tây là một tỉnh có những ưu thế thuận lợi về vị trí địa lý, văn hoá và xã hội, nằm sát thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch Quốc tế. Đồng thời Hà Tây là một vùng đất "địa linh nhân kiệt", thiên nhiên đã ưu đãi cho mảnh đất này những tiềm ẩn rất lớn về khả năng khai thác dịch vụ - du lịch. Đó cũng là một trong ba thế mạnh trong sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh và nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX cũng đã chỉ rõ: trong năm năm tới (2001 - 2005) tăng cường đầu tư phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tập trung vào các trọng điểm du lịch của tỉnh như Sơn Tây, Bà Vì và Hương Sơn.
Vùng đất Hương Sơn thuộc xã Hương Sơn ở phía Nam của huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 50km về phía Tây nam, có toạ độ địa lý 24034' độ vĩ Bắc và 105041' độ kinh Đông. Phía Bắc và phía Đông thuộc Hà Tây, phía Nam giáp Hà Nam, phía Tây Giáp Hoà Bình, diện tích khoảng 3600 km2. Hương Sơn thuận lợi cho du khách cả về đường thuỷ lẫn đường bộ, khách du lịch từ Hà Nội đi theo quốc lộ 6 sau đó đi theo quốc lộ 22 chạy suốt từ thị xã Hà Đông đến Hương Sơn, khách từ Hà Nam có thể đi theo đường bộ hoặc đường thuỷ và ngược sông Đáy là đến với Hương Sơn. Là một vùng đất với nhiều thuận lợi cho nên khách từ các tỉnh lân cận khác như: HoàBình, Hưng Yên, Hải Dương… muốn đến Hương Sơn cũng không phải là khó khăn. Đã từ lâu dân gian xứ Đoài vẫn lưu truyền câu ca đầy tự hào về vẻ đẹp chùa Hương:
Bối Khê, Tiên Lữ, Chùa Thầy
Đẹp thì có đẹp, chưa tầy chùa Hương
Chẳng đi thì nhớ thì thương
Ra đi mến cảnh chùa Hương không về.
Quả thật Hương Sơn đã có nhiều người ưu ái với tên gọi thật nổi danh: "Tiểu sơn lâm mà có đại kỳ quan". Kỳ quan là nơi có núi sông hoành tráng, hùng vĩ tạo nên những hình khối đẹp đẽ, có giá trị lớn về lịch sử văn hoá, về thẩm mỹ môi sinh, về du lịch, về di dưỡng vật chất, tinh thần cho một cộng đồng cư dân bản địa và du khách từ nơi khác đến. Kỳ quan là nơi mời gọi, nơi hội tụ, nơi gặp gỡ giao lưu, nơi hội nhập và là nơi phân phát, nơi đáp ứng sự khát khao tìm hiểu, nơi cứu rỗi và thư giãn tâm linh của nhiều thế hệ, nhiều thời đại trong lịch sử, nơi cứu rỗi và thư giãn tâm linh của nhiều thế hệ, nhiều thời đại trong lịch sử, trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Chữ "kỳ" ở đây với nghĩa là kỳ lạ, hiếm có, còn chữ "quan" với nghĩa là cảnh quan. Vậy kỳ quan là nơi có cảnh quan núi sông đẹp đẽ lạ lùng, đem lại nhiều giá trị to lớn cho con người về nhiều phương diện khác nhau. Cho nên nhắc đến kỳ quan Hương Sơn là muốn nhắc đến một vùng sơn anh cẩm tú, một danh lam thắng cảnh vào loại bậc nhất của nước Việt Nam xưa nay. Nơi đây là quần thể của một vùng sông, suối, núi đồng, làng mạc, chùa chiền, đền thờ, hang động, tất cả đẹp như một bức tranh thuỷ mạc, lại kỳ ảo biến hoá như ánh sáng thiên nhiên. Cấu tạo núi đá vôi đã tạo cho Hương Sơn phong cảnh đặc sắc và trữ tình, đồi núi trập trùng đan xen nhau và giữa các dãy núi là các thung quèn. Hương Sơn là thánh địa của Phật giáo nên nơi đây tập trung rất nhiều đền thờ, chùa chiền, hang động như: Đền Trình, Đền Cửa Võng, chùa Thanh Sơn, chùa Hương Đài, chùa Thiên Trù, chùa Giải Oan, chùa Long Vân, chùa Tuyết Sơn, động Hương Tích, động Tiên Sơn…
Dòng suối Yến thiên tạo chính là cái hồn của vùng Hương Sơn, đến Hương Sơn mà du khách không khởi đầu bằng đò suối, thì không chỉ mất đi thú đi chơi sơn thuỷ mà chính là mất đi ý nghĩa tốt đẹp trước khi vào đất Phật, bên cạnh đó còn có suối Tuyết với khung cảnh lãng mạn rất hấp dẫn du khách. Trên con đường đá núi dài 2040m lên động Hương Tích có nhiều hang động đẹp như động Đại Binh, động chùa Tiên, đặc biệt là động Hương Tích là động rộng nhất, kỳ lạ nhất và ấn tượng nhất [15,07], trên con đường lên động phong cảnh thiên nhiên với màu xanh cây cỏ xen lẫn với những loài hoa khoe sắc như: hoa gạo, hoa mơ, hoa đại tạo nên cảm giác khoan thai và như thúc dục bước chân du khách bớt phần mệt mỏi. Đia hình núi đá vôi với hệ sinh vật phong phú, cảnh quan với phong cảnh sơn thuỷ hữu tình có thể đáp ứng nhiều loại hình du lịch: du lịch tham quan nghiên cứu, du lịch sinh thái, du lịch leo núi, du lịch mạo hiểm, du lịch trang trại, du lịch cuối tuần, du lịch điền dã…
1.2. Dân cư, kinh tế - xã hội
1.2.1. Dân cư
Dân cư là lực lượng sản xuất quan trọng của xã hội, số người lao động trong hoạt động sản xuất và dịch vụ ngày càng đông gắn liền trực tiếp với kinh tế du lịch, vì thế việc nghiên cứu và nắm vững đặc điểm dân cư sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Đặc biệt ở Hương Sơn - một vùng cảnh quan du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước với đặc điểm nổi bật là cộng đồng dân cư địa phương tham gia vào hoạt động du lịch đông nhất trong cả nước.
Xã Hương Sơn với 6 thôn là: Đục Khê, Yến Vỹ, Hà Đoạn, Hội Xá, Phú Yên, Tiên Mai. Hương Sơn là một trong 4 xã có số dân đông nhất của huyện Mỹ Đức gồm 4189 hộ với khoảng 18.575 nhân khẩu, tỉ lệ nữ chiếm 70%, tỉ lệ nam chiếm 30%, cũng với tỉ lệ nữ cao hơn nam cho nên hoạt động du lịch cũng như các hoạt động kinh tế khác, phụ nữ tham gia đông hơn nam giới. Mức gia tăng dân số năm 2001 là 1,12%, năm 2002 là 1,05%, đây là xã đông nhất vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong khi đó các xã:
An Tiến khoảng 5.605 nhân khẩu
Hùng Tiến khoảng 6.120 nhân khẩu
An Phú khoảng 5.805 nhân khẩu
Như vậy có sự chênh lệch tương đối lớn giữa các xã về số lượng nhân khẩu.
1.2.2. Kinh tế - xã hội
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện yếu tố cung và cầu du lịch, cung sẽ không thể đáp ứng được cầu nếu như trình độ sản xuất và các ngành kinh tế chậm phát triển và ngược lại cầu sẽ bị mất khi cung không giải quyết được những nhu cầu về ăn ở đi lại, nghỉ ngơi du lịch của con người Hương Sơn là vùng có danh thắng nổi tiếng, mức chênh lệch về sản xuất và đời sống của các xã trong vùng Hương Sơn rất khác nhau, bên cạnh xã Hương Sơn có nền kinh tế tương đối phát triển hơn với nhiều ngành nghề khác nhau thì các xã khác lại kém phát triển hơn với ít ngành nghề. Kinh tế xã hội của Hương Sơn được thể hiện ở các ngành: Nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ.
Nông nghiệp:
Hương Sơn tuy là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, với hoạt động du lịch sầm uất song có tới 100% hộ làm nông nghiệp bởi đây là vùng đồng chiêm lúa nước, kĩ thuật canh tác chưa cao, không trồng cấy được nhiều vụ cho nên thu hoạch không đạt hiệu quả, năng suất thấp làm ảnh hưởng tới đời sống nhân dân, ảnh hưởng đến hoạt động du lịch cũng như vấn đề bảo vệ cảnh quan thiên nhiên.
Chăn nuôi:
Các đàn gia cầm và gia súc ngày càng phát triển ở Hương Sơn, phong phú cả về số lượng và chủng loại như: lợn, gà, dê, bò, trâu… Đây là nguồn thực phẩm chủ yếu cung cấp cho nhân dân địa phương, đồng thời cũng là một phần quan trọng cung cấp cho khách du lịch trong mùa lễ hội.
Lâm nghiệp:
Người dân Hương Sơn cách đây ít năm vẫn coi nghề đi rừng là nghề kiếm sống, tổng diện tích đất lâm nghiệp của toàn huyện Mỹ Đức là 426 ha, trong đó vùng Hương Sơn chiếm 295 ha và gần 60% tổng số diện tích đó tập trung chủ yếu ở hai xã: Hương Sơn và An Phú.
Anh Nguyễn Duy Giáp - Giám đốc ban quản lý rừng đặc dụng Hương Sơn cho biết: hiện tượng rừng núi Hương Sơn nhữngnăm 90-94 có thể gọi là "hoang tàn" do sự khai thác bừa bãi tài nguyên rừng của người dân tới mức độ cạn kiệt. Rừng Hương Sơn chủ yếu là rừng trên núi đá vôi (chiếm 80% tổng diện tích) có độ mùn rất thấp, do vậy khi bị chặt phá rất khó tái sinh, những cánh rừng nhiệt đới lại còn rất ít như ở Thung Lá, Thung Mây, hoặc xung quanh động Hương Tích [30,07].
Đến nay hiện tượng khai thác lâm sản trái phép vẫn còn nhưng không đáng kể, vì người dân đã có ý thức rất cao và tự hào về cảnh đẹp của quê hương mình.
Thủ công nghiệp và thương nghiệp dịch vụ
Tính đến thời điểm này Hương Sơn có 100% số hộ làm nông nghiệp và khoảng 20-30% số hộ làm thủ công nghiệp và thương nghiệp dịch vụ. Các ngành tiểu thủ công nghiệp ở Hương Sơn hiện nay còn rất mờ nhạt, chưa có các mặt hàng mang tính chất địa phương và không thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường vào mùa lễ hội, mà chủ yếu là các mặt hàng của nước ngoài (Trung Quốc, Thái Lan…) và các thành phố khác (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng…)
Tỉ lệ số hộ làm thủ công nghiệp của xã Hương Sơn là 0,7%, thương nghiệp là 8%, dịch vụ là 2,7%, nếu so với toàn huyện thì tỷ lệ này là: 1% và 1,5%.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao và những phương tiện phục vụ cuộc sống con người ngày càng hiện đại. Hương Sơn đã làm được rất nhiều việc để đưa xã phát triển, trình độ dân trí được nâng lên do hoạt động được rất nhiều đến cuộc sống người dân, được tiếp xúc nhiều với du khách nên họ giao tiếp lịch sự hơn, nhà nước đầu tư kinh phí và trí tuệ để xây dựng, mỏ mang trường học, bệnh viện, trạm xá… Hiện nay 100% xã có điện, mỗi thôn có từ một đến hai trạm biến thế.
Bên cạnh đó Hương Sơn còn tồn tại nhiều vấn đề: chỉ có một thôn là thôn Yến Vỹ được dùng nước sạch, số thôn còn lại dùng nước giếng khoan phục vụ cho nông nghiệp và sinh hoạt, các dịch vụ du lịch, nguồn nước thải chưa được xử lý, gây ô nhiễm môi trường, mức thu nhập của người dân còn thấp, thu nhập trung bình từ 200-250 USD người/năm, và từ 400-450 kg lương thực/người/năm. Trong 3 tháng tham gia lễ hội thu nhập trung bình của người dân từ 1.000.000 - 1.200.000 đồng. Những vấn đề này tác động không nhỏ đến hoạt động du lịch sinh thái nhân văn ở Hương Sơn.
1.2.3. Đánh giá chung
Bước đầu nghiên cứu tiềm năng tài nguyên của Hoạt động du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng với cộng đồng dân cư địa phương có mối liên hệ chặt chẽ, qua lại với nhau. Trong những năm gần đây du lịch Hương Sơn đang từng bước thay đổi đặc biệt là về mặt xã họi, du lịch đem tới một cuộc sống ổn định và chất lượng cho cộng đồng địa phương, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống văn hoá, cộng đồng địa phương có thể đảm nhận và thực hiện một số công việc như: vận chuyển hành khách, bán hàng lưu niệm, cung cấp dịch vụ ăn uống, nhà._. nghỉ… và người dân Hương Sơn đang có những suy nghĩ tích cực khi họ biết rằng nguồn lợi mà họ thu được từ du lịch chính là khi họ biết giữ chữ tín đối với du khách. Song hiện nay chất lượng cuộc sống của cộng đồng địa phương so với nhiều vùng khác không cao, tình trạng thu nhập, ld sản xuất chỉ đủ cho cuộc sống sinh hoạt, ý thức người dân chưa cao nên dãn tới việc chặt cây, phá đá, phá huỷ cảnh quan môi trường, làm suy thoái tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, hiện tượng xả rác thải làm mất đi vẻ đẹp của cảnh quan, xâm hại đến hệ sinh thái… khiến cho du khách đến Hương Sơn trong những năm qua giảm một lượng không nhỏ. Đã đến lúc Hương Sơn cần tìm ra hướng giải quyết ch hoạt động kinh doanh du lịch đạt hiệu quả, và du lịch sinh thái cùng yếu tố cộng đồng dân cư địa phương là một trong những thế mạnh của du lịch Hương Sơn trong tương lai.
1.3. Quá trình hình thành và hoạt động du lịch lễ hội ở Hương Sơn
Cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam có nguồn gốc là cư dân nông nghiệp lúa nước, người nông dân quanh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" mong cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu. Vất vả quanh năm nhưng người nông dân cũng dành thời gian để nghỉ ngơi, nhìn lại quá trình lao động và cầu một năm mới có đủ "cơm no áo ấm". Vào mùa xuân họ thường tổ chức các lễ hội ăn mừng một năm thu hoạch được mùa, tổ chức những buổi cúng tế cầu an lành, hơn nữa việc đạo Phật đã có giai đoạn được coi là quốc đạo của nước ta trong nhiều năm đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt tâm linh người người dân Việt, và chùa Hương - Hương Sơn là một trong những lễ hội tâm linh phổ biến, thu hút khách hành hương từ mọi miền của tổ quốc.
Theo cuốn "Nam Hải Quán Thế Âm" - một truyện nôm ra đời vào khoảng thế kỉ XVIII - XIX, thì chùa Hương là nơi lưu trú dấu tu hành của công chúa Diệu Thiện con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm, dân gian quen gọi công chúa là Bà Chúa Ba. Bà tu hành 9 năm ở động Hương Tích, đắc đạo trở thành Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, sau trở về diệt trừ cái ác, đáp hiếu cha mẹ, phổ độ chúng sinh. Vậy là trong tâm thức của nhân dân Bà Chúa Ba là biểu tượng của đẹp đẽ của sự chân tu giữ đạo cứu đời, trở thành hình tượng gần gữi, cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của con người và dân chúng hy vọng vào sự cứu vớt của ngài.
Trước đây hội chùa Hương tự mở và tự đóng, khách đến thường là sau tết Thượng nguyên (rằm tháng giêng) và khoảng rằm tháng 3 là vãn khách. Ngày nay ban tổ chức lấy ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch để khai hội, ngày hội có lễ dâng hương tưởng nhớ các vị tướng thời vua Hùng, có tổ chức múa rồng và bơi thuyền trên dòng suối Yến. Ban đầu mục đích của những người đi trẩy hội chùa Hương là vãn cảnh, là cuộc hành hương vào nơi tu hành của bà chúa Ba, là vào cõi Phật nên phải xử sự theo cách ứng xử của các tín độ đạo Phật, người đi kẻ lại, gặp nhau chào hỏi, câu cửa miệng là A di đà Phật giúp tâm hồn khách hành hương thư thái và thanh tịnh, họ còn được thưởng thức nước lão mai, mang theo cơm nắm muối vừng khi vào cõi Phật.
Sau này khi xã hội phát triển, những người đi lễ hội chùa Hương là những người thuộc nhiều ngành nghề khác nhau, một số là kinh doanh, cũng có các công nhân viên chức nhà nước, và một lượng khá đông các cụgià đến hành hương… Cứ như vậy khi cuộc sống no đủ, thậm chí dư thừa, người dân có điều kiện đi đây đó thì lễ hội chùa Hương đã trở thành một hoạt động có tổ chức. Một loại hình du lịch lễ hội với các dịch vụ du lịch. Tại Hương Sơn đã hình thành các dịch vụ như lưu trú, ăn uống, mua sắm, và nhiều dịch vụ khác, các hàng quán mọc lên san sát và những người đi trẩy hội không phải lo thiếu thốn khi đến đây. Cùng với sự phát triển của các dịch vụ du lịch, cơ sở hạ tầng ngày càng được hoàn thiện và phong cảnh thiên nhiên kỳ vỹ đã hấp dẫn khách du lịch đến với lễ hội chùa Hương ngày càng đông hơn. Nếu như trước đây du khách phải chuẩn bị tất cả những vật dụng và lương thực, thực phẩm để mang theo thì hiện nay các dịch vụ du lịch đã đáp ứng cơ bản những nhu cầu đó.
Lễ hội Hương Sơn ngày càng phát triển và có qui mô lớn hơn. Lễ hội không chỉ là chốn hành hương của các Phật tử mà đã thu hút du khách trong và ngoài nước đến thăm. Đi hội chùa Hương nay đã trở thành một hoạt động hết sức phổ biến của người Việt Nam và là điểm đến khá hấp dẫn của du khách quốc tế.
Chương 2
Tiềm năng tài nguyên hiện trạng phát triển
du lịch sinh thái nhân văn ở Hương Sơn
2.1. Những vấn đề về du lịch sinh thái
2.1.1. Khái niệm du lịch sinh thái
Du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng đã và đang phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Đặc biệt trong điều kiện đô thị hoá ngày càng cao, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng gia tăng, để lập lại cân bằng cho nhịp sống đã bị phá vỡ, con người ham muốn tìm đến những nơi môi trường tự nhiên còn nguyên sơ và nền văn hoá còn nguyên bản. Dòng du khách kéo đến các "vùng sau", "vùng xa" có xu hướng ngày càng tăng. Do đó du lịch sinh thái có nhiều khả năng góp phần xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho mục tiêu bảo tồn các giá trị văn hoá bản địa, phát triển cộng đồng. Du lịch sinh thái cũng được xem là công cụ tốt nhất để giáo dục về môi trường, nâng cao nhận thức toàn dân về sự cần thiết phải bảo vệ sự đa dạng sinh học và hệ sinh thái dễ bị tổn thương.
Hoạt động du lịch sinh thái có nguồn gốc từ những năm 1960 khi mối quan tâm của quần chúng (hầu hết ở các nước công nghiệp) về môi trường đã tăng lên. Tiếp đó vào những năm 1980 khái niệm du lịch sinh thái đã xuất hiện. Có nhiều ý kiến về loại hình du lịch này và căn cứ vào những đặc thù và mục tiêu phát triển mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế đều phát triển những định nghĩa của riêng mình về du lịch sinh thái.
Định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về du lịch sinh thái lần đầu tiên được Hector Ceballos - Lascurain đưa ra năm 1987: "Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi, với những mục đích đặc biệt: nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hoá được khám phá".
Các nhà nghiên cứu Malaixia đã đưa ra định nghĩa: "du lịch sinh thái là hoạt động du lịch và thăm viếng một cách có trách nhiệm về mặt môi trường, tới những khu thiên nhiên còn nguyên vẹn nhằm tận hưởng và trân trọng những giá trị của tự nhiên (và những đặc tính văn hoá kèm theo, trước đây cũng như hiện nay) mà hoạt động này sẽ thúc đẩy công tác bảo tồn, có ảnh hưởng của du khách không lớn và tạo điều kiện cho dân chúng địa phương được tham dự một cách tích cực, có lợi về xã hội và kinh tế".
Khái niệm du lịch sinh thái của Việt Nam được đư ra trong hội thảo quốc gia về "xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam" từ ngày 7 đến 9/9/1999. Theo đó "du lịch sinh thái là loại hình dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương".
Nhìn chung các khái niệm du lịch sinh thái đều đưa ra các đặc điểm cơ bản nhất của du lịch sinh thái đó là:
Du lịch sinh thái dựa vào thiên nhiên và khách du lịch sinh thái tìm hiểu về tự nhiên cũng như những giá trị văn hoá truyền thống.
Du lịch sinh thái hạn chế đến mức thấp nhất các tác động đến môi trường tự nhiên và văn hoá - xã hội.
Du lịch sinh thái có hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn tự nhiên bằng cách: tạo ra những lợi ích về kinh tế cho địa phương, tạo ra các cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho cộng đồng địa phương, tăng cường nhận thức của du khách và người dân địa phương và sự cần thiết phải bảo tồn các giá trị tự nhiên và văn hoá.
Có thể kết luận rằng du lịch sinh thái khác với các hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên hay có tính giáo dục ở chỗ nó có mức độ giáo dục về sinh thái và môi trường cao, du lịch sinh thái bao hàm một phần đáng kể sự giao tiếp mạnh mẽ của con người mà được giáo dục thường làm biến chuyển các du khách thành những người tích cực bảo vệ môi trường. Hoạt động du lịch sinh thái sẽ làm giảm tới mức tối thiểu tác động của khách du lịch đối với môi trường và văn hoá, đảm bảo mang lại lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và đặc biệt có đóng góp về tài chính cho các nỗ lực bảo tồn.
Hiện nay du lịch sinh thái còn gần gũi với tên gọi như:
Du lịch thiên nhiên
Du lịch môi trường
Du lịch đặc thù
Du lịch xanh
Du lịch có trách nhiệm
Du lịch bền vững.
2.1.2. Đặc trưng của du lịch sinh thái
Mọi hoạt động phát triển du lịch nói chung và du lịch sinh thái nói riêng đều được thực hiện trên cơ sở khai thác những giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên, văn hoá, lịch sử, kèm theo các điều kiện về cơ sở hạ tầng và dịch vụ, kết quả của sự khai thác đó là sự hình thành những sản phẩm du lịch từ các tiềm năng về tự nhiên, đem lại nhiều lợi ích cho xã hội về mặt kinh tế - xã hội, về hưởng thụ các cảnh quan thiên nhiên mới lạ và độc đáo đối với khách du lịch.
Du lịch sinh thái cũng là một dạng của hoạt động du lịch vì thế nó cũng mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của hoạt động du lịch như: tính đa ngành, tính đa thành phần, tính chi phí, tính xã hội hoá. Bên cạnh những đặc trưng này du lịch sinh thái còn mang trong nó những đặc trưng riêng đó là:
Thứ nhất: tính giáo dục cao về môi trường: du lịch sinh thái hướng con người tiếp cận gần hơn nữa với các vùng tự nhiên và các khu bảo tồn, nơi có đa dạng cao về đa dạng sinh học và rất nhạy cảm về mặt môi trường.
Thứ hai: góp phần bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và duy trì tính đa dạng sinh học: hoạt động du lịch sinh thái có tác dụng giáo dục con người bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, qua đó hình thành ý thức bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như thúc đẩy các hoạt động bảo tồn, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.
Thứ ba: thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương: cộng đồng địa phương chính là những người chủ sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại địa phương mình, phát triển du lịch sinh thái hướng con người đến những vùng tự nhiên hoang sơ, có giá trị cao về đa dạng sinh học, điều này đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương tại khu vực đó, bởi vì hơn ai hết chính những dân địa phương tại đây hiểu rõ nhất về các nguồn tài nguyên của mình. Sự tham gia của cộng đồng địa phương có tác dụng to lớn trong việc giáo dục du khách bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn nữa nhận thức cho cộng đồng, tăng các nguồn thu nhập cho cộng đồng.
2.1.3. Một số loại hình du lịch sinh thái ở Việt Nam
Trên thế giới, các loại hình du lịch sinh thái đã được biết từ rất lâu và mang lại nguồn thu lớn cho ngành du lịch, tuy nhiên ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân khác nhau, những sản phẩm du lịch sinh thái đích thực hiện chưa có mà chỉ là những loại hình du lịch thiên nhiên mang màu sắc của du lịch sinh thái:
Dã ngoại: là hình thức du lịch đưa con người về với thiên nhiên, sản phẩm du lịch chủ yếu là tham quan thắng cảnh.
Leo núi: là loại hình du lịch chinh phục những đỉnh núi cao như: Phansipan, Bạch Mã… ngoài ra còn có các tour du lịch hành hương lễ hội đến các điểm di tích lịch sử văn hoá ở các khu bảo tồn thiên nhiên như: Chùa Hương, Yên Tử…
Đi bộ trong rừng: là hình thức du lịch tham quan các cảnh tự nhiên ở các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên đang phát triển.
Tham quan miệt vườn: là hình thức tham quan nghiên cứu hệ sinh thái nông nghiệp.
Thăm bản làng dân tộc: Du khách có cơ hội tìm hiểu các giá trị văn hoá bản địa, văn hoá dân gian, tập tục sinh hoạt, sản phẩm thủ công truyền thống…
Du thuyền, mạo hiểm, săn bắn, câu cá…: là những loại hình hấp dẫn du khách.
2.2. Điều kiện để tổ chức hoạt động du lịch sinh thái nhân văn ở Hương Sơn
2.2.1. Tiềm năng du lịch
Địa hình địa mạo:
Vùng núi đá vôi Hương Sơn là một nhánh của vùng Karst từ suối Rút, tỉnh Hoà Bình chạy ra đến hòn Nẹ ở ngoài khơi huyện Kim Sơn - Ninh Bình, dài trên 120 km, bề ngang chiếm toàn bộ vùng trũng sông Đà, rìa Đông là sông tích và sông Đáy, dãy Hương Sơn có đỉnh Thiên Trù cao 378m. Khí hậu nhiệt đới mưa nhiều của vùng núi là cơ sở và khả năng hoà tan đá vôi rất mạnh nước mưa rơi xuống bề mặt uốn nếp của các dãy núi, một phần chảy trên mặt thành suối Yến, một phần thấm sâu vào bề dày của lớp đá vôi theo các khe nứt, xâm thực mạnh làm đá nứt nẻ lởm chởm thành đá tai mèo và tạo nên những đỉnh đá nhọn hình răng cưa, bao quanh các thung như núi Sư tử, núi Trống, núi Gà…
Vùng núi Hương Sơn tiếp giáp với châu thổ sông Hồng, là ranh giới giữa vùng núi và đồng bằng, dãy núi Hương Sơn cùng với dãy núi Chi Nê, kiện Khê tuy nằm cách biệt nhau xong quá trình Karst hoạt động mạnh đã tạo nên những hang động, núi hình tháp, dạng chuông, hang luồn, hang động… Qua nhiều đợt kiến tạo địa lý, Hương Sơn được ưu đãi với nhiều hang động kỳ thú, muôn hình, muôn vẻ như Hương Tích, Long Vân… với nhiều nhũ đá hình người, long, ly, quy, phượng… dãy Hương Sơn nổi tiếng nhờ thế.
Khí hậu, thời tiết:
Khí hậu của khu di tích danh thắng Hương Sơn là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm là 230C, lượng mưa hàng năm khoảng 1920mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, tập trung vào các tháng 6, 7, 8. Mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến cuối tháng 3 năm sau. Tuy nhiên Hương Sơn cũng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc nên thường có mưa phùn tới hơn 25 ngày trong mùa khô. Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa lạnh khô và mùa nóng khô.
Mùa lạnh khô từ tháng 1 đến tháng 2 với nhiệt độ trung bình tháng khoảng 160C, lượng mưa phùn không đáng kể.
Mùa nóng khô từ tháng 7 đến tháng 8, nhiệt độ trung bình khoảng 290C, có ngày lên tới 35-400C, lượng mưa khoảng 85-90%.
Hạng
ý nghĩa
Nhiệt độ trung bình năm (0C)
Nhiệt độ trung bình tháng (0C)
Lượng mưa trung bình năm (0C)
1
Thích nghi
18-24
24-27
1250-1902
2
Khá thích nghi
24-27
27-29
1902-1550
3
Nóng
27-29
29-32
> 2250
4
Rất nóng
29-32
32-35
<1250
5
Không thích nghi
> 32
>35
<650
Bảng chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người
So sánh các chỉ tiêu trên thì khí hậu Hương Sơn thuộc vào vùng có điều kiện thích nghi và khá thích nghi, phù hợp với sức khoẻ con người. Đây là một trong những yếu tố quan trọng phát triển du lịch sinh thái.
Động thực vật
Thiên nhiên Hương Sơn không chỉ tuyệt mĩ về cảnh quan "sơn thuỷ hữu tình" mà còn là một vùng đa dạng sinh học, rất phong phú về các chủng loại động thực vật.
Ngoài rau sắng, củ mài, mơ rừng mà ai cũng biết và đã đi sâu vào thơ ca dân gian như:
"Muốn ăn rau sắng củ mài
Thì em đi chợ dãy dài Đục Khê".
Hoặc:
"Muốn ăn mơ phớt chấm đào
Thì em thẳng lối đi vào chợ trong…"
Rừng núi Hương Sơn có rất nhiều sản phẩm tự nhiên với các loài động thực vật quý hiếm và có giá trị như: sa nhân, hà thủ ô, trám, nam sâm, huyết đằng… dùng làm thuốc. Về cây gỗ quý, lâu năm và có độ che phủ lớn như: lát, sến, táu, váng tâm… đến các loài cây hàng năm như: tre, nứa, trúc, cà lồ, vầu mây… tất cả đã tạo nên một quầ thể thực vật phong phú như một lá phổi khổng lồ đảm bảo cho môi sinh được thanh khiết và trong sạch hơn, du khách cảm thấy lòng mình thanh thản và có niềm tin nơi đất Phật hơn. Động vật dưới nước thì có: cua, ốc, hến, cá các loại…
Sự đa dạng của thực vật Hương Sơn là môi trường thuận lợi cho các loài chim cư ngụ, nơi đây qui tụ hầu hết các loài động vật của miền rừng nhiệt đới, từ các loài ăn thịt và làm thuốc như: hổ, báo, trăn, rắn đến các loài chim như: gà rừng, đa đa, khiếu, vẹt, bìm bịp, vịt trời, le le…
Như vậy với tiềm năng vốn có về thực động vật, Hương Sơn có khả năng phát triển loại hình du lịch sinh thái, một loại hình du lịch chưa được quan tâm nơi đây.
2.2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn
Đã từ lâu Hương Sơn là một cảnh đẹp thiên nhiên nổi tiếng của nước ta và danh thắng Hương Sơn đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh Hà Tây, đặc biệt trong lĩnh vực du lịch. Hơn thế nữa Hương Sơn còn là mảnh đất anh hùng trong hai cuộc kháng chiến chống Mỹ và Pháp. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu và phát triển tinh hoa văn hoá dân tộc, khôi phục và giữ gìn nguồn tài nguyên nhân văn vô giá. Tuy nguồn tài nguyên nhân văn với tác dụng nhận thức nhiều hơn tài nguyên thiên nhiên, có tác dụng giải trí không điển hình và nó đóng vai trò thứ yếu trong các tour du lịch đang diễn ra hiện nay, song nó góp phần làm phong phú chương trình du lịch và mang lại cảm hứng cho du khách. Tài nguyên du lịch nhân văn của chùa Hương chính là lễ hội Chùa Hương, các di tích lịch sử văn hoá, các di tích khảo cổ.
Lễ hội chùa Hương:
Lễ hội là một trong những tài nguyên nhân văn, thu hút du khách không kém gì các di tích lịch sử văn hoá cũng như tài nguyên tự nhiên khác.
Hà Tây là một tỉnh có nhiều lễ hội trong đó có lễ hội Chùa Hương, hội có từ thời xa xưa khi thời Lê Thánh Tông có 3 vị hoà thượng phát hiện ra khu Phật tích Hương Sơn, nhưng phải đến năm Đinh Mão (1687) khi hoà thượng Viên Quang vận động Phật tử tổ chức lễ Thánh đản Bồ Tát Quan Thế Âm vào ngày 19 tháng 2 âm lịch, từ đó nhân dân và Phật tử thập phương mới biết đến chùa Hương - một lễ hội tâm linh.
Hội bắt đầu từ ngày mồng 6 tháng 1 cho đến tháng 3 âm lịch khi mùa xuân về, mà đỉnh cao của hội là những ngày giữa tháng 2. Hội chùa Hương hiện là một trong ba lễ hội lớn thu hút lượng du khách đông đảo nhất trong cả nước đó là: lễ hội bà Chúa Xứ ở tỉnh An Giang, lễ hội Bà Đen ở tỉnh Tây Ninh. So với lễ hội Yên Tử - một trong những trung tâm Phật giáo của Việt Nam thì lễ hội chùa hương được biết đến như một lễ hội lâu đời và lớn nhất đất nước. Thời gian diễn ra lễ hội dài nhất và là lễ hội có số lượng du khách quốc tế đáng kể, du khách đến đây ngoài mục đích lễ hội, họ còn có mục đích tham quan và nghỉ dưỡng.
Các di tích lịch sử văn hoá:
Di tích lịch sử văn hoá là sản phẩm của văn hoá vật chất, văn hoá xã hội tinh thần, nó góp phần vào việc phát triển trí tuệ, tài năng của con người và phát triển khoa học nhân văn, khoa học lịch sử, đặc biệt đó là một trong những điểm đến của các tour du lịch. Hương Sơn là vùng đất linh thiêng của Đạo Phật với truyền thuyết về Phật Bà Quan Âm đã tu tại động Hương Tích, và cách đây 200 năm, toàn bộ vùng núi Hương Sơn đều có rừng tự nhiên bao phủ, nằm trên đường tiến quân của Hai Bà Trưng, thời Đinh Tiên Hoàng, Hương Sơn nằm trên đường tiến quân từ Hoa Lư ra Đỗ Động dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thục.
Hơn thế nữa quần thể thắng cảnh Hương Sơn bao gồm 19 đền, chùa, hang động. Tất cả phần lớn được phát hiện và xây dựng vào các thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX như: Đền Trình, chùa Giải Oan, đền Trấn Song, động Tuyết Sơn, chùa động Hương Tích…
Các di tích khảo cổ:
Hương Sơn với tư cách là một quần thể các di tích lịch sử văn hoá bao gồm nhiều loại di tích khác nhau, mà chính sức lao động, sáng tạo của con người bao đời nay đã làm cho thiên nhiên ở vùng Hương Sơn có thêm sinh lực, mang sức sống con người, tạo nên giá trị trường cửu cho quần thể di tích thắng cảnh này. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy các di tích khảo cổ học thuộc giai đoạn văn hóa Hoà Bình nổi tiếng của thời đồ đá Đông Nam á như: Hang Sũng Sàm , hàng Sập Bon, hang Chùa Mới…, có niên đại trên dưới 1 vạn năm. Bên cạnh các di tích thời đồ đá, các nhà khảo cổ học còn phát hiện được các di tích và di vật thời đại đồ đồng, đồ sắt - những bằng cớ xác đáng chứng minh có sự tồn tại và phát triển liên tục của con người ở vùng đất này. Đó là tổ tiên của người Mường tại Hương Sơn, Mỹ Đức, giáp với Lạc Thuỷ - Hoà Bình hiện nay [21, 07].
Tại động Hương Tích phát hiện được trống đồng cùng thời với các trống đồng Đông Sơn ở Miếu Môn, Thượng Lâm, Phú Duy… sát nách Hương Sơn còn tìm thấy rìu đồng, lưới xéo đồng Đông Sơn trên mặt hàng và lưỡi rìu đá mài ngoài ruộng lúa, có niên đại trên dưới 2000 năm [26,07].
2.2.3. Khả năng khai thác tiềm năng cho hoạt động du lịch sinh thái nhân văn ở Hương Sơn
Vùng đất Hương Sơn không chỉ là vùng đất có ý nghĩa dành cho phật giáo mà còn chứa đựng tinh thần văn hoá dân tộc sâu sắc của dân tộc Việt Nam và toàn thế giới. Nếu chỉ nói riêng Phật giáo thì đây là một khu đặc trưng của văn hoá Phật giáo, không chỉ trong vùng Đông Dương mà còn toàn bộ khu vực Đông Nam á và thế giới, khung cảnh thiên nhiên của vùng đã tạo ra một khung cảnh mang tính tâm linh, huyền bí và thơ mộng. Như vậy thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng kết hợp với các tài nguyên kinh tế xã hội nhân văn đặc sắc và đa dạng tại một khu không rộng, Hương Sơn là cơ sở hàng đầu hiếm thấy ở nước ta cho phát triển du lịch.
Theo như phân loại của hệ thống rừng đặc dụng (Quy chế quản lý rừng đặc dụng được Chính phủ ban hành ngày 11/1/2001) thì Hương Sơn được xếp vào loại khu rừng bảo vệ cảnh quan, có nhiệm vụ bảo tồn cảnh quan trên núi đá vôi và chùa Hương Tích, với nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu và có giá trị văn hoá- lịch sử nhằm phục vụ cho các hoạt động văn hoá, du lịch hoặc nghiên cứu thí nghiệm.
Hương Sơn có tiềm năng du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn phục vụ cho hoạt động du lịch sinh thái hết sức phong phú và đặc sắc. Đặc điểm cấu tạo địa chất, địa hình đã tạo ra phong cảnh đa dạng với hệ thống các hang động, sông suối thung lũng, núi non ngoạn mục và kế tiếp nhau. Khí hậu vào các tháng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm hoàn toàn thích hợp cho con người có thể leo núi, nghỉ dưỡng, thư giãn…
Khoảng cách đóng vai trò quan trọng đối với loại hình du lịch sinh thái. Hương Sơn nằm cách Hà Nội khoảng 60km và có sức hấp dẫn lớn đối với thị trường khách đến từ Hà Nội và các vùng phụ cận như: Hà Nam, Nam Định, Hoà Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hưng Yên… Những điều kiện này tương đối thuận lợi và dễ dàng cho việc tổ chức hoạt động du lịch sinh thái nhân văn ở Hương Sơn.
Có thể tận dụng sự lôi cuốn và hấp dẫn khách du lịch của dòng suối Yến vào hoạt động du lịch sinh thái nhân văn. Tổ chức cho khách chèo đò trên sông, lội suối. Đối với du khách hoạt động vượt thung, quèn vừa mang tính chất điền dã, vừa là khám phá và cảm nhận các hang động mới như hang Trú Quân…
Trước đây từ chùa Thanh Sơn có con đường bộ song song với suối Yến giúp du khách có thể hoàn toàn đi bộ vào đến động Hương Tích và nhiều điểm khác trên cùng một tuyến đường. Hương Sơn có nhiều thung, quèn và nhiều loại cây có thể sinh sống được trên đó, vì thế có thể tổ chức các hoạt động thư giãn có ích với môi trường du lịch như trồng cây với các loại câynhư: trồng trúc, những khóm trúc sẽ lan thành một vạt rất đẹp tạo cảm giác thích lạ cho du khách, trồng dâu ở gần cầu Hội để chăn tằm và làm đẹp cảnh quan. Trồng rau sắng, mơ, mận là những loại cây đặc sản của Hương Sơn ở các tuyến như: tuyến suối Tuyết đi Tuyết Sơn, tuyến suối Yến đi động Hương Tích và Long Vân. Tại các thung quèn và dọc đường đi đến các điểm du lịch có thể trồng các loại cây như: khoai, sắn, mít, táo, ổi, đu đủ, hoa đại, hoa ban Tây Bắc, cây dậy hoa tròn trắng như bông, thơm ngát, cây "lý leng" lá sắc hoa có cuống và đài xoè từng chùm màu vàng hoa lý… vừa mang lại giá trị kinh tế, vừa thêm phần hấp dẫn du khách với những chương trình du lịch sinh thái ngoài vụ lễ hội.
Hương Sơn không những giàu tiềm năng du lịch tự nhiên mà còn phong phú bởi tiềm năng du lịch nhân văn. Con người ngày càng có xu hướng trở về với thiên nhiên, với cội nguồn văn hoá dân tộc, vì thế ngoài lễ hội lớn hấp dẫn và các đền, chùa, hang động nổi tiếng, các tập quán văn hoá truyền thống của vùng đất Hương Sơn đều có thể khai thác cho hoạt động du lịch sinh thái nhân văn.
Con người và mảnh đất Hương Sơn đã gắn bó với nhau từ bao đời nay, các tập quán văn hoá truyền thống cũng dần hình thành từ đó. Và dựa trên các tập quán đó có thể tổ chức vãn cảnh, thăm viếng những nơi mà Bà Chúa Ba dừng chân để tu hành đắc đạo, tổ chức các dịch vụ ăn nghỉ với tập quán lễ hội xưa ở Hương Sơn như: ăn cơm nắm, muối vừng, nước tương, uống nước lão mai…
Tập quán văn hoá truyền thống còn thể hiện ở các sinh hoạt văn hoá dân gian độc đáo như: ngày hội bơi thuyền cũng là thú vui ngồi vãn cảnh lạc vào cõi tiên, cõi Phật. Cả ba tuyến du lịch của Hương Sơn đều có thể lợi dụng các dòng nước để tổ chức hội đua. Ngày hội tấp nập ra vào hàng trăm thuyền, dòng suối Yến lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng chèo khoả nước, thắm thiết tiếng chào hỏi nhau, tạo ra sắc thái riêng của Hương Sơn. Ngày hội leo núi mang lại không khí nhộn nhịp, tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn tới đỉnh cao của cái đẹp. Và sự kỳ vọng cái đẹp sẽ làm cho con người thêm phần tin yêu cuộc sống. Ngoài ra còn có ngày hội của các chiều hát chèo, hát văn…
Một trong những tiềm năng khác cho hoạt động du lịch sinh thái nhân văn tại Hương Sơn đó chính là lực lượng lao động dồi dào, phù hợp với những yêu cầu mà du lịch sinh thái nhân văn đặt ra.
Đối với việc phát triển du lịch sinh thái nhân văn, yếu tố cộng đồng đóng vai trò quan trong hướng tới sự bền vững. Để trở thành điểm du lịch sinh thái thu hút du khách trong và ngoài mùa vụ du lịch đặc biệt là ngoài vụ du lịch. Hương Sơn cần nhìn nhận lại thực trạng kinh doanh, xác định hoạt động du lịch nói chung và du lịch sinh thái nhân văn nói riêng phải gắn với bảo vệ môi trường du lịch trong lành. Vì vậy nhất thiết phải khai thác các tiềm năng cho hoạt động du lịch sinh thái nhân văn sao cho hiệu quả, và bảo vệ lâu dài các nguồn tài nguyên du lịch. Trong đó cần xem xét đến vai trò của cộng đồng dân cư địa phương nhằm phát triển tương xứng với tiềm năng du lịch sinh thái nhân văn vốn có của mảnh đất Hương Sơn anh hùng.
2.3. Hiện trạng hoạt động du lịch ở Hương Sơn
2.3.1. Hiện trạng tổ chức quản lý
Hiện nay khách du lịch chủ yếu đến đây với hai mục đích chính là hành hương về đất Phật và tham quan, hưởng thụ những giá trị cảnh quan thiên nhiên. Hoạt động du lịch nơi đây mang tính mùa vụ rõ nét: mùa xuân là mùa trẩy hội, còn mùa hạ, mùa thu, mùa đông là thời gian dành cho khách tham qua kết hợp với hành hương. Cũng chính vì tính mùa vụ cao như vậy do đó vào mùa lễ hội xảy ra nhiều tình trạng lộn xộn, vô tổ chức như: tắc đường, rác rưởi, tranh giành khách… ngay tại chốn linh thiêng, trong khi đó không có một cơ chế, mô hình tổ chức quản lý điều hành thống nhất, hoạt động quản lý bị chia cắt, mỗi cấp chỉ chịu trách nhiệm một mảng dẫn đến nhiều cấp tham gia, chỉ huy, việc quản lý thì không đủ mạnh, không đủ quyền lực và sức thuyết phục, các tổ chức kinh tế, nhà nước, tập thể, tư nhân tất cả vì quyền lợi và lợi nhuận đã khai thác bừa bãi, vô tổ chức làm tổn hại môi trường và nếp sống văn hoá.
Hiện nay Sở du lịch Hà Tây quản lý nhà nước về du lịch, không chịu trách nhiệm về an ninh, an toàn, trật tự xã hội trong khu du lịch. Ban quản lý khu di tích thắng cảnh Hương Sơn (ra đời năm 1998) trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện Mỹ Đức, là đơn vị sự nghiệp có chức năng quản lý, bảo vệ khu di tích thắng cảnh, quản lý bán vé cho khách hành hương, tham uan, ngoài lễ hội thì tham mưu lập kế hoạch tổ chức quản lý lễ hội hàng năm… xã và huyện cũng tham gia quản lý an ninh và khu thắng cảnh, song trên thực tế trong quá trình tổ chức quản lý còn nhiều hạn chế, đặc biệt chưa gắn chặt với cộng đồng dân cư địa phương. Cũng phải kể đến những năm gần đây nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động du lịch như an ninh, vệ sinh, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Nhưng bên cạnh đó hoạt động khai thác kinh doanh du lịch nơi đây chỉ là hoạt động du lịch thuần tuý, cạnh tranh không có trách nhiệm và không có nghĩa vụ đầu tư, từ đó dẫn tới môi trường du lịch ngột ngạt, kém hấp dẫn và lượng khách giảm dần.
2.3.2. Hiện trạng khách du lịch
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, yếu tố khách du lịch đóng vai trò quan trọng và là tác nhân để dẫn tới sự thành công của tour du lịch. Vấn đề đưa sản phẩm du lịch tới tay người tiêu dùng và được họ chấp nhận là cả một vấn đề đối với các hãng lữ hành, và du khách sẵn sàng chi trả cao cho tour du lịch nếu họ cảm thấy xứng đáng.
Khách đến Hương Sơn gồm cả khách nội địa và quốc tế, thuộc nhiều tầng lớp, địa vị xã hội, lứa tuổi từ khắp mọi miền của tổ quốc. Qua khảo sát thực tế thấy rằng có tới 60% số du khách được hỏi đều trả lời trong 5 năm gần đây, năm nào họ cũng trẩy hội Hương Sơn. Tại khu thắng cảnh này, khách du lịch đến đông nhất vào những ngày cuối tuần, đây là thời gian các cơ quan, tổ chức, trường học, bệnh viện… được nghỉ và nhu cầu trong những ngày đó tăng cao, hàng năm vào trung tuần tháng 2 âm lịch đoạn đường từ chùa Giải Oan đến động Hương Tích luôn luôn xảy ra tình trạng tắc đường do lượng khách đông mà con đường lên xuống động còn nhỏ hẹp so với lượng khách. Do đó để giải quyết tình trạng tắc đường đã có dự án xây dựng cáp treo, song hiện nay dự án đó đang được triển khai và hy vọng trong tương lai gần du khách sẽ được sử dụng.
Vấn đề du khách hành hương tới Hương Sơn còn nhiều bất cập đối với ban quản lý cũng như đối với cộng đồng dân cư địa phương tham gia kinh doanh du lịch, ở đây có sự chênh lệch về giá cả và chất lượng dịch vụ ăn uống. Thức ăn, đồ uống không đảm bảo vệ sinh, không phù hợp với đối tượng khách, nhưng giá tiền tương đối cao so với mức giá thông thường của hàng hoá đó, tình trạng khách tự mang theo đồ ăn theo không phải là xa lạ ở khu vực này. Thông thường việc chi tiêu cho ăn uống chiếm 40-50% trong tổng số chi tiêu của khách. Các dịch vụ lưu trú không đảm bảo vệ sinh, an toàn, thiếu vắng hoạt động vui chơi, giải trí trong khi đối tượng khách thanh niên chiếm tỉ lệ cao. Và như vậy lợi nhuận thu được từ việc kinh doanh là không cao và làm hạn chế nhu cầu lưu giữ khách qua đêm, các dịch vụ mua sắm cũng không thuyết phục được du khách bởi những mặt hàng đó không đáp ứng được nhu cầu của du khách. Vấn đề an ninh cũng là điều quan tâm của khách, khi xảy ra va chạm giữa khách và các hộ kinh doanh, quyền lợi củakhách không được bảo đảm vì người địa phương bênh vực lẫn nhau.
Năm
Tổng số (nghìn lượt)
Trong đó số khách
Tỉ lệ tăng giảm (%)
Nội địa
Quốc tế
1998
98.370
82.370
16.000
1999
395.000
376.000
19.000
301
2000
402.985
380.985
22.000
2
2001
340.000
316.000
24.000
-15
2002
375.506
329.506
28.000
5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh du lịch. Sở du lịch HàTây - 2002)
Qua bảng trên thấy rằng lượng khách qua các năm không đồng đều, lượng khách đông nhất từ năm 1998-2002 là năm 2000 với tổng số khách 402.985 lượt và đến năm 2001 giảm 15% so với năm trước, thực tế này nói lên rằn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1400.doc