Lời nói đầu
Hội nhập kinh tế và tự do hoá thương mại là xu hướng tất yếu và là vấn đề bất khả kháng của mọi quốc gia nếu không muốn nền kinh tế của nước mình kém phát triển và tụt hậu. Tuy nhiên khi hoà nhập để tránh những cú “xốc” cho sản xuất kinh doanh trong nước, mỗi quốc gia phải tuỳ thuộc vào thực lực của nền kinh tế mà định ra tiến trình mức độ và thời điểm hoà nhập của riêng mình. Những năm vừa qua dù chúng ta mở cửa ở mức độ hạn chế, một số ngành hàng, ngành sản xuất vẫn được bảo hộ, s
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong sự cạnh tranh diễn ra khá gay gắt; sự trao đảo về giá cả lượng hàng của gạo cà phê cao su...là minh chứng của sự cạnh tranh này. Tạo ra hiệu quả cao nhất cho các mặt hàng, giảm thiểu thua thiệt trong sự cạnh tranh là công việc to lớn phức tạp đang được Đảng và Nhà nướcđang rất quan tâm.
Xuất phát từ thực tế đất nước ta được thiên nhiên ưu đãi về thời tiết, khí hậu nhiệt đới, đất đai phì nhiêu, nguồn nhân lực dồi dào, nhân dân ta cần cù chịu khó. Nông sản là ngành hàng có tính chiến lược trong kế hoạch phát triển kinh tế hiện nay. Vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng phải được đặt lên hàng đầu.
Với kiến thức được học tập và nghiên cứu tại trường, trên cơ sở một số tài liệu nghiên cứu đề tài của em là: “Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong quá trình hội nhập”, hy vọng sẽ đóng góp được những giải pháp để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng.
Qua đây em xin chân thành biết ơn cô giáo GV- Phan Tố Uyên đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài.
Đề tài: Biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
I/ Hội nhập và năng lực cạnh tranh:
1. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
a) Khái niệm:
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển mới của phân công lao động và hợp tác sản xuất vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vươn tới quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lượng mới.
Đây là xu thế tất yếu của kinh tế thế giới và là hệ quả của phát triển lực lượng sản xuất đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ.
Đặc trưng nổi bật cuả toàn cầu hoá kinh tế là kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận, có quan hệ tương tác với nhau, phát triển với nhiều hình thức phong phú. Tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế các quốc gia hoàn toàn độc lập về chính trị, xã hội. Vẫn là những chủ thể tự quyết định ý thức hệ, vận mệnh và con đường phát triển của mình. Toàn cầu hoá làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào vốn, kỹ thuật, công nghệ, nguyên liệu và thị trường. Đến nay toàn cầu hoá đã thu hút các quốc gia ở các châu lục, có 27 tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu ra đời. Cuộc sống ngày càng chứng tỏ không một nước nào dù lớn hay giầu có đến đâu, cũng không thể tự mình sản xuất được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu của mình. Toàn cầu hoá, mặc dù tới nay vẫn có nhiều quan điểm trái ngược nhau xong rõ ràng là một xu thế phát triển của thời đại không thể khác được. Chỉ những quốc gia nào bắt nhịp xu thế này, biết tận dụng cơ hội và vượt qua thử thách mới đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay khước từ toàn cầu hoá tức là tự gạt mình ra khỏi lề của sự phát triển.
Từ những năm 80 của thế kỷ này xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế diễn ra ở mức độ cao, tác động bởi các nhân tố mới.
- Công nghệ thông tin với những tác động rất sâu sắc và toàn diện đến sản xuất kinh doanh, và mọi lĩnh vực hoạt động của con người (giáo dục, văn hoá,...).
- Thị trường tài chính toàn cầu hoạt động 24 giờ/ngày, đầu tư theo lợi nhuận ngắn hạn. Bên cạnh những tác động tích cực cũng phát sinh nhiều vấn đề chưa kiểm soát được.
- Các công ty xuyên quốc gia (TNC Transnational corporaration) có vốn, công nghệ, thị trường.
Và những tác nhân mới:
- Các tổ chức kinh tế khu vực: E.U, ASEAN, APEC, NAFTA, MERCOSUR, ...
- Các tổ chức kinh tế quốc tế mà quan trọng nhất là WTO.
- Các tổ chức phi chính phủ (NGOS) có vai trò ngày càng tăng về các vấn đề xã hội, môi trường.
b) Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Toàn cầu hoá kinh tế đưa đến hệ quả tất yếu là các quốc gia phải mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã và đang tích cực tham gia vào xu thế này, từng bước ký kết các hiệp định xong phương, khu vực và đa phương. Đến nay ta đã là thành viên của tổ chức khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và của diễn đàn kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC) là thành viên sáng lập của ASEM ký kết hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, chuẩn bị ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Các quan hệ thương mại với Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc, ...tiếp tục được mở rộng.
Là một nước đang phát triển tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế nước ta sẽ có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển:
Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài, có thể bổ xung cho những hạn chế của thị trường nội địa, trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ ở nước ta sẽ tiêu thụ trên toàn bộ thị trường các nước ASEAN với doanh số trên 500 triệu người và GDP là 700 tỷ đôla. Nếu ra nhập WTO ta sẽ được hưởng những ưu đãi cho các nước đang phát triển theo quy chế tối hậu quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này. Như vậy hàng của ta sẽ xuất khẩu vào các nước một cách dễ dàng hơn.
Cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài tham ra vào hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Họ sẽ chuyển vốn công nghệ kỹ thuật vào nước ta - tiếp thu các thành tựu khoa học hiện đại của thế giới, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nước ta, làm ra các sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu thế mà nước ta có. Cơ hội mở rộng thị trường kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư.
Tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy mạnh ytiến trình CNH - HĐH, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị trường nước ta tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả, qua đó công nghệ kỹ thuật mới có được điều kiện du nhập vào nước ta đồng thời tạo cơ hội cho chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kỹ thuật - công nghệ quốc gia.
Tạo cơ hội mở rộng giao lưu nguồn lực của nước ta với các nước, có thể khai thác các nguồn nguyên liệu mới khan hiếm rẻ hơn cho phép các công ty chọn được nơi sản xuất với chi phí thấp nhất và đạt hiệu quả quy mô.
Xong bên cạnh những cơ hội trên hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nước ta trước những khó khăn và thách thức.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước. Nhưng hiện nay nước ta còn lạc hậu xa về kinh tế (nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân) so với nhiều nước trong các tổ chức kinh tế mà ta đã và sẽ tham gia. Chẳng hạn, so với các nước tham gia vào AFTA thu nhập bình quân đầu người của ta chưa bằng 1/3 của Indônêxia, Philipin; 1/9 Thái Lan; 1/15 Malaixia và 1/100 của Singapore. Đây là một thách thức bất lợi lớn đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực nhiều.
Trên thị trường nội địa do kỹ thuật, công nghệ và trình độ quản lý của nước ta còn yếu kém nên nhiều sản phẩm của ta thiếu sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại về chất lượng, giá cả ví dụ: giá sắt thép trong nước sản xuất bình quân 300 đola/1tấn nhưng nhập khẩu chỉ 285 đola/1tấn giá xi măng Việt nam 840 ngàn đồng/tấn trong khi nhập khẩu của Thái Lan chỉ 640 nghìn đồng/ tấn.
Trên thị trường thế giới ta xuất khẩu chủ yếu là các nguyên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, ...sản phẩm ít chế biến, sức cạnh tranh yếu trong khi đó giá của nó bấp bênh hay bị tác động bất lợi cho xuất khẩu.
Tham gia vào toàn cầu hoá tức là ta chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Trong khi năng lực quản lý của nước ta còn yếu kém, hệ thống tài chính ngân hàng lạc hậu, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành, không chủ động phòng vệ tích cực nền kinh tế của chúng ta khó tránh khỏi sụp đổ.
Như vậy hệ quả tất yếu mở rộng thương mại, thúc đẩy tăng trưởng khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, xoá nhà biên giới quốc gia cạnh tranh trở nên thường xuyên và rất quyết liệt.
2. Năng lực cạnh tranh
Tất nhiên mỗi sự lựa chọn đều có mặt được và mặt mất của nó. Chúng ta không thể khẳng định xu thế hội nhập là tối ưu nhất đối với Việt Nam, xong cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của nó. Trước cơ hội thách thức đặt ra, chúng ta phải đón bắt cơ hội, phát huy nội lực, vượt qua mọi thử thách. Trong bề bộn các vấn đề, thì cạnh tranh của Việt Nam được đặt lên hàng đầu. Song không phải ngâũ nhiên gần đây nhiều cuộc hội thảo diễn ra, mà phần lớn nội dung đều đề cập tới sự hạn chế trong khả năng cạnh tranh của Việt Nam và biện pháp nâng cao nó như là “Toạ đàm bàn tròn: Làm thế nào để nâng cao cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập - 30/3/2001, Hà Nội”.
Cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng Phan Văn Khải với các tham tán thương mại ở nước ngoài cũng như đối với doanh nghiệp Việt Nam để giải quyết các bức xúc, vấn đề khó khăn từ phía các doanh nghiệp.
a) Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế:
Tính cạnh tranh, đầu tiên là một khái niệm trong lý thuyết tổ chức công nghiệp, hiện nay nó đã mở rộng đến các ngành sản xuất và tổng thể cả nền kinh tế.
Báo cáo toàn cầu năm 2000 về cạnh tranh của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã định nghĩa cạnh tranh đối với quốc gia là “một bộ phận các thể chế và chính sách kinh tế ủng hộ những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao trong trung hạn”. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đã định nghĩa cạnh tranh kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và quốc gia, như sau: “khả năng của các doanh nghiệp ngành quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.
Hàng năm kể từ năm 1997, WEF là tổ chức quốc tế quy tụ các chuyên gia kinh tế hàng đầu trên thế giới có uy tín trong việc nhận xét đánh giá tính cạnh tranh quốc tế của các quốc gia đã đưa ra bản báo cáo về tính cạnh tranh toàn cầu tập trung vào 59 quốc gia.
b) Các chỉ tiêu cạnh tranh:
Theo WEF thì tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã giảm sút nghiêm trọng. Trong báo cáo năm 2000, WEF dùng hai chỉ số chính để đánh giá tính cạnh tranh
1/ Chỉ số tính cạnh tranh: dùng để đo lường các nhân tố tạo sự tăng trưởng trong tương lai của nền kinh tế
2/ Chỉ số cạnh tranh hiện hành (chỉ số tính cạnh tranh kinh tế vi mô) dùng chủ yếu để đo lường tính cạnh tranh vi mô liên quan đến các doanh nghiệp.
- Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực tồn tại và vươn lên trên thị trường cạnh tranh, duy trì được lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong nước và quốc tế về một hay nhiều sản phẩm - dịch vụ của doanh nghiệp.
- Yếu tố quyết định là tỷ lệ lợi nhuận trên một sản phẩm.
- Các yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
+ Năng suất:
. Lao động
. Total Factor Productivity.
+ Công nghệ:
.Trình độ công nghệ quyết định cấp độ của sản phẩm, chất lượng và năng xuất lao động.
.Khả năng thay đổi và tiếp cận công nghệ mới.
.Chi phí cho nghiên cứu và phát triển.
+ Sản phẩm:
. Chất lượng sản phẩm.
. Tính độc đáo hay sự khác biệt của sản phẩm.
+ Chi phí đầu vào:
. Giá các đầu vào chủ yếu.
. Hệ số chi phí hay cơ cấu giá thành.
+ Mức độ tập trung của thị trường:
. thị trường với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp hay được quyết định bởi một số doanh nghiệp.
+ Các điều kiện về cầu trên thị trường:
. Sức mua, tính thời vụ của cầu.
+ Độ liên kết giữa người mua và người bán:
. Công nghệ thông tin cho phép tạo mối liên kết giữa ngườimua và người sản xuất.
- Doanh nghiệp có thể chủ động tác động đến năng lực cạnh tranh thông qua:
+ Chiến lược đầu tư và kinh doanh.
+ Lựa chọn sản phẩm và dịch vụ.
+ Công nghệ và nghiên cứu khoa học công nghệ.
+ Đào tạo lực lượng lao động.
+ Tổ chức quản lý.
+ Liên kết liên doanh.
3/ Chỉ tiêu xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm:
Để hội nhập có hiệu quả, một trong những phương hướng chính mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành là tích cực thực hiện điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của các ngành kinh tế. Để làm được điều này thì việc xác định các năng lực cạnh tranh của các sản phẩm là cần thiết, vì rằng chỉ có xác định được tính cạnh tranh của các sản phẩm thì mới có cơ sở tiến hành điều chỉnh các cơ cấu, đồng thời xây dựng các chính sách hỗ trợ và điều tiết thích hợp đối với các ngành kinh tế và lựa chọn được chiến lược hội nhập phù hợp với khả năng của từng ngành. Chính vì vậy, mà việc xác định tính cạnh tranh của các ngành kinh tế là một vấn đề được các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Sau đây, ta xác định tính cạnh tranh của sản phẩm được đánh giá từ khía cạnh nguồn lực trong nước và khả năng cạnh tranh của chúng so với các nước trên thế giới. Với phương pháp định lượng được sử dụng để xác định khả năng cạnh tranh của các ngành hàng thông qua việc tính các hệ số sau: hệ số chi phí nguồn lực trong nước (DRC), hệ số bảo hộ hữu hiệu (EPR), hệ số lợi thế so sánh trông thấy (RCA).
a) Hệ số chi phí nguồn lực trong nước (Domestic Resource Cost - DRC)
DRC là hệ số phản ánh chi phí thực sự mà xã hội phải trả để sản xuất một loại hàng hoá nào đó. Hệ số DRC có đặc điểm là thường chỉ thay đổi theo lợi thế so sánh dài hạn của quốc gia chứ không bị ảnh hưởng bởi các tác động nhất thời, do vậy nó mang tính ổn định tương đối và ngày nay nó thường được sử dụng để đánh giá cạnh tranh của ngành hàng. Việc tính DRC của một ngành hàng (hay sản phẩm) được thực hiện theo nguyên tắc: giá trị chi phí sản xuất của các đầu vào trung gian được tính theo mức giá thế giới, còn giá trị của các nhân tố sản xuất được tính theo chi phí cơ hội.
Công thức tính DRC như sau:
DRCj = (DCj) / IVAj
Trong đó:
- DCj là chi phí trong nước cho các nhân tố sản xuất theo chi phí cơ hội để sản xuất ra sản phẩm j
- IVAj là giá trị gia tăng của sản phẩm j theo giá thế giới.
Nếu hệ số DRC < 1 nghĩa là cần một lượng tài nguyên trong nước < 1 để tạo ra một đồng giá trị gia tăng theo giá quốc tế.
Nếu DRC > 1 thì ngược lại. Hệ số DRC càng cao thì ngành hàng đó ngày càng không có lợi và tính cạnh tranh rất kém.
b) Hệ số bảo hộ hữu hiệu (Effective Protection Rate - EPR):
Trong thực tế để đánh giá mức độ bảo hộ thực tế người ta sử dụng hệ số EPR là mức bảo hộ thực tế đối với cả quá trình sản xuất, chứ không dùng hệ số xác định chỉ mức bảo hộ đối với các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất như hệ số bảo hộ danh nghĩa.
c) Hệ số lợi thế so sánh trông thấy (Revealed Comparative Advantage - RCA)
Việc tính toán hệ số DRC giúp chúng ta xác định được trong số các sản phẩm sản xuất ra trong nước sản phẩm nào có lợi thế cạnh tranh hơn. Tuy nhiên khi so sánh lợi thế cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại, được sản xuất ra từ các quốc gia khác nhau thường sử dụng hệ số đơn giản hơn đó là hệ số lợi thế so sánh trông thấy RCA. Như vậy hệ số RCA được xác định như là phần của nhóm sản phẩm chiếm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia chia cho phần của nhóm sản phẩm đó trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới.
Công thức:
Trong đó:
i là nước i, w là thế giới và j là hàng hoá j
Xij là xuất khẩu mặt hàng j của nước i
Xwj là xuất khẩu mặt hàng j của toàn thế giới
Trong công thức nếu tỷ trọng Xij / Xwj > Σ Xij / Σ Xwj tức là hệ số RCA1> 1 thì nước i được cho là có lợi thế so sánh về sản phẩm j. Hệ số này càng cao chứng tỏ lợi thế so sánh càng cao. Và ngược lại.
c) Thực trạng cạnh tranh của Việt Nam
Xét về cả hai chỉ số này Việt Nam có sự giảm sút mạnh trong năm 2000.
Về chỉ số tính cạnh tranh tăng trưởng, trong số 59 nước được đánh giá năm 1997 Việt Nam xếp thứ 48, năm 1998 là 39 năm 1999 lại tụt xuống 48. Đặc biệt năm 2000 thì chỉ số cạnh tranh của Việt Nam xuống 53/59 nước. Đây là dấu hiệu đáng lo ngại bởi vì chỉ số này phản ánh tiềm năng cạnh tranh và tăng trưởng của nền kinh tế trong trung và dài hạn.
Về chỉ số tính cạnh tranh hiện hành thứ hạng của Việt Nam năm 2000 đã tụt xuống 53/56 nước và thứ 43 năm 1998.
Như vậy tính cạnh tranh của nên kinh tế Việt Nam, xét cả mặt trước mắt và lâu dài, đều ở vị trí thấp và trong những năm gần đây có xu hướng giảm dần.
Để xây dựng nên hai chỉ tiêu chính trên WEF đã tính một loạt các chỉ tiêu cấu thành tính cạnh tranh của các quốc gia. Sau đây là xếp hạng của Việt Nam về một số các chỉ tiêu (số chỉ tiêu có điểm càng cao thì càng tốt). Có thể thấy rằng ở hầu hết các chỉ tiêu về cạnh tranh của Việt Nam có thứ bậc thấp và xu hướng giảm dần.
Năm 2000 là lần đầu tiên WEF đưa ra chỉ số sức sáng tạo kinh tế quốc gia. Mỹ là nước có chỉ số sức sáng tạo kinh tế (2.02) vượt xa nước đứng thứ hai là Phần lan (1.73). Chỉ số này của Việt Nam là (- 0.6) đứng thứ 50/53 các quốc gia được xếp hạng.
Chỉ số công nghệ đạt - 0.53 đứng thứ 48/53 quốc gia trong khi của Trung Quốc là - 0.35, Inđônêxia - 0.32, Thái Lan - 0.11, Philipin là 0.03.
Chỉ số về luật pháp kinh doanh (gồm nhiều chỉ tiêu nhỏ như: tình trạng tham nhũng, bạo lực, vô luật pháp, trốn thuế) của Việt Nam đạt 3.83, xếp thứ 43/59, Trung Quốc xếp thứ 46, Inđônêxia 53, Nga 59.
Chỉ số tăng trưởng của Việt Nam năm 1999 xếp thứ 47, chỉ số về sự phát triển của thị trường tài chính xếp thứ 55
d) Tính cạnh tranh không còn là :
- Dư tài nguyên
- Lao động rẻ
- Đồng tiền giá trị thấp
Trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường mở, thương mại quốc tế trở thành phổ biến, việc thanh toán giữa các quốc gia nhất thiết phải sử dụng tiền tệ của nước khác, các quốc gia phải dựa vào tỷ giá hối đoái (hối suất). Đây là một công cụ kinh tế vi mô chủ yếu điều tiết cán cân thương mại quốc tế (TMQT) theo mục tiêu đă đặt trước của nhà nước. Bởi tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn tới xuất nhập hàng hoá, vốn, giá cả trong nước. Nó có tác dụng không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân. Có hai cánh tính tỷ giá hối đoái: Trực tiếp (tỷ gía hối đoái giảm ngược chiều với giá trị đồng tiền trong nước); Gián tiếp (tỷ giá hối đoái tăng giảm cùng chiều với tỷ giá đồng nội tệ). Khi tỷ giá (gián tiếp) giảm thì giá trị nội tệ giảm, nên giảm giá cả xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trên thế giới tăng, đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời việc giảm tỷ giá làm cho giá hàng hoá nhập khẩu tăng dẫn đến hạn chế nhập khẩu ngoài ra khi tỷ giá giảm giá tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng hay đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp (phân bón thuốc bảo vệ thực vật,...) tăng làm lợi thế cạnh tranh nông nghiệp giảm.
Việc sử dụng hàng rào bảo hộ thuế quan, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu không hợp lý làm cho nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước không được phân bố một cách tối ưu mà tập trung vào một số lĩnh vực không có tiềm năng, lợi thế so sánh. Đây là một sự đầu tư lãng phí sẽ để lại hậu quả nặng nề về nguồn lực tài chính. Bảo hộ sản xuất công nghiệp đưa đến giá thành công nghiệp cao, sức cạnh tranh công nghiệp kém, hậu quả nguồn lực sản xuất nông nghiệp không tối ưu, tất yếu sức cạnh tranh nông nghiệp giảm.
Tài nguyên, lao động rẻ tuy là một trong những lợi thế quan trọng của các nước đang phát triển, xong trước xu thế hội nhập tính quyết định của thành công không còn nữa mà trí tuệ công nghệ mới là nhân tố chiến lược trong thiên niên kỷ mới - một kỷ nguyên của cách mạng thông tin, sinh học.
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động của doanh nghiệp:
Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN nhằm thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm và hiệp định về chương trình ưu đãi hế quan có hiệu lực chung (CEPT) ngày 27,28/1/1992 tại Singapore đã khởi động và tác động ngày càng rõ nét đến nền kinh tế Việt Nam cùng với việc tham gia APEC, ASEM, chuẩn bị tham gia WTO
Lời giải đáp cho doanh nghiệp Việt Nam chính là: tính kế thừa + sáng tạo
Muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt “cái ô bảo hộ” dần dần phải dỡ bỏ, buộc các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải vươn lên, tự mình khẳng định chính mình bằng các chiến lược và các chính sách phù hợp. Chính điều này đã tạo cho doanh nghiệp tính năng động, tính tự chủ cao, dễ dàng hoà nhập trong một cộng đồng lớn - khu vực và thế giới - đầy khó khăn.
Đứng từ góc độ bảo hộ, các doanh nghiệp không còn là “infant” nó ngày càng lớn mạnh. Xét về mặt lâu dài thì đây là sự đầu tư không lãng phí nguồn lực của xã hội và doanh nghiệp.
Tránh nguy cơ tụt hậu, doanh nghiệp không ngừng đổi mới trang thiết bị công nghệ, nâng cao trình độ quản lý khoa học và hiệu quả. Tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, giá rẻ. Nhãn hiệu Việt Nam có chỗ đứng và uy tín.
Xác định được lợi thế cạnh tranh dài hạn, tập trung các nguồn lực để có sức mạnh tổng hợp. Muốn vậy cần phải có chiến lược tốt nhất cho doanh nghiệp. Thu được hiệu quả cao, lợi nhuận lớn, tích luỹ nhiều, mở rộng quy mô sản xuất thu được hiệu quả cao theo quy mô. Hơn thế nữa mở rộng các quan hệ bạn hàng, có thể liên doanh liên kết tạo sức mạnh làm chủ được thị trường, cải thiện được điều kiện hiện nay của Việt Nam là một nước sản xuất nhỏ và phải chấp nhận giá.
Phát triển được hệ thống kênh phân phối toàn cầu với mạng lưới thôngtin nhanh nhạy, xúc tiến thương mại một cách lhiệu quả, cung cấp đầy đủ thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ đó có thể tạo ra thế phát triển sạnh mà Việt Nam chưa có được.
II/ Thực trạng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam
Tổng quan chung của sản xuất nông sản Việt Nam:
Việt Nam với đặc trưng là một nước nông nghiệp, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nghành sản xuất nông sản phát triển Cách đây 10 - 15 năm sản xuất nông nghiệp là một vấn đề thực sự nóng hổi. Những con số vượt ngưỡng 20, 25 đến 30 triệu tấn lương thực làm nức lòng cả nước. Vài năm trở lại đây sự quan tâm lo lắng trên mặt trận nông nghiệp tựu chung lại một mối “nâng cao khả năng cạnh tranh để tiêu thụ nông sản”.
Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam có hai vai trò lớn:
Thứ nhất: đáp ứng nhu cầu an toàn lương thực của dân cư trong nước và phát triển các ngành khác như chăn nuôi, chế biến.
Thứ hai: phục vụ cho xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu năm 1995 chiếm tới 32.9% tổng giá trị nông phẩm và tăng 40% vào năm 1999. Đặc biệt là giá trị xuất khẩu gạo tới 50% giá trị gạo trong cả nước. Kim ngạch xuất khẩu nông sản trong cả nước tăng bình quân 12.5%.
Theo đánh giá sơ bộ tổng diện tích dgieo trồng cây lương thực năm 1999 đạt 8668 ngàn ha tăng so với năm 1998 sản lượng lương thực quy thóc là 32,8 triệu tấn tăng gần 1 triệu tấn so với năm 1998 và đạt tỷ lệ tăng trưởng 2,9%. Riêng diện tích lúa năm 1999 đạt 7488 ngàn ha tăng và sản lượng đạt 30 triệu tấn, tăng 850 ngàn tấn và đạt tốc độ tăng gần so với năm 1998.
Diện tích và sản lượng các loại cây hoa màu đều tăng so với năm 1998 diện tích và sản lượng ngô tăng 1,6% và 2,3%, khoai tăng 4,9% và 5,3%. Về sản xuất cây công nghiệp, rau quả, đậu lạc sản lượng giảm và diện tích giảm 4,2%, còn lại đều tăng so với năm 1998. Đó là:
Mía đạt 310 nghìn ha, tăng 9,5% và sản lượng đạt 15,5 triệu tấn tăng 12% so với năm 1998.
Cà phê diện tích đạt 380 nghìn ha tăng 5,9%, sản lượng cà phê nhân đạt 370 nghìn ha, giảm 9,6% do bị hạn hán trong năm 1998.
Cao su diện tích đạt 390 nghìn ha tăng 2,8% và sản lượng mủ khô đạt 240 nghìn tấn tăng 6,3% so với 1998. Tuy nhiên, do giá cao su trong năm 1999 bị giảm mạnh nên đã có nhiều hộ nông dân chặt phá cao su để trồng cà phê và các loại cây trồng khác.
Tiêu diện tích gieo trồng đạt 130 nghìn ha, tăng 1,7% so với 1998 và sản lượng đạt 150 nghìn tấn, tăng 5%.
Chè diện tích đạt 80 nghìn ha, tăng 3,5% và sản lượng búp chè khô đạt 60 nghìn tấn, tăng 17,6% so với 1998.
Điều diện tích đạt 220 nghìn ha, tăng 12,4% so với 1998, sản lượng đạt 80 nghìn tấn giảm 17,2% chủ yếu là do bị hạn hán.
Cây ăn quả diện tích đạt 450 nghìn ha, tăng 2,8% và sản lượng đạt 4,5 triệu tấn, tăng 12,5% so với 1998.
Nhờ đổi mới cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu nên kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 1999 đã tăng 2,9% so năm 1998 và đạt 2,75 tỷ đôla. 13/15 mặt hàng nông lâm sản chủ lực xuất khẩu đều có mức tăng về lượng từ 5,4 đến 12,6% trong đó gạo tăng 12%, cao su 10%, cà phê 5% đặc biệt rau quả tăng tăng 30%.
Năm 1999 giá hàng nông lâm sản xuất khẩu giảm mạnh, bình quân tới 8,4%, trong đó có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta giá đều giảm 10%. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng nông sản còn phải chịu tác động của giá trong nước giảm, nổi cộm nhất là các loại hoa quả giảm mạnh do sản lượng tăng nhanh nhưng tiêu thụ khó, khả năng bảo quản và chế biến còn thấp, riêng đối với mặt hàng gạo, do chính phủ đã có các biện pháp tích cực hỗ trợ cho tiêu thụh xuất khẩu nên giá thóc ở Đồng bằng sông Cửu Long ổn định ở mức 1750 đến 1900 đồng/1kg.
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản(năm -1999)
Nguồn số
Dự án
Số vốn đầu tư
ODA
WB
FDI
130
6
363
1,5 Tỷ USD
465 triệu USD
3 tỷ 766 triệu USD
Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư
Xuất khẩu hàng nông sản năm 1999
Mặt hàng
Lượng (1000 tấn)
Trị giá (tr USD)
Giá BQ (USD/tấn)
1999
2000
1999
2000
1999
2000
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Lạc nhân
Hạt điều
4200
390
212
34
62
17
4200
400
230
35
120
30
989
555,8
125,4
43,3
36,23
101,3
1050
560
135
52
135
165
235,467
1392,982
591,509
1420,588
584,355
5958,824
250
1400
592
1486
3857
5500
Nguồn: Bộ thương mại
2. Thực trạng sức cạnh tranh hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam:
tăng trưởng bình quân xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam đạt 21% năm trong suốt 10 năm. Gạo, cà phê, cao su, chè là bốn mặt hàng chủ lực, năm 1999 đạt 1,8 tỷ USD chiếm 16,63% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
2.1 số lượng và kim ngạch xuất khẩu của bốn mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh (xem bảng)
Có thể thấy rằng cả bốn mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của thế giới và cao hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan (trong mặt hàng gạo và cà phê), Inđônêxia (cà phê, cao su), Malaixia (cao su),... kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam so với Thái Lan tăng từ dưới 30% (trước năm 1998) lên 44% năm (1998).
Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam so với Braxin đã tăng từ 9,44% (năm 1992) lên 25,4% (năm 1998).
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam so với ấn Độ cũng tăng từ 4,3% (năm 1992) lên 9,32% (năm 1998).
Kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam so với Thái Lan cũng có tăng nhưng so với tốc độ chậm hơn từ 5,87% (năm 1992) lên 8,81% (năm 1998).
Các số liệu trên chứng tỏ rằng mức chênh lệch mặt hàng gạo và cà phê được thu hẹp nhiều nhất trong bốn mặt hàng so với đối thủ cạnh tranh chính. Điều đó cũng cho thấy rằng, thời gian qua, sức cạnh tranh của bốn mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam có được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên nếu đi sâu vào phân tích thì quả thực chúng ta không khỏi băn khoăn về sức cạnh tranh thực sự của hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam.
Tốc độ kim ngạch nhỏ hơn tốc độ tăng sản lượng xuất khẩu (17,1% so với
20,2% ở gạo; 15,1% so với 19% ở chè; 14,25% so với 17,67% ở cao su).
Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu các hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam giai đoạn 1990-1999.
TT
Năm
Sản lượng XK (1000 tấn)
Kim ngạch XK (triệu USD)
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
Gạo
Cà phê
Cao su
Chè
1
1990
1624
89,6
75,9
10,8
305
76,16
75,3
12,96
2
1991
1033
93,8
62,9
10,5
235
74
50
14
3
1992
1940
116,2
81,9
13
418
92
66,9
16
4
1993
1722
122,6
96,7
20,6
362
110,6
74,7
26
5
1994
1983
177
135,5
21,2
424
328,2
135,4
26,5
6
1995
2058
248,1
138,1
18,8
530
595,5
193,5
26,5
7
1996
3047
281,4
194,5
21
868
420
163,3
29
8
1997
3682
391,6
195
32,3
801
497,5
194,6
48
9
1998
3800
382
197
33,2
1100
593,8
127,5
50,5
10
1999
4500
487,5
265
37
1080
592
145
46
11
2000
3500
649
280
44,7
840
842,76
153,2
56
Nguồn: Vụ thương mại-dịch vụ-Bộ kế hoạch và đầu tư
So với đối thủ cạnh tranh tốc độ tăng sản lượng của họ thấp hơn nhưng tốc độ tăng kim ngạch lại cao hơn Việt Nam. Chẳng hạn, trong khi sản lượng xuất khẩu của Thái Lan chỉ gấp 1,6 lần của Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu lại gấp những 2,27 lần.
Sản lượng cà phê xuất khẩu của Braxin chỉ gấp 2,6 lần Việt Nam thì kim ngạch xuất khẩu lại gấp 3,93 lần kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhiều mặt hàng khác cũng trong tình trạng tương tự.
Trừ mặt hàng gạo, còn ba mặt hàng còn lại có sự chênh lệch quá lớn về số lượng so với đối thủ cạnh tranh chính: cà phê chỉ bằng 1/3 của Inđônêxia của Côlômbia, chè chỉ bằng 1/6,7 của ấn Độ, 1/8 của Stilanca; cao su chỉ bằng 1/5 của Malaixia và 1/9 của Thái Lan,...Như vậy, mười năm qua tuy đã có sự phát triển vượt bậc xong nhìn chung nông sản xuất khẩu của Việt Nam (trừ gạo) còn chiếm lượng nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh, chưa đủ sức để chi phối đến sự biến đổi về giá cả trên thị trường thế giới và nông sản Việt Nam vẫn phải chịu tác động của giá cả trên thế giới và lấy đó làm tiêu chuẩn phấn đấu cho mình.
2.2 Về chất lượng nông sản xuất khẩu có được cải thiện đáng kể ở hầu hết các mặt hàng:
Chẳng hạn tỷ lệ gạo chất lượng cao (5 đến 10% tấn) đã tăng từ 1% (năm 1999) lên 85% (năm 200) tỷ lệ gạo chất lượng thấp (25% tấn) chỉ còn 22%. Tuy nhiên, đó chỉ là tiến bộ trong cải thiện độ gẫy của gạo. Gạo 5% của Thái Lan hơn hẳn ta về mùi vị, hình dáng, kích thước và tỷ lệ thuỷ phân.
Cũng với gạo, chất lượng các hàng nông sản cũng có tiến bộ đáng kể. Như mặt hàng cà phê, tỷ trọng cà phê loại 1 tăng từ 2% (vụ 95-96) lên 16% (vụ 98-99), loại 2b giảm từ 80% (vụ 95-96) xuống còn 5% (vụ 99-00), xong tỷ lệ thuỷ phân cao quá 13% thậm chí có cả hạt đen mốc, vỡ, lẫn nhiều tạp chất, quy cách, mầu sắc, độ bóng, độ đồng đều chưa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Tỷ lệ cao su thượng hạng tăng từ 89,3% (1995) lên 91,04% (1998), lên tới 94,04%( 2000) Tuy đã tăng được tỷ trọng hàng hoá phẩm chất cao nhưng mẫu mã đơn điệu nên chưa thâm nhập vào phần thị trường cao cấp và do đó giá bán luôn thấp hơn của đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù nông sản Việt Nam có chất lượng khá tốt nhưng các loạI có chất lượng không đồng đều, tỷ lệ phế phẩm còn cao. Hầu hết trong những năm gần đây, một số dây truyền chế biến nông sản được nhập ngoạI có quy trinh công nghệ tiên tiến song còn rất ít. Nhìn chung khoảng 70% sản lượng nông sản hàng năm được sơ chế tạI các hộ gia đình chất lượng không cao, gần 30% tạI cá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33707.doc