Lời nói đầu
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kính tế của Đảng ta được xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng Công ty giấy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và bền vững. Thực hiện đúng đường lối của đảng tại đại hội IX, tất cả các thành phần kinh tế phải tận dụng lợi thế của cơ chế thị trường, đưa ra phương hướng hoạt động trong mọi lĩnh vực để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Xét trên tầm vĩ mô, nhu cầu về vốn trở nên nóng bỏng và cấp thiết đối với bất kỳ một quốc gia nào, một nền kinh tế nào. Còn đối với hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, những tế bào sống của nền kinh tế, thì vốn đương nhiên được coi là một vấn đề tiên quyết không phải chỉ riêng trong cơ chế thị trường hiện nay, dưới bất kỳ một hình thức nào thì điều kiện đầu tiên sơ khai để thành lập cũng cần phải có một lượng vốn nhất định như vốn điều lệ, vốn pháp định... chứ chưa nói đến là khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng nhất cần phải có đối với bất kỳ một doanh nghiệp tài chính hay phi tài chính, nó là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Vốn là một yếu tố không thể thiếu của doanh nghiệp nhưng làm thế nào để phát huy được sức mạnh kinh tế của vốn thì mới là phương án cấp thiết để doanh nghiệp có thể tồn tại, khả năng cạnh tranh và đứng vững trên thị trường, sử dụng vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có khả năng bảo toàn và phát triển được vốn, lúc đó có thể tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh về cả chiều sâu và chiều rộng.
Giấy là một trong 7 sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế quốc dân, của đời sống xã hội, sản lượng giấy tiêu dụng bình quân đầu người hàng năm tại một quốc gia phản ánh trình độ dân trí và mức sống của dân cư. Tổng công ty giấy Việt Nam là doanh nghiệp có quy mô lớn nhất toàn ngành giấy. Với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh giấy các loại đảm bảo cân đối nhu cầu thiết yếu về giấy, cung ứng vật tư, nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị cho ngành giấy, thực hiện xuất nhập khẩu giấy và các loại hàng hoá khác có liên quan đến ngành giấy theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Để mở rộng phát triển sản xuất, nhằm đáp ứng nhu cầu càng lớn của xã hội đối với các sản phẩm giấy, một yếu tố rất quan trọng đối với Tổng công ty đó là vốn cho sản xuất kinh doanh, việc huy động các nguồn vốn nhằm phục vụ cho sự phát triển của Tổng công ty đã rất khó khăn nhưng việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn huy động được lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Nhận biết được tầm quan trọng của vốn và việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp và nhất là doanh nghiệp nhà nước, trong quá trình học tập và nghiên cứu về mặt lý thuyết ở trường cũng như quá trình thực tập tại Tổng công ty giấy Việt Nam, em thấy việc sử dụng vốn của Tổng công ty còn nhiều bất cập, chưa phát huy hết khả năng tốt nhất có thể có. Chính vì vậy em mạnh dạn chọn đề tài “ Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy Việt Nam”. Nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì được chia thành 3 phần chính sau:
Chương 1 : Một số nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp
Chương 2 : Thực trạng sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy việt nam
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại
Tổng công ty giấy Việt Nam
Mặc dù em đã cố gắng hết sức nhưng trình độ lý luận và thực tế còn nhiều hạn chế nên đề tài nghiên cứu của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, cán bộ nhân viên trong tổng công ty cùng các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn TS - Nguyễn Hữu Tài và các thầy cô giáo trong khoa đã giúp đỡ tận tình để em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Chương 1
Một số nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Lý luận chung về vốn trong các doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về vốn trong các doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm chung
Trong nội dung hoạt động tài chính doanh nghiệp, việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là khâu quan trọng nhất quyết định tới mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Quản lý sử dụng vốn bao gồm nhiều khâu như : xác định nhu cầu vốn, khai thác tạo lập vốn, sử dụng và bảo toàn vốn kinh doanh ..... Trước khi đi vào những nội dung củ thể, cần thiết phải trở lại một vấn đề có tính nguyên lý : Vốn là gì ? Vốn kinh doanh là gì ? Những đặc điểm của nó trong quá trình vận động như thế nào ?
Vốn có vai trò hết sức quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và một nền kinh tế nói chung. Do vậy, từ trước tới nay có rất nhiều quan niệm về vốn. Do mỗi người ở một hoàn cảnh kinh tế khác nhau cũng như góc độ nhìn nhận khác nhau mà có những quan niệm khác nhau về vốn.
Theo quan điểm của K.Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn(tư bản) là ‘Giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu vào của quá trình sản xuất ‘
Định nghĩa này có một tầm khái quát lớn vì đã bao hàm đầy đủ bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn chính là giá trị cho dù có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì chúng tạo ra sự tăng thêm về giá trị thông qua giá trị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do hạn chế về trình độ của nền kinh tế lúc bấy giờ, K.Marx quan niệm chỉ có khu vực sản suất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Đây là hạn chế trong quan niệm về vốn của K.Marx.
Theo P.Samuelson, một nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển, đã kế thừa quan niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và phân chia các yếu
tố đầu vào của quá trình sản xuẩt ra thành 3 loại chủ yếu là đất đai, lao động và vốn. Nên ông cho rằng, vốn là các hàng hoá sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quan niệm về vốn của mình, P.Samuelson không đề cập đến các tài sản tài chính, những giấy tờ có giá có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và ông đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Trong cuốn kinh tế học của D.Begg, tác giả đã đưa ra hai đĩnh nghĩa về vốn hiện vật và vốn tài chính của doanh nghiệp, theo đó ‘ Vốn hiện vật là dữ trữ các hàng hoá đã sản xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác; Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá của doanh nghiệp’. Như vậy D.Begg đã bổ sung vào định nghĩa vốn của P.Samuelson.
Ta thấy, dù nhìn ở góc độ nào thì các nhà kinh tế học trước đây đều giống nhau ở một điểm cơ bản:’ Vốn là đầu vào của quá trình sản xuất’. Tuy nhiên, theo họ vốn đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp D.Begg nói ‘ Vốn là tài sản hữu hình của nền kinh tế, là hàng hoá hiện vật mà chúng ta có thể sờ thấy được và có tính lâu bền’. Thực chất ở đây vốn được biểu hiện bằng tiền, là giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Về tổng quát, vốn có thể được biểu hiện là toàn bộ giá trị ứng trước trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Quá trình này diễn ra thường xuyên liên tục, do đó vốn cũng được vận động không ngừng, tạo thành vòng tuần hoàn vốn:
T-----H-----SX-----H’-----T’
Mở đầu, khi hoạt động trong phạm vi lưu thông, tiền tệ (T) tích luỹ được đem ra thị trường mua những hàng hoá cần thiết (H) với tư cách là các yếu tố chuẩn bị cho giai đoạn sản xuất (SX). Sau đó, dưới sự tác động của lao động và tư liệu lao động vào đối tượng lao động, vốn được chuyển hoá sang hình thái hàng hoá (H’) tức là hàng hoá dịch vụ mang ra tiêu thụ trên thị trường. Số tiền thu được do bán sản phẩm (T’) phải bù đắp được các chi phí bỏ ra và đảm bảo có lãi để tiếp tục quá trình tái sản xuất (Tức là T’ phải lớn hơn T). Đến đây, vốn hoàn thành quá trình luân chuyển, đồng thời cũng là quá trình vận động của giá trị và tiếp tục tham gia vào vòng luân chuyển mới .
Vốn là giá trị được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản được đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lời.
Vốn trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt nhằm sản xuất kinh doanh chứ không để tiêu dùng, tức là mục đích tích luỹ.
Trong nền kinh tế thị trường mọi thứ đều được tiền tệ hoá do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn kinh doanh. Vốn sau khi ứng ra được sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì sau một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động tiếp theo. Vốn không thể tiêu mất đi như một số quỹ khác trong doanh nghiệp, mất vốn đối với doanh nghiệp đồng nghĩa với nguy cơ phá sản.
Đặc điểm vốn
Vốn là tiền đề vật chất không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ lúc mới bắt đầu thành lập, doanh nghiệp phải có được số vốn tối thiểu mà Nhà nước quy định đối với từng loại hình doanh nghiệp đó là vốn pháp định. Từ đó doanh nghiệp mới có thể tạo lập cơ sở vật chất ban đầu của mình như nhà xưởng, máy móc thiết bị ...và chi trả các chi phí ban đầu. Đến khi doanh nghiệp đã bắt đầu ổn định, sản phẩm của doanh nghiệp đã được chấp nhận trên thị trường thì vấn đề mở rộng quy mô doanh nghiệp, phát triển các mặt hàng cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định. Trong giai đoạn này nếu doanh nghiệp đáp ứng được khả năng về vốn thì khả năng tăng trưởng doanh nghịp càng cao, càng có uy tín trên thị trường và đạt được lợi nhuận cao hơn. Song đến giai đoạn có nhiều đối thủ cạnh tranh thì đơn vị cần có vốn đầu tư cải tiến quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Từ những nhận thức về vốn, ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng của vốn trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển doanh nghiệp, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển, ngoài các yếu tố khác thì vốn là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng, là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của mình.
Vì vậy để quản lý và sử dụng có hiệu quả, chúng ta cần phải nhận thức đủ hơn về những đặc trưng sau đây:
* Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản được sử dụng để sản xuất ra một lượng giá trị sản phẩm khác. Vốn chính là hàng hoá được biểu hiện dưới dạng nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chất xám ...
* Vốn vận động phải sinh lời : Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng để biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được sinh lời. Tiền là dạng tiềm năng của vốn
trong quá trình vận động, đồng vốn được biểu hiện dưới những hình thái khác nhau : tiền, vật tư, hàng hoá. Nhưng đến khi kết thúc một vòng tuần hoàn vốn lại quay về hình thái tiền tệ nhưng phải lớn hơn thì sản xuất kinh doanh mới có lãi. Nếu đồng vốn bị ứ đọng, tài sản cố định không sử dụng đến... thì đó chỉ là những đồng vốn ‘chết’. Mặt khác tiền có vận động nhưng bị phân tán thì không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đặt ra trong sản xuất kinh doanh.
* Vốn phải có giá trị về mặt thời gian: Có nghĩa là phải xem xét yếu tố thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch tập trung vấn đề này không được xem xét kỹ lưỡng vì Nhà nước đã tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện cơ chế thị trường, giá trị thời gian của đồng vốn lại rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự biến động của giá cả, lạm phát sức mua của đồng tiền, giá trị của dồng tiền ở những thời điểm khác nhau là khác nhau.
* Vốn phải gắn với chủ sở hữu: Mối đồng tiền vốn phải gắn với chủ sở hữu nhất định, không thể có những đồng vốn vô chủ để gây nên sự lãng phí, sử dụng vốn không đúng mục đích của doanh nghiệp.
* Vốn phải được quan niệm là hàng hoá đặc biệt. Những người có vốn nhàn rỗi có thể cho người cần vay qua thị trường tài chính, nghĩa là người đi vay vốn được quyền sử dụng vốn, quyền sở hữu vốn vẫn thuộc về người cho vay vốn. Sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người này qua người khác được xem như là một vụ mua bán tiền tệ nhưng phải mất một tỷ lệ lãi suất nhất định theo thị trường và đồng tiền vốn được coi như là một hàng hoá đặc biệt. Khác với hàng hoá thông thường, hàng hoá vốn khi được bán đi thì quyền sở hữu nó vẫn không thay đổi.
* Vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền của tài sản hữu hình mà nó mà nó còn được biểu hiện bằng tài sản vô hình như: vị trí kinh doanh, nhãn hiệu, bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, uy tín kinh doanh ....Những tài sản vô hình này góp phần vô cùng quan trọng trong quyết định đầu tư và phát triển của doanh nghiệp.
Phân loại vốn của doanh nghiệp
Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà quy mô của vốn, cơ cấu thành phần và mục đích của doanh nghiệp nên có thể có nhiều hình thức phân loại vốn khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển và công dụng của tài sản có ba nhóm tài sản cơ bản là tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản đầu tư tài chính.Vì vốn
và tài sản có mối quan hệ mật thiết với nhau, vốn của doanh nghiệp là tài sản của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền, còn tài sản là biểu hiện bên ngoài của vốn cho nên phân loại tài sản cũng chính là phân loại vốn của doanh nghiệp.
Vốn cố định
a, Khái niệm :
Vốn cố định là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành sau một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Như vậy, vốn cố định là một bộ phận của vốn ứng ra hình thành tài sản cố định nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của tài sản cố định. Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, với đặc điểm là tham gia vào nhiều quá trình sản xuất, đồng thời đặc điểm của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển giá trị của vốn cố định. Vì vậy, từ mối quan hệ này ta có thể khái quát đặc điểm của vốn cố định như sau:
b, Đặc điểm vốn cố định:
Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, có đặc điểm này là do tài sản cố định tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế vốn cố định có hình thái biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định và mặc dù tài sản cố định bị hao mòn song nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu.
Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất và được hoàn thành sau một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết hạn sử dụng. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của tài sản cố định.
Sau nhiều chu kỳ sản xuất, vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu và tài sản cố định lại dần giảm xuống cho đến khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định là một bộ phận hết sức quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Do đó việc quản lý và sử dụng vốn cố định có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Vốn lưu động
a, Khái niệm:
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành xản xuất kinh doanh, ngoài các tư liệu lao động ra các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia vào sản xuất không giữ nguyên trạng thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các tư liệu lao động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước để đầu tư mua sắm các tài sản lưu động nhằm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng sau một chu kỳ sản xuất.
b, Đặc điểm vốn lưu động:
Vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động trong các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: dữ trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục, thường xuyên lặp đi lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại được thay đổi hình thái thể hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dữ trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động kết thúc một vòng chu chuyển.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Đáp ứng đầy đủ vốn lưu động có thể rút ngắn được vòng luân chuyển của vốn, đạt được hiệu quả cao về sử dụng vốn và mục đích kinh doanh của mình.
Vốn đầu tư tài chính:
a, Khái niệm:
Ngoài hoạt động chính cơ bản của doanh nghiệp phi tài chính là sản xuất, thương mại, dịch vụ thì doanh nghiệp còn dùng một phần vốn kinh doanh đầu tư ra bên ngoài gọi là đầu tư tài chính. Lợi nhuận của hoạt động đầu tư tài chính được hình thành từ bên ngoài doanh nghiệp như lãi cổ phần, lãi liên doanh...
Vậy một bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp được đầu tư dài hạn ra bên ngoài nhằm mục đích sinh lơì được gọi là vốn đầu tư tài chính của doanh nghiệp
* Đầu tư tài chính nhằm:
- Làm cho vốn tạm thời nhàn rỗi sinh lời.
- Phân tán rủi ro bằng sự đa dạng hoá đầu tư, nhất là biện pháp liên doanh, đầu tư bất động sản.
- Tận dụng những lợi thế của doanh nghiệp trong hoạt động liên doanh.
- Tận dụng những cơ hội kinh doanh trong đầu tư tài chính.
- Tạo nguồn dữ trữ đảm bảo khả năng thanh toán nợ đến hạn khi tài sản bằng tiền không đủ dưới dạng đầu tư chứng khoán. Khi đó doanh nghiệp không cần dữ trữ nhiều vốn bằng tiền gây lãng phí.
- Để đảm bảo an toàn về vốn, người đầu tư có thể chấp nhận một hướng đầu tư với tỷ suất lợi nhuận thấp nhưng vốn đầu tư được an toàn.
Trong nền kinh tế thị trường, việc đảm bảo an toàn về vốn là một trong những nguyên tắc quan trọng. Người đầu tư có thể sẵn sàng chấp nhận một hướng đầu tư với tỷ suất lợi nhuận thấp, nhưng vốn đầu tư được an toàn, còn hơn là một dự án có tỷ suất lợi nhuận cao nhưng lại bấp bênh, mạo hiểm. Vì thế ngoài mục tiêu lợi nhuận, việc đầu tư vốn ra bên ngoài còn là để phân tán độ rủi ro. Vì thế trong kinh doanh, có thể có những doanh nghiệp bị thiếu vốn, phải đi vay, nhưng họ vẫn mạnh dạn bỏ vốn đầu tư ra bên ngoài.
Nguồn vốn cho đầu tư tài chính lấy từ vốn tạm thời nhàn rỗi, nếu đầu tư liên doanh, bất động sản còn dùng cả vốn vay. Vốn nhàn rỗi là do chưa tích luỹ đủ để đầu tư hoặc chưa chọn được phương án đầu tư hiệu quả.
b. Các hình thức của hoạt động đầu tư tài chính:
* Căn cứ vào nội dung kinh tế, hoạt động đầu tư tài chính tồn tại dưới 5 hình thức sau:
- Đầu tư chứng khoán.
- Góp vốn liên doanh với doanh nghiệp khác để hình thành doanh nghiệp liên doanh hoặc góp vốn hợp danh và một doanh nghiệp khác dưới dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh .
- Cho vay, chủ yếu cho các tổ chức tín dụng vay.
- Mua bán ngoại tệ: khi có sự biến động tỷ giá doanh nghiệp có thể đầu cơ hoặc mua bán ngoại tệ có kỳ hạn để tránh rủi ro.
- Tín dụng thương mại, kể cả cho vay dài hạn dưới dạng bán chịu máy móc thiết bị vẫn không thuộc loại đầu tư tài chính cho vay mà thuộc tài sản phải thu của khách hàng vì tín dụng thương mại có mục đích, khả năng chuyển hoá thành tiền (tính lỏng) và biện pháp theo dõi quản lý giống các khoản phải thu hơn.
* Căn cứ vào thời hạn đầu tư, có hai loại:
- Tài sản đầu tư tài chính ngắn hạn: Bao gồm những tai sản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi vốn không quá 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh. Như vậy đầu tư tài chính ngắn hạn bao gồm cả đầu tư chứng khoán dài hạn mà có thể thu hổi trong thời gian không quá 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh. Chủ yếu dưới dạng đầu tư chứng khoán ngắn hạn.
- Tài sản đầu tư tài chính dài hạn bao gồm những tài sản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi vốn trên một năm.
Trong nhiều trường hợp, nhờ đầu tư tài chính ra bên ngoài mà doanh nghiệp có thể tự tháo gỡ được những nguy cơ bên trong tránh được nguy cơ phá sản bằng lĩnh vực kinh doanh mới có khả quan hơn, đó cũng là một giải pháp kéo dài chu kỳ sống của doanh nghiệp. Trong khi phân tích những ưu thế của việc đầu tư ra bên ngoài cũng không nên quên những hạn chế của hình thức đầu tư này. Điều quan trọng nhất khi đi tới quyết định đầu tư tài chính ra bên ngoài là cần hết sức cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự án. Vì thế nhà kinh doanh phải am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích, đánh giá những mặt giới hạn của dự án để chọn đúng đối tượng và loại hình đầu tư phù hợp.
Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên mỗi loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác, huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Nếu người quản lý không bao quát được các nguồn hình thành vốn, nội dung và tính chất của các nguồn vốn có thể huy động được thì đó là sai lầm trong công tác quản lý, sử dụng vốn kinh doanh. Vì vậy việc nghiên cứu nội dung tính chất của các nguồn vốn sẽ là cơ sở cho việc lựa chọn, khai thác huy động vốn phù hợp với nhu cầu khả năng cho phép của mỗi doanh nghiệp.
Căn cứ vào nguồn hình thành, nguồn vốn được chia làm hai loại là nguồn vốn chủ sở hữu và nợ
a, Nguồn vốn chủ sở hữu: Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu và sử dụng nó. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ:
ã Vốn do ngân ngân nhà nước cấp: Nguồn này được cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước, đó là nguồn được hình thành từ quỹ tích luỹ của ngân sách và được dùng vào mục đích chi phát triển kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, tuy thu không đủ chi, nhưng ngân sách nhà nước đã phải tài trợ số vốn kinh doanh cho hàng vạn xí nghiệp quốc doanh trong nền kinh tế, do có sự bao cấp của nhà nước về vốn nên đã gây tâm lý ỷ lại. Từ đó đã làm suy giảm tính năng động của các xí nghiệp trong việc chủ động khai thác các nguồn vốn, cũng như tìm kiếm các giải pháp để bảo toàn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Trong cơ chế thị trường, đi đôi với việc mở rộng và khuyến kích các thành phần kinh tế tư nhân, chính phủ đang xúc tiến các biện pháp đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối khu vực kinh tế quốc doanh. Hướng đổi mới chủ yếu là thu hẹp phạm vi và quy mô của khu vực này bằng cách tư nhân hoá, cổ phần hoá phần lớn các xí nghiệp quốc doanh. Vì thế nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp quốc doanh sẽ có xu hướng giảm đáng kể về tỷ trọng và số lượng.
ã Vốn tự có : Là vốn của nội bộ doanh nghiệp lấy từ hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm vốn khấu hao cơ bản để lại, lợi nhuận không chia, tiền nhượng bán tài sản (nếu có). Về lâu dài đây là nguồn vốn chủ yếu, là nguồn lực giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế tài chính của mình.
ã Vốn liên doanh, liên kết: Là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ của các chủ đầu tư để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận. Việc góp vốn liên doanh có thể được hình thành từ nhiều nguồn tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp: có thể là liên doanh giữa vốn ngân sách với các nguồn vốn tự có của tư nhân, liên doanh giữa vốn ngân sách quốc gia này với quốc gia khác...
Hình thức góp vốn này phù hợp với các công ty quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất và quản lý vốn, chia lãi đơn giản.
Ngoài các nguồn vốn trên, vốn của doanh nghiệp có thể được hình thành từ phát hành cổ phiếu, đây là một đặc trưng rất cơ bản của nền kinh tế thị trường. Đây là một hình thức huy động có hiệu quả các nguồn tài chính trong xã hội để có một số vốn lớn và ổn định cho đầu tư kinh doanh. Trong vài trường hợp đặc biệt có nguồn vốn FDI, ODA.
b, Nợ phải trả: Là những khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế như ngân hàng thương mại,công ty tài chính, công ty bảo hiểm hoặc các tổ chức tài chính trung gian khác. Ngoài ra còn có thể từ việc phát hành trái phiếu, các khoản nợ phải trả cho nhà nước...Nguồn này có tính chất tạm thời, thường xuyên biến đổi. Sử dụng loại vốn này doanh nghiệp phải trả một khoản chi phí gọi là chi phí sử dụng vốn hay lãi vay.
ã Nợ ngắn hạn : Bao gồm các khoản tín dụng thuơng mại ngắn hạn và tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại thường được các doanh nghiệp sử dụng coi như là một nguồn vốn ngắn hạn, nó phát sinh trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả góp giữa doanh nghiệp và đối tác. Tín dụng thương mại là phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt trong kinh doanh, ngoài ra nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên nó là nguồn vốn ngắn hạn nên sử dụng nó cũng dễ gặp nhiều rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán. Tín dụng ngân hàng là khoản vay tại các ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu vốn nhanh chóng. Nhưng nguồn vốn này không phải khi nào cũng có được.
ã Nợ dài hạn: Gồm các khoản tín dụng dài hạn, huy động vốn từ phát hành trái phiếu công ty. Nợ dài hạn thường dùng để tài trợ cho việc mua sắm tài sản cố định. Nợ dài hạn có mức lãi suất thấp hơn nợ ngắn hạn.
Căn cứ vào phạm vi huy động vốn có thể chia thành hai nguồn sau:
ã Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ bản thân doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận để lại, vốn góp các chủ sỡ hữu, các khoản dự trữ dự phòng, chênh lệch đánh giá lại tài sản, thu từ nhượng bán thanh lý tài sản cố định.
ã Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình, bao gồm: vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái phiếu cổ phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác.
Cách phân loại này có thể giúp các nhà quản lý có thể quyết định một cách đúng đắn trong việc lựa chọn ra một cơ cấu vốn tối ưu. Một công cụ hết sức phổ biến làm cơ sở cho việc lựa chọn, phân tích xem lúc nào thì nên đi vay, lúc nào thì nên sử dụng vốn chủ sở hữu để tiến hành kinh doanh đó là ‘ Đòn bẩy tài chính - Financial Leverage ‘
Một cơ cấu vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được một cơ cấu vốn tối ưu tại một thời điểm, khi có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì lập tức cơ cấu vốn cũng sẽ thay đổi. Nếu doanh nghiệp định huy động vốn thêm nợ mà tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn tốc độ tăng của chi phí nợ vay thì ta không nên sử dụng chi phí nợ vay. Như vậy, doanh nghiệp sẽ sử dụng thêm nợ đến khi tốc độ tăng của
Lợi nhuận trước thuế và lãi
Tốc độ tăng của chi phí nợ
Tài sản
Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn có thể chia thành:
a, Nguồn vốn thường xuyên: Là nguồn vốn có tính chất ổn định và có thể sử dụng trong một thời gian dài gồm vốn chủ sở hữu, khoản vay trung và dài hạn. Nguồn vốn này thường được dành cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
b, Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản nợ ngắn hạn (các khoản phải trả, các khoản phải nộp).
Việc phân loại nguồn vốn thành nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời giúp cho người quản lý xem xét việc huy động các nguồn vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Phân loại này còn giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô số lượng vốn cần thiết. Từ đó có thể tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
Hiệu quả sử dụng vốn và sự cần thiết năng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn :
Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã hội nhằm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Để đạt được mục đích, doanh nghiệp hướng tới hiệu qủa kinh tế trên cơ sở khai thác và sử dụng một cách triệt để mọi nguồn lực sẵn có. Chính vì thế các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp.
Theo cách hiểu đơn giản, hiệu quả sử dụng vốn là sự đạt được lợi nhuận đề ra khi sử dụng một lượng vốn nhất định vào sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng sử dụng vốn, là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất và có mức chi phí thất nhất. Được coi là có hiệu quả khi giá trị thu được phải lớn hơn số vốn ban đầu bỏ ra sau khi đă quy chuẩn trên cùng giá trị thời gian .
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
Trong công tác tổ chức, quản lý, sử dụng vốn, việc đánh giá đúng đắn tình hình tài chính của doanh nghiệp của các kỳ trước là một vấn đề quan trọng. Từ đó cho phép nêu ra các biện pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và sử dụng vốn trong kỳ tiếp theo. Để đánh giá tình hình tổ chức cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp một cách chính xác, ta tiến hành phân tích tình hình sử dụng vốn chung của doanh nghiệp đó bằng phương pháp phân tích tài chính, rồi sau đó sử dụng phương pháp phân chia vốn của doanh nghiệp để đưa ra kết luận về tính hiệu quả trong việc sử dụng từng loại vốn của doanh nghiệp.
Khái quát nội dung phân tích:
Phân tích các chỉ tiêu tổng hợp
ă Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định
ă Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động
a, Một số chỉ tiêu tổng hợp:
Doanh thu thuần
Vòng quay toàn bộ vốn =
Tổng số vốn bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu suất sử dụng vốn trong kỳ, nói lên một đồng vốn mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Vòng quay càng lớn thì khả năng thu hồi vốn và thu lợi nhuận càng cao.
Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân ngày
Các khoản phải thu * 360
=
Doanh thu
Trong quá trình hoạt động việc phát sinh các khoản phải thu, phải trả là điều tất yếu. Khi các khoản phải thu lớn chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn ngày càng nhiều. Nhanh chóng giải phóng vốn ứ đọng trong khâu thanh toán là một nhiệm vụ quan trọng tron._.g công tác tài chính. Cũng chính vì tính chất của các khoản phải thu mà các nhà phân tích tài chính rất quan tâm đến thời gian thu hồi các khoản phải thu, củ thể là chỉ tiêu thời kỳ thu tiền bình quân.
Các khoản phải thu gồm: Phải thu ở khách hàng, trả trước cho người bán, phải thu nội bộ, tạm ứng, chi phí trả trước...Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
Kỳ thu tiền càng lớn vốn càng bị chiếm dụng, điều đó chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ chậm, vốn bị ứ đọng nhiều. Tuy nhiên hệ số này lớn có thể do doanh nghiệp đang mở rộng thị trường mới, tăng daonh thu để tạo ra lợi thế trong cạnh tranh thì lúc này tình trạng của doanh nghiệp chỉ là tạm thời. Kỳ thu tiền bình quân nhỏ chứng tỏ khả năng thu hồi vốn trong khâu thanh toán của doanh nghiệp là tốt nhưng không được quá nhỏ.
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tỷ suất lợi nhuận vốn =
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp cho thấy khi bỏ ra một đồng vốn thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đông lợi nhuận. Con só này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng tốt và ngược lại.
b, Phân tích một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp
Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng trong hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua kiểm tra tài chính doanh nghiệp có được những căn cứ xác đáng để đưa ra quyết định về tài chính như điều chỉnh về quy mô và cơ cấu vốn đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá tài sản cố định, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Kết quả sản xuất mà vốn cố định đem lại được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như doanh thu, lợi nhuận, mức hạn giá thành. Dưới đây là một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
* Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Với các doanh nghiệp chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Tuy nhiên, lưu ý do vốn lưu chuyển chậm trong nhiều kỳ kinh doanh khác nhau nên khi sử dụng để so sánh giữa các kỳ kinh doanh khác nhau thì cần loại bỏ yếu tố trượt giá.
Doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Trong đó: GTCL đầu kỳ + GTCL cuối kỳ
VCĐ sử dụng bình quân =
trong kỳ 2
* Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ. Chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu trên nên càng nhỏ càng tốt, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hàm lượng vốn cố định =
Doanh thu thuần trong kỳ
* Mức doanh lợi vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định tham gia vào sản suất kinh doanh trong kỳ thì tại ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Mức doanh lợi vốn cố định =
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp trên, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác để phản ánh sâu hơn về vốn cố định như: Hệ số công suất của tài sản cố định ( so sánh công suất thực tế với công suất thiết kế); hệ số hao mòn tài sản cố định (được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của tài sản cố định tại thời điểm kiểm tra chia cho nguyên giá tài sản cố định). Hệ số này càng thấp cho biết tỷ lệ vốn mà doanh nghiệp còn phải thu hồi để bảo toàn vốn nhỏ, song nó cũng chỉ ra rằng
máy móc thiết bị của doanh nghiệp đã cũ kỹ cần phải thay đổi trong thời gian tới.
Việc tính toán các hệ số trên chỉ có ý nghĩa khi nó đan xen, bổ sung cho nhau, giúp người quản lý đưa ra các biện pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn, phù hợp với loại hình và mục đích kinh doanh, cũng như các nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động để tài trợ cho tài sản cố định.
Ngoài ra, nếu chỉ xem xét các chỉ tiêu trên trong một thời kỳ thì chưa kết luận được doanh nghiệp đó đã sử dụng vốn có hiệu quả hay chưa. Do vậy, người ta thường so các chỉ tiêu trên trong những thời kỳ khác nhau để xem sự biến động đó như thế nào, so sánh các chỉ tiêu đó với chỉ tiêu trung bình của nghành để từ đó những cái được và chưa được động thời có các biện pháp thích hợp để phát huy mặt được , khắc phục mặt chưa được.
c, Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
* Tốc độ luân chuyển vốn lưu động:
Trong quá trình sản suất kinh doanh, vốn lưu động vận động không ngừng qua các giai đoạn khác nhau của quá trình tái sản xuất. Đẩy mạnh tốc độ luân chuyển vốn sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn, tăng doanh thu và lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Chỉ tiêu này nói lên tình trạng quản lý các khoản tiền mặt, phải thu và dự trữ có hợp lý không. Qua đó cho biết khả năng thanh toán tốt hay xấu, các chi phí trong kinh doanh cao hay thấp, tiết kiệm hay lãng phí vốn. Việc phân tích chỉ tiêu này có thể đưa ra các chỉ dẫn cho doanh nghiệp, ra các quyết định đúng đắn để tăng cường công tác kinh doanh và sử dụng tiết kiệm vốn lưu động.
Chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn lưu động bao gồm hai hình thức sau:
+ Số vòng quay của vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh trong một kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển nhanh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và ngược lại, chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển.
Doanh thu thuần
Số vòng quay VLĐ =
VLĐ bình quân trong kỳ
+ Thời gian của một vòng luân chuyển: Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn và ngược lại.
360 ngày
=
Thời gian một vòng luân chuyển
Số vòng luân chuyển
Trên đây chỉ là mặt lượng của chỉ tiêu tốc độ luân chuyển vốn. Còn về mặt chất, nó phản ánh sự phát triển của trình độ sản xuất kinh doanh, công tác quản lý, kế hoạch hoá và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vòng quay vốn lớn trong điều kiện không có sự gia tăng đột biến về vốn chứng tỏ hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra có sức tiêu thụ mạnh, doanh thu cao dẫn tới lợi nhuận tương ứng cũng tăng mạnh. Nếu không hoàn thành được một kỳ luân chuyển nghĩa là vốn lưu động còn ứ đọng , cần tìm ra biện pháp khai thông kịp thời.
Tốc độ luân chuyển vốn tăng cũng giúp doanh nghiệp tiết kiệm được vốn lưu động trên hai mặt:
- Tuyệt đối: Phần vốn dư thừa có thể sử dụng vào mục đích khác.
- Tương đối: Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh (tăng doanh thu) mà không hoặc tăng ít vốn.
Ngoài những chỉ tiêu trên người ta còn có thể đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn lưu động thông qua đánh giá tình hình củ thể của từng bộ phận cấu thành vốn lưu động như: vòng quay hàng tồn kho, kỳ thu tiền bình quân.
* Mức doanh lợi vốn lưu động( hiệu suất sử dụng vốn lưu động):
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
Lợi nhuận sau thuế trong kỳ
Mức doanh lợi của =
vốn lưu động
Vốn lưu động sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó phản ánh lượng sử dụng vốn lưu động trong doanh nghiệp.
Chú ý: VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ = (VLĐ đầu kỳ + VLĐ cuối kỳ)/2
* Hàm lượng vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động
VLĐ bình quân trong kỳ
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn được tiết kiệm càng nhiều.
Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động kinh tế nhằm mang lại lợi nhuận thông qua sản xuất kinh doanh, thành bại của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó vốn là yếu tố đầu vào quan trọng. Vốn gồm cả khả năng cung ứng tích luỹ, tích tụ đổi mới sử dụng vốn. Xí nghiệp vừa là người mua vừa là người bán khi bị hạn chế về nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính bao giờ cũng có giới hạn, do vậy vấn đề nòng cốt là làm sao sử dụng nguồn lực hiệu quả chứ không phải đòi thêm nguồn lực. Khi bán ra họ bị giới hạn bởi nhu cầu sức mua, thị hiếu...Do vậy hàng hoá không bán được, khó bán, khó có khả năng tái tạo nguồn tài chính ban đầu. Vì vậy doanh nghiệp là hoạt động tạo ra nguồn tài chính, tái tạo ra nguồn tài chính là hoạt động quan trọng nhất, đó là nguyên tắc.
Hiệu quả sử dụng vốn là một trong những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận, đến quyền lợi dẫn đến mục đích cao nhất của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao lợi nhuận, chẳng có một lý do nào để doanh nghiệp có thể từ chối việc làm đó. Như vậy ta có thể thấy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một việc làm thiết yếu của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đồng vốn bỏ ra không thể được hao hụt, lãng phí, mất mát, mà phải luôn sinh sôi nảy nở. Vấn đề ở đây là đồng vốn đó sinh lời và tăng trưởng bao nhiêu?
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
Để đạt được kết quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh nói chung cũng như trong hiệu quả sử dụng vốn nói riêng các doanh nghiệp phải xác định phương hướng mục tiêu rõ ràng trong sử dụng vốn cũng như các nguồn nhân tài vật lực sẵn có. Muốn vậy các doanh nghiệp cần phải nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn về cả xu hướng và mức độ tác động của nó.
Những nhân tố khách quan:
* Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước:
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Do vậy, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật. Với bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào trong chế độ chính sách hiện hành đều trực tiếp hoặc gián tiếp chi phối các mảng hoạt động của doanh nghiệp. Chẳng hạn như nhà nước tăng thuế thu nhập doanh nghiệp, điều này trực tiếp làm giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Nhà nước tăng thuế giá trị gia tăng lên sản phẩm của doanh nghiệp sẽ gián tiếp làm giảm doanh thu thuần của doanh nghiệp.
* Thị trường và cạnh tranh:
Trong cơ chế bao cấp trước đây, nguồn vốn của doanh nghiệp do nhà nước cấp và nếu doanh nghiệp không quan tâm đến việc phải sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả, nếu kinh doanh thua lỗ đã có nhà nước bù đắp và trang trải mọi thiếu hụt. Đồng thời vai trò kiến thiết, thu hút vốn đầu tư không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn không còn nữa, doanh nghiệp phải tự trang trải mọi chi phí và phải kinh doanh có lãi mới tồn tại, phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Bên cạnh đó cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường rất gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã sản phẩm và phải quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
* Những nhân tố khác:
Đó là các nhân tố mà người ta thường gọi là các nhân tố bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ có tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp. Mức độ tổn hại về lâu dài hay tức thời không thể biết trước mà chỉ có thể đề phòng trước để giảm nhẹ thiệt hại.
Những nhân tố chủ quan:
Ngoài những nhân tố khách quan nói trên, còn rất nhiều nhân tố chủ quan do chính bản thân doanh nghiệp tạo nên gây ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Nhân tố này gồm nhiều yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh cả về trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vậy việc xem xét, đánh giá, ra quyết định đối với các yếu tố này cực kỳ quan trọng. Thông thường trên giác độ tổng quát người ta thường xem xét những yếu tố chủ yếu sau:
* Sản phẩm mà doanh nghiệp tiến hành sản suất kinh doanh:
Vị thế của sản phẩm trên thị trường nghĩa là sản phảm đó mang tính cạnh tranh hay độc quyền, được người tiêu dùng ưa chuộng hay không, sản phẩm đã bước sang giai đoạn nào của chu kỳ sống...sẽ quyết định tới lượng hàng hoá bán ra và giá cả đơn vị sản phẩm. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu và lợi nhuân của doanh nghiệp từ đó làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Trước khi quyết định ngành nghề kinh doanh hay sản phẩm đưa ra thị trường, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường và các chiến lược khác, có như thế thì doanh nghiệp mới mong thu được lợi nhuận.
* Yếu tố về vốn của doanh nghiệp:
Vốn là phạm trù kinh tế quan trọng trong doanh nghiệp, việc quyết định nguồn tài trợ, phân bổ vốn vào các loại tài sản và việc xác định nhu cầu vốn của doanh nghiệp có ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn.
Cơ cấu vốn nó liên quan trực tiếp tới hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp và nó liên quan đến tính chi phí ( khấu hao vốn cố định, tốc độ luân chuyển vốn lưu động). Giải quyết tốt vấn đề cơ cấu vốn hợp lý chính là thực hiện tốt các mặt: Đảm bảo cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động trong tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp; Thúc đẩy đồng vốn vận động nhanh, không bị ứ đọng hay dùng sai mục đích...
- Nhu cầu vốn của doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Việc xác định nhu cầu vốn là hết sức quan trọng, nếu xác định không chính xác sẽ gây hậu quả gián đoạn, ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện hợp đồng làm mất uy tín của doanh nghiệp. Ngược lại, xác định vốn vượt ra khỏi nhu cầu sẽ gây lãng phí. Trong cả hai trường hợp đều xử dụng vốn không có hiệu quả. Xác đinh nhu cầu vốn không chỉ là việc xác định tổng vốn cần thiết mà còn phải xác định củ thể số vốn đầu tư cho tài sản lưu động và nhu cầu vốn cho tài sản cố định. Làm tốt công việc này giúp doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ một cách hợp lý.
- Nguồn tài trợ: Việc tìm kiếm và quyết định các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Cụ thể đó là chi phí vốn. Vốn là một yếu tố sản xuất, doanh nghiệp muốn sử dụng nó phải bỏ ra một lượng chi phí nhất định. Chi phí vốn được hiểu là chi phí phải trả cho người sở hữu các nguồn vốn đó. Nếu chi phí vốn cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn.
* Mục tiêu của doanh nghiệp:
Với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, đó là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp và trong điều kiện hoạch toán theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại hay không thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận. Do đó lợi nhuận được coi là những đòn bẩy kinh tế quan trọng. Là nhà quản lý giỏi phải làm sao cho đồng vốn sinh lời với tỷ lệ cao nhất, để đạt được điều đó thì doanh nghiệp phải tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, có như vậy thì mới thu được lợi nhuận cao, thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển.
* Trình độ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp :
Nói chung yếu tố con người là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong doanh nghiệp.Công nhân sản suất có tay nghề cao, có kinh nghiệm làm việc, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tài sản trong quá
trình lao động sản xuất mới tăng được năng suất lao động, tiết kiệm trong sản suất. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có quản lý về mặt nhân sự tốt mới đảm bảo có một đội ngũ lao động có năng lực thực hiện nhiệm vụ, sắp xếp lao động hợp lý thì không bị lãng phí nguồn nhân lực.Trình độ quản lý về mặt tài chính là hết sức quan trọng, quy trình hoạch toán có phù hợp, số liệu kế toán có chính xác thì các quyết định tài chính của người lãnh đạo doanh nghiệp mới có cơ sở khoa học. Ngoài ra trong quá trình hoạt động, việc thu chi phải rõ ràng, sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, đúng thời điểm thì mới có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Trình độ quản lý còn thể hiện trên một số mặt củ thể như: quản lý hàng tồn kho, quản lý khâu sản xuất, quản ký khâu tiêu thụ... Chỉ khi các khâu quản lý này tốt thì hiệu quả sử dụng vốn mới nâng cao rõ rệt.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp làm ảnh hưởng tới hiệu quả công tác tổ chức và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hạn chế thiệt hại do những nguyên nhân đó gây ra, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ lượng thận trọng từng nguyên nhân để hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả có thể xảy ra, đảm bảo việc tổ chức huy động vốn đầy đủ kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Đồng thời có các giải pháp kịp thời, đồng bộ không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Chương 2
Thực trạng sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy Việt nam
2.1 Khái quát tình hình hoạt động của Tổng công ty Giấy Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam là doanh nghiệp Nhà Nước thuộc Bộ Công Nghiệp và chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Công nghiệp, các Bộ, cơ quan trực thuộc Chính Phủ,UBND tỉnh và Thành phố trực thuộc Trung ương. Tổng công ty Giấy là doanh nghiệp hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và có con dấu để giao dịch theo quy định của nhà nước.
Tiền thân của Tổng công ty Giấy Việt Nam là liên hiệp các xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm. Năm 1976 Công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và Công ty Giấy Gỗ Diêm phía nam được thành lập. Hai Công ty thực hiện chức năng quản lý sản xuất đối với các xí nghiệp quốc doanh Giấy Gỗ Diêm. Công ty vừa là cơ quan quản lý cấp trên, vừa là cấp kế hoạch, vừa là cơ quan cấp điều hành sản xuất - kinh doanh của đơn vị trực thuộc. Kế hoạch sản xuất - kinh doanh của đơn vị trong Công ty hoàn toàn do Công ty phân giao và quyết định. Công ty cân đối đầu vào, giao chỉ tiêu vật tư, chỉ định địa chỉ và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kiểm tra, đánh giá, công nhận mức hoàn thành kế hoạch sản xuất - kinh doanh và duyệt quyết toán tài chính năm đối với các xí nghiệp thành viên .
Năm 1978-1984: liên hiệp xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc (LHXNGGD) được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai Công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và phía Nam theo nghị định 302/ CP ngày 01.12.1978 của hội đồng Chính Phủ . Liên hiệp vừa là cơ quan cân đối, phân giao kế hoạch - sản xuất kinh doanh vừa là cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của các đơn vị thành viên .
Năm 1984 - 1990 : Trong hoàn cảnh địa lý nước ta, điều kiện thông tin trao đổi giữa các khu vực trong cả nước còn gặp khó khăn, để thuận lợi trong quản lý và điều hành trong sản xuất, năm 1994 Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc được tách ra thành hai liên hiệp khu vực. Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 1( phiá Bắc) và Liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 2 ( phía Nam ).
Mặc dù đến năm 1987 có quyết định 217/HĐBT, nhưng thực tế hai liên hiệp khu vực vẫn hoạt động như LHXNGGD toàn quốc vì thời gian này vẫn còn cơ chế bao cấp. Các đơn vị thành viên vẫn phụ thuộc toàn diện vào hai liên hiệp. Nhìn chung mô hình tổ chức cuả công ty, liên hiệp lúc bấy giờ hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế vận hành thời bao cấp. Điều đó thể hiện :
+ Công ty, liên hiệp là cấp trên trực tiếp của các xí nghiệp .
+ Công ty, liên hiệp là cấp kế hoạch
+ Kinh phí hoạt động của công ty, liên hiệp do các xí nghiệp thành viên đóng góp. Năm 1990-1993, nhờ sự ra đời của Quyết định 217 - HĐBT năm 1987 nhằm xoá bỏ cơ chế quản lý bao cấp, tháo gỡ khó khăn cho các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh. Sự đổi mới cơ chế quản lý tạo cho xí nghiệp có quyền tự chủ về tài chính và sản xuất kinh doanh. Vai trò tác dụng của Liên hiệp từ đó bị lu mờ dần .
Để phù hợp với cơ chế quản lý mới, ngày 13/8/1990 Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm toàn quốc (LHSX—XNKGGD) được thành lập theo quyết định 368/CNg - TCLĐ của Bộ Công Nghiệp nhẹ trên cơ sở hợp nhất hai liên hiệp Giấy Gỗ Diêm số 1 và Liên hiệp Giâý Gỗ Diêm số 2. Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm toàn quốc hoạt động theo Điều lệ liên hiệp xí nghiệp quốc doanh ban hành tại nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989
Đến năm 1995, ngành Giấy đề nghị nhà nước cho tách riêng vì ngành Gỗ Diêm là một ngành kinh tế - kỹ thuật khác không gắn liền với ngành Giấy . Mặc dù ngành Giấy và ngành Gỗ Diêm cùng sử dụng nguyên liệu là gỗ nhưng gỗ trong ngành Giấy khác hoàn toàn so với gỗ trong ngành Gỗ Diêm. Do vậy dẫn đến việc quản lý chuyên ngành khác nhau , tính chất sản xuất khác nhau, thể doanh thu khác nhau cho nên ngành Giấy cần tách riêng ra với mục đích đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tăng cường sức mạnh của ngành kinh tế kỹ thuật góp phần thực hiện chủ trương CNH- HĐH đất nước. Chính vì vậy dẫn đến sự ra đời của Tổng công ty Giấy Việt Nam.
Tổng công ty Giấy Việt Nam được thành lập theo quyết định số 256/TTg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng Chính phủ và nghị định số 52/CP ngày 02/08/1995 của Chính phủ ban hành Điều lệ về tổ chức hoạt động của Tổng công ty giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn nhất toàn ngành Giấy, bao gồm các thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc vào các đơn vị sự nghiệp có liên quan gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt
động trong lĩnh vực công nghệ giấy và trồng rừng nguyên liệu giấy, nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng công ty, đáp ứng nhu cầu giấy của thị trường.
Tổng công ty thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh giấy các loại đảm bảo cân đối nhu cầu thiết yếu về giấy do nhà nước giao, chăm lo phát triển vùng nguyên liệu giấy, cung ứng vật tư, nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị cho ngành giấy, thực hiện xuất nhập khẩu giấy và các loại hàng hoá khác có liên quan đến ngành giấy theo quy định của pháp luật Việt nam.
Tổng công ty có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng công ty quản lý, có con dấu, có tài sản riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo quy định của nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ của Tổng công ty.
Tên giao dịch quốc tế là:
VIETNAM PAPER CORPORATION, viết tắt là VINAPIMEX.
Trụ sở chính : 25A - Lý Thường Kiệt - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
2.1.2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng công ty Giấy Việt Nam
2.1.2.1. Chức năng hoạt động của Tổng công ty Giấy.
Tổng công ty chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Công nghiệp nhẹ, các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương với tư cách là các cơ quan quản lý nhà nước.Tổng công ty có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác của Nhà nước giao theo quy luật của pháp luật và có quyền giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng.
Tổng công ty có quyền đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, mua một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp khác theo quy định của pháp luật.Tổng công ty có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của Tổng công ty.
Tổng công ty có quyền quản lý, tổ chức kinh doanh, đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Được mời và tiếp đối tác kinh doanh nước ngoài. Được sử dụng vốn và các quỹ của Tổng công ty để phục vụ kịp thời các nhu cầu kinh theo nguyên tắc bảo toàn có hiệu quả. Được hưởng các chế độ có ưu đã đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của Nhà nước.
Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán tập trung đối với các đơn vị trực thuộc Tổng công ty và hạch toán kinh tế tổng hợp trên cơ sở hạch toán đầy
đủ của các đơn vị thành viên. Các đơn vị trực thuộc Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế nội bộ.
Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ các phòng ban của Tổng Công Ty Giấy Việt Nam:
Cấu trúc tổ chức của tổng công ty giấy Việt Nam:
Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Phòng dự án
Phòng nguyên liệu
Phòng kh-kd
Phòng qlkt
Phòng xnk
Phòng tài chính - kế toán
Văn
phòng
Cty
VPP Hồng hà
Cty giấy tân mai
Cty gỗ đồng nai
Viện Nc giấy và xenluylo
Trường đào tạo nghề giấy
Cty giấy bãi bằng
.....
... ... ... .
( Cấu trúc tổ chức bộ máy của Tổng công ty)
Ta thấy rằng cơ cấu tổ chức của tổng công ty là một cơ cấu đáp ứng được đòi hỏi về kỹ thuật và công nghệ, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, trao đổi thông tin giữa các bộ phận được đáp ứng, nó khai thác được tối đa nguồn nhân lực, nhìn chung thì mô hình hoạt động và bộ máy Tổng công ty phần nào đã được kiện toàn và phù hợp với Điều lệ. Tuy nhiên vẫn gây ra sự lẫn lộn về quyền lực giữa các bộ phận, đánh giá mức độ quản trị của các bộ phận gặp nhiều khó khăn, vẫn còn tình trạng hình thức quản lý đi sau, chức năng tổ chức bị suy giảm đi.
Các đơn vị thành viên của Tổng công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân, tài khoản tại ngân hàng và con dấu riêng, có điều lệ hoạt động theo quy định của Nhà nước và của Tổng công ty.
Tổng công ty Giấy Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước dưới sự quản lý của Trung ương với nhiệm vụ tổ chức sản xuất kinh doanh Giấy, ngoài ra công ty còn thực hiện công tác quản lý các đơn vị trực thuộc. Do đó cơ cấu của Tổng công ty bao gồm :
Hội đồng quản trị, ban kiểm soát .
Tổng giám đốc và bộ máy làm việc.
Các đơn vị thành viên .
Bộ máy của Tổng công ty do Tổng giám đốc quyết định và phê duyệt theo điều lệ hoạt động của Tổng công ty. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Tổng công ty bao gồm các phòng theo sơ đồ sau.
2.1.2..2 Nhiệm vụ các phòng ban của Tổng công ty.
Văn phòng : thay mặt Tổng giám đốc giao dịch với các cơ quan hưũ quan, tham mưu truyền đạt những quy định của Tổng giám đốc về lĩnh vực hành chính, tổ chức in ấn lưu trữ tài liệu của Tổng công ty. Bố trí lịch làm việc của Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc và các phòng . Xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của các đơn vị phụ thuộc Tổng công ty, quy chế lao động, quy chế tiền lương, kỷ luật, đơn giá tiền lương, đơn giá và định mức lao động, lĩnh vực hành chính pháp chế và trong lĩnh vực đối ngoại.
Phòng cố vấn: có nhiệm vụ tư vấn cho Tổng giám đốc về các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh và trong quản lý của Tổng công ty. Đây là trung tâm giao dịch của Hiệp hội Giấy Việt Nam ( cả Trung Ương và địa phương ), là nơi tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát giúp Tổng giám đốc lo công tác an toàn lao động.
Phòng kế hoạch kinh doanh : có nhiệm vụ khảo sát tìm hiểu thị trường giúp Tổng giám đốc ra các quyết định chính xác, phù hợp trong sản xuất kinh doanh. Đôn đốc các đơn vị thành viên của Tổng công ty thực hiện các nhiệm vụ đã vạch ra, kết nối giữa các bạn hàng, các nhà cung cấp lớn cho các đơn vị thành viên. Phòng kế hoạch kinh doanh có vai trò lớn trong việc giúp Tổng giám đốc xây dựng chiến lược phát triển kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, dài hạn, kế hoạch giá thành, điều phối tác nghiệp sản xuất kinh doanh xây dựng chiến lược thị trường để cân đối nhu cầu giấy cho xã hội. Thực hiện việc bình ổn giá các sản phẩm giấy in, giấy viết, giấy in báo theo quy định của Nhà nước.
Phòng dự án : có trách nhiệm tìm hiểu ngành giấy trên quy mô toàn cầu, nắm bắt các thông tin mới về khoa học kỹ thuật trong ngành giấy để định hướng phát triển ngành, phối hợp với các đơn vị thành viên trong Tổng công ty triển khai các đề tài khoa học, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật trong ngành, giúp Tổng giám đốc đưa ra các giải pháp kinh tế kỹ thuật, thực hiện chức năng quản lý cấp trên về kỹ thuật theo quy định của Nhà nước ban hành.
Phòng xuất nhập khẩu : có nhiệm vụ khảo sát thị trường trong nước và nước ngoài về mặt hàng xuất nhập khẩu, đàm phán ký kết các hợp đồng kinh tế về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, máy móc với các đơn vị trong nước và nước ngoài. Giúp Tổng giám đốc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nhằm ổn định sản xuất và phát triển của ngành giấy, cân đối nhu cầu tiêu dùng trong nước, tham gia từng bước vào thị trường ngoài nước để tiến đến hoà nhập với ngành giấy trong khu vực .
Phòng tài chính kế toán : có nhiệm vụ tập trung quản lý cân đối vốn và nguốn vốn, tổ chức quản lý tài chính và hạch toán như một doanh nghiệp độc lập, giải quyết mọi vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh do Tổng công ty tiến hành. Kiểm tra và tổng hợp công tác tài chính của tất cả các đơn vị thành viên, chịu trách nhiệm lập báo cáo tài chính của toàn Tổng công ty gửi lên Bộ chủ quản.
Phòng quản lý kỹ thuật: chịu trách nhiệm tổ chức kiểm tra, kiểm soát và nghiên cứu các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm, từ đó đưa ra các chính sách, các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm của mình và còn phải quản lý nhân viên của đơn vị.
Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty giấy Việt Nam
Tổng công ty Giấy Việt Nam được thành lập và hoạt động với chức năng thực hiện sản xuất và kinh doanh: nhập khẩu bột giấy, tiếp nhận vật tư hoá chất,thiết bị phụ tùng để phân phối cho các đơn vị thành viên. Là trung gian tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa, thị trường thế giới và hợp đồng uỷ thác các loại vật tư, nguyên liệu cho các công ty thành viên và các thành viên trong Hiệp hội Giấy Việt Nam. Dưới sự chỉ đạo của hội đồng quản trị, ban tổng giám đốc, các chủ trương nhằm tạo “ cú huých ” và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như Tân Mai, Đồng Nai, Bình An, Viễn Đông, Việt Trì, Vạn Điểm, Hoà Bình... đã được thực hiện nghiêm túc. Trong những năm qua đã không xảy ra tình trạng thiếu nguyên liệu, hoá chất, không bị thất thoát, hư hỏng một tấn nguyên liệu nhập khẩu nào, mặc dù không phải không có những trục trặc trong thủ tục giao dịch, khó khăn trong giao nhận. Có thể nói, Tổng công ty đã hoành thành khá xuất sắc ý đồ, mục đích thành lập của mình.
Trong giai đoạn 1998- 2001, những kết quả đạt được trong sản xuất kinh doanh của toàn tổng công ty đã có những tín hiệu khả quan. Dưới đây là một số chỉ tiêu tổng quát mà Tổng công ty đã đạt được trong giai đoạn 1998- 2001.
Bảng 1: Các chỉ tiêu tổng hợp giai đoạn 1998-2001.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
200._.hải lập Hội đồng đánh giá thực trạng về mặt kỹ thuật, thẩm định giá trịị tài sản để xử lý một cách dứt điểm thu hồi vốn phục vụ mục đích kinh doanh có hiệu quả hơn. Phải lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp để vừa đảm bảo thu hồi vốn nhanh bảo toàn được vốn, vừa đỡ gây ra những biến động lớn trong giá thành và giá bán sản phẩm.
* Thường xuyên đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:
Việc làm này là hết sức quan trọng, có thường xuyên đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Tổng công ty mới có những giải pháp kịp thời và có hiệu quả để giải quyết các khó khăn cũng như các biện pháp phát huy các mặt tích cực trong việc sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. Tổng công ty nên tránh việc đánh giá mang tính hình thức như hiện nay. Có nhiều biện pháp để nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ, nhưng có thể kể ra những biện pháp chính là: Tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, giảm thời gian tác nghiệp, hợp lý hoá giây chuyền công nghệ, đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt về chế độ duy trì, bảo dưỡng máy móc, áp dụng các chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm vật chất đối với người quản lý và sử dụng TSCĐ...
3.4.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của công ty nên việc sử dụng vốn lưu động đạt hiệu quả cao hay thấp sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh.
* Kế hoạch hoá công tác sử dụng vốn lưu động: Để chủ động trong việc quản lý VLĐ, trước mỗi năm doanh nghiệp lập kế hoạch phải căn cứ vào những tiêu chí có cơ sở khoa học như kế hoạch sản xuất kinh doanh, định mức hao phí vật tư, giá cả, lao vụ, trình độ và năng lực quản lý... để lập kế hoạch cho VLĐ một cách vững chắc và tiết kiệm. Trước hết công ty cần xác định nhu cầu vốn tối thiểu cần
thiết sao cho quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục song vẫn thực hiện chế độ tiết kiệm một cách hợp lý. Nếu vốn được xác định quá thấp sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất, ngược lại dự đoán vốn dư thừa lại gây tác hại do vốn bị ứ đọng, có thể phát sinh nhiều chi phí không hợp lý.
Sau khi đã xác định nhu cầu vốn, Tổng công ty phải xây dựng kế hoạch huy động vốn, trọng tâm là việc lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn. Trong rất nhiều nguồn như vay ngân hàng, liên doanh liên kết, doanh nghiệp tự bổ sung... công ty phải lựa chọn nguồn phù hợp dựa trên quan điểm hiệu quả kinh tế và tình hình kinh doanhthực tế tại thời điểm nghiên cứu. Nếu đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động các nguồn tài trợ nội bộ như lợi nhuận giữ lại, các quỹ phát triển , phần còn lại sẽ huy động từ bên ngoài. Nếu phát sinh nhu cầu bổ sung vốn thì cần sử dụng linh hoạt các nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời của các quỹ trích lập theo mục đích nhưng chưa sử dụng.
* Tăng cường quản lý hàng tồn kho.
Hàng tồn kho của Tổng công ty hàng năm rất lớn, trên dưới 800 tỷ đồng, chiếm 50%-57% giá trị tài sản lưu động. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, trước mắt Tổng công ty phải giải phóng nhanh lượng hàng tồn kho này bằng cách điều chỉnh hàng hoá cũng như nguyên vật liệu ứ đọng ở các công ty thành viên này sang các công ty thành viên khác thiếu hàng hoá và nguyên vật liệu sản xuất kinh doanh ( điều hoà vốn), tạm ngừng việc nhập và dự trữ các nguyên vật liệu còn dư thừa, tiến hành bán thành phẩm với giá thấp hơn giá hiện tại trên thị trường nhưng phải bảo đảm hoà vốn để giải phóng hàng hoá, thành phẩm tồn kho, thu hồi vốn nhằm tái đầu tư và sản xuất.
Về lâu dài để không lập lại tình trạng dự trữ quá lớn như giai đoạn vừa qua Tổng công ty nên áp dụng mô hình quản lí dự trữ EOQ ( Economic Oprdering Quantity). Mô hình này được giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau cho nên Tổng công ty nên áp dụng cho hàng tháng hoặc hàng quý khi mà nhu cầu về sản xuất ít có biến động. Cụ thể mô hình này như sau:
Chi phí lưu kho bao gồm chi phí hoạt động (chi phí bốc xếp hàng hoá, chi
phí bảo hiểm hàng hoá, chi phí do hao hụt mất mát...) và chi phí tài chính
( chi phí sử dụng vốn như trả lãi, chi phí về thuế, khấu hao ...).Nếu gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ trung bình sẽ là Q/2.
Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của Tổng công ty là: C1* Q/2.
- Chi phí đặt hàng: chi phí đặt hàng này bao gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần thường ổn định, không phụ thuộc vào lượng hàng hoá được mua.
- Gọi D là lượng hàng hoá cần sử dụng trong một tháng hoặc một quí của Tổng công ty thì số lượng hàng cung ứng sẽ là: C2* D/Q.
- Gọi TF là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá ta sẽ có:
TF = C1*Q/2 + C2*D/Q.
Khi đó để tổng chi phí tồn trữ hàng hoá thấp nhất thì Q* sẽ là:
2DC2
Q* = C1
Điều cốt yếu ở đây là, Tổng công ty phải xác định được lượng hàng hoá D cần được sử dụng trong từng tháng hoặc từng quí. Tốt nhất, Tổng công ty nên dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh trong từng tháng, từng quý và năng lực sản xuất trong thời gian này để xác định lượng hàng D.
* Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu.
Các khoản phải thu tuy có tác dụng làm doanh thu bán hàng tăng lên, chi phí tồn kho giảm, tài sản cố định được sử dụng có hiệu quả song nó cũng làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quĩ. Tình trạng thực tế của Tổng công ty Giấy Việt Nam đó là khoản phải thu ngày càng một gia tăng và ở mức cao. Năm 2001, khoản phải thu lên tới 850 tỷ đồng, chiếm 41,36% tổng giá trị tài sản lưu động. Như vậy, vốn lưu động của Tổng công ty bị chiếm dụng khá lớn trong khi đó Tổng công ty đang bị thiếu vốn để đầu tư ( hàng năm phải trả khoảng 60 tỷ đồng tiền lãi vay). Chính vì vậy, quản lý chặt chẽ khoản phải thu để Tổng công ty vừa gia tăng được doanh thu, tận dụng tối đa năng lực sản xuất hiện có vừa bảo đảm tính hiệu quả là điều hết sức quan trọng. Biện pháp để giảm thiểu khoản phải thu tốt nhất là:
Không chấp nhận bán chịu với mọi giá để giải phóng hàng tồn kho mà trước khi quyết định bán chịu hay không Tổng công ty nên phân tích khả năng tín dụng của khách hàng và đánh giá khoản tín dụng được đề nghị. Đánh giá khả năng tín dụng của khách hàng nhằm xác định liệu khoản tín dụng này sẽ được khách hàng thanh toán đúng thời hạn hay không. Để làm được việc này, Tổng công ty phải xây dựng được một hệ thống các tiêu chuẩn tín dụng như: phẩm chất, tư cách tín dụng; năng lực trả nợ; vốn của khách hàng; tài sản thế chấp; điều kiện kinh tế của khách hàng. Tiếp đến Tổng công ty phải phân tích đánh giá cái được,
cái mất của khoản tín dụng đó. Tổng công ty chỉ cung cấp khoản tín dụng thương mại cho khách hàng khi có khả năng thu hồi nợ, cái được lớn hơn cái mất (về tài chính, mối quan hệ) khi cấp tín dụng cho khách hàng (bán chịu).
Ngoài ra, Tổng công ty phải theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu bằng cách: xắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn; theo dõi kỳ thu tiền bình quân khi thấy kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh thu không tăng có nghĩa là Tổng công ty đang bị ứ đọng ở khâu thanh toán cần phải có biện pháp kịp thời để giải quyết. Như năm 2000 kỳ thu tiền bình quân là 124 ngày, tăng 14 ngày so với năm 1999 nhưng doanh thu chỉ tăng 15 tỷ đồng, như vậy Tổng công ty đã bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Năm 2001 chỉ tiêu này có khả quan hơn, kỳ thu tiền bình quân là 125 ngày, tăng 1 ngày so với năm 2000 nhưng doanh thu tăng 226 tỷ đồng. Các nhà quản lý có thể dùng biện pháp bán nợ trên thị trường mua bán nợ nhằm thu hồi vốn, quản lý chặt chẽ các khoản bán chịu nhằm giảm lượng khoản phải thu.
* Tiết kiệm chi phí bán hàng và chi phí quản lý:
Chi phí bán hàng và quản lý hàng năm của Tổng công ty chiếm khoảng 9% tổng chi phí, trong khi đó lợi nhuận lại quá thấp chỉ bằng 2%-3% tổng chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Biện pháp cụ thể là, điều chỉnh lại qui trình bán hàng, giảm thiểu số nhân viên quản lý ở các phòng ban sao cho vừa đảm bảo được hiệu quả quản lý vừa tăng doanh thu. Do đó, để nâng cao lợi nhuận Tổng công ty phải kịp thời điều chỉnh hướng tới chi phí quản lý nhỏ nhất có thể được, có các giải pháp huy động vốn khác để giảm thiểu các chi phí lãi vay ngắn hạn ngân hàng.
Phải thường xuyên đánh giá, tiến hành phân tích tình hình sử dụng VLĐ thông qua các chỉ tiêu để điều chỉnh kịp thời các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nhằm tăng mức doanh lợi.
3.4.3 Các giải pháp khác:
Các giải pháp về thị trường:
Tăng cường công tác nghiên cứu và dự báo thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu của thị trường, tổ chức mạng lưới tiêu thụ có hiệu quả. Đây là biện pháp tốt
nhất để tăng số lượng và doanh số bán hàng trong cả hiện tại và tương lai, tạo điều kiện cho việc định hướng đầu tư trong những năm tiếp theo.
Đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao về giấy in, giấy viết, giấy in báo cho thị trường trong nước. Hiện tại, nước ta mỗi năm vẫn thiếu khoảng 200000 tấn giấy, chủ yếu là giấy bao bì công nghiệp chất lượng cao và một số giấy đặc biệt. Cho nên, Tổng công ty nên đầu tư để đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất các loại giấy bao bì chất lượng cao và giấy đặc biệt cung cấp cho thị trường vẫn bị bỏ ngỏ này.
Các giải pháp về đầu tư:
Đầu tư dứt điểm các công trình đang xây dựng dở dang cũng như các công trình đầu tư chiều sâu, mở rộng đã được duyệt nhằm huy động nhanh chóng mọi năng lực sản xuất vào quá trình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Đặc biệt, chú ý dứt điểm các công trình đầu tư nâng cao năng lực sản xuất bột giấy, như: xử lý giấy vụn, bột CTMP ở Công ty giấy Bãi Bằng, Nhà máy bột giấy Kom Tum nhằm phấn đấu đến năm 2005 có thể cơ bản tự cân đối được bột giấy sản xuất trong nước.
Đi đôi với đầu tư công nghiệp, Tổng công ty phải tiến hành qui hoạch ổn định các vùng trồng cây nguyên liệu, như: vùng nguyên liệu trung tâm Bắc Bộ, Thanh Hoá, Kom Tum, các tỉnh Lâm Đồng, miền Đông Nam Bộ, nhằm nâng cao khả năng cung cấp nguyên liệu tập trung cho nhu cầu sản xuất bột giấy và giấy cho Tổng công ty Giấy Việt Nam nói riêng và toàn ngành giấy Việt Nam nói chung.
Giải pháp về tài chính:
Khó khăn nhất của Tổng công ty Giấy Việt Nam hiện nay là thiếu vốn, thiếu vốn để tập trung đầu tư vào việc đổi mới TSCĐ, thiếu vốn đầu tư vào các quá trình sản xuất kinh doanh. Chính vì lẽ đó, tạo và thu hút nguồn vốn là nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện để chủ động nguồn vốn, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư. Dựa trên tình hình thực tế, Tổng công ty có thể giải quyết vấn đề này bằng một số biện pháp sau:
Một là, tạo nguồn vốn tập trung: Tổng công ty cần nắm bắt và quản lý chặt chẽ các quĩ đầu tư phát triển, quĩ đầu tư xây dựng cơ bản và nguồn vốn kháu hao ở các đơn vị thành viên. Nên chăng, Tổng công ty trực tiếp nắm giữ 50% các quĩ này, còn lại 50% để các đơn vị thành viên quản lý để chủ động đầu tư các tài sản có giá trị nhỏ(đối với các công ty hạch toán độc lập). Tổng công ty phải đủ
quyền lực huy động các quĩ này khi thấy cần thiết tập trung nguồn vốn để đầu tư.
Hai là, tiếp tục cổ phần hoá, thu hút cổ đông: cổ phần hoá sẽ giúp Tổng công ty gia tăng được nguồn vốn chủ sở hữu, số tiền thu được từ việc bán cổ phiếu có thể được dùng đầu tư vào các dự án quan trọng. Hơn nữa, nếu khuyến khích người lao động trong công ty đó mua cổ phần thì sẽ thúc đẩy được người lao động làm việc tốt hơn từ đó năng suất lao động được nâng lên, hiệu quả quản lý cũng như hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh sẽ được nâng lên rõ rệt. Để thực hiện biện pháp này, Tổng công ty nên lập kế hoạch cổ phần hoá cho một số công ty thành viên, phân loại các công ty cần cổ phần hoá và các công ty không tiến hành cổ phần hoá để có kế hoạch cụ thể. Để tránh tình trạng thất thoát tài sản vốn của Tổng công ty khi cổ phần hoá, Tổng công ty phải thực hiện tốt khâu kiểm kê và định giá giá trị tài sản. Trước tiên Tổng công ty có thể cổ phàn hoá các công ty như: nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, công ty giấy Bình An. Ngoài ra, Tổng công ty nên nắm 51% cổ phần để không làm tuột tay quyền kiểm soát doanh nghiệp.
Ba là, phát hành trái phiếu: phát hành trái phiếu sẽ đảm bảo cho Tổng công ty một nguồn vốn lớn, ổn định và dài hạn. Tổng công ty nên phát hành trái phiếu công trình, có nghĩa là Tổng công ty phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư cho một công trình cụ thể. Chẳng hạn như, Tổng công ty có thể phát hành trái phiếu nhà máy giấy Kom Tum để huy động vốn cho dự án xây dựng nhà máy giấy Kom Tum. Tuy nhiên, việc thu hút vốn bằng hình thức phát hành trái phiếu chỉ nên thực hiện trong một chừng mực nhất định vì đây là một hình thức vay nợ, nếu vay quá lớn thì chi phí vốn sẽ tăng cao ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả sử dụng vốn.
Bốn là, thành lập các công ty liên doanh với các công ty trong và ngoài nước: thực hiện biện pháp này Tổng công ty sẽ khắc phục được khó khăn về vốn khi đầu tư vào các dự án lớn mà Tổng công ty không đủ tiềm lực tài chính để đầu tư nhưng lại quan trọng cần phải đầu tư. Ngoài ra, nếu liên doanh với các công ty khác đặc biệt là với các công ty nước ngoài Tổng công ty sẽ có cơ hội học hỏi các kinh nghiệm và phương pháp quản lý mới để áp dụng cho Tổng công ty góp phần nâng cao hiệu quả quản lý cũng như hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
Bốn biện pháp trên đây đều có những mặt tích cức và tiêu cực, cho nên Tổng
công ty phải xác định nguồn vốn phù hợp với từng dự án cũng như tiến độ đầu tư cụ thể để huy động vốn có hiệu qủa, vốn sẽ được đầu tư một cách có hiệu quả hơn.
Các giải pháp về tổ chức và đào tạo.
Về tổ chức, trước hết, Tổng công ty thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp để cân đối hài hoà về đầu tư phát triển theo xu hướng chung tiến tới thành lập tập đoàn kinh tế mạnh đủ sức cạnh tranh trong khu vực. Tiếp đến là tổ chức, bố trí lại lao động cho phù hợp, sắp xếp, bố trí công việc cho phù hợp với khả năng của từng cán bộ cũng như từng người lao động để họ phát huy được tiềm năng sáng tạo của mình góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh.
Về đào tạo: tiến hành tiêu chuẩn hoá các vị trí chức danh công tác, thực hiện chương trình đào tạo nâng cao và bổ xung cán bộ cho các công trình mới, tiến hành đào tạo và đào tạo lại cho đội ngũ những người lao động để nâng cao tay nghề góp phần làm tăng năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm, giúp họ có thể thích nghi nhanh chóng với các công nghệ và máy móc mới tiên tiến vừa mới được huy động vào sản xuất.
Các giải pháp về nghiên cứu phát triển.
Nghiên cứu phát triển về nguyên liệu, về công nghệ sản xuất là hết sức quan trọng. Các kết quả của nghiên cứu phát triển góp phần không nhỏ vào việc tiết kiệm chi phí sản xuất cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm.
Về nguyên liệu: mở rộng phạm vi sử dụng nguyên liệu đa dạng, xác định thêm các giống, loài cây cung cấp xơ, sợi cho sản xuất giấy đạt hiệu quả, có năng suất cao là cơ sở cho việc phát triển và ổn định ngành kinh doanh trồng cây nguyên liệu.
Về công nghệ: xây dựng các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm, chú ý các xí nghiệp nhỏ, đang khó khăn về giải quyết chất lượng sản phẩm cũng như môi trường, nghiên cứu áp dụng công nghệ mới, đặc biệt các dự án đầu tư mới theo xu thế chung.
Kế hoạch hoá việc sử dụng vốn:
Trong những năm qua, Tổng công ty chưa thực sự làm tốt công tác kế hoạch hoá việc sử dụng vốn. Chính vì vậy, nó gây ra sự bất hợp lý trong đầu tư giữa tài sản cố định với tài sản lưu động, giữa sản xuất giấy với sản xuất bột giấy. Do đó, để tránh tình trạng này, Tổng công ty phải kế hoạch hoá việc sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của mình. Giải pháp này sẽ giúp cho vòng quay vốn lưu động cũng như vòng quay vốn cố định dược gia tăng. Để thực hiện tốt công tác kế hoạch hoá việc sử dụng vốn, trước tiên, Tổng công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường, lập kế hoạch sản xuất, xác định nhu cầu vốn cụ thể cho từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh từ đó sử dụng vốn sản xuất kinh doanh một cách tiết kiện và hiệu quả.
3.5 Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn
3.5.1 Đối với Nhà nước:
Một là, tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ như hiện nay đến năm 2003 khi Việt Nam thực hiện quy định của AFTA. Hiện tại sức cạnh tranh của ngành giấy nước ta vẫn còn kém. Do vậy, chính sách bảo hộ hiện tại vẫn là cần thiết để Tổng công ty có đủ thời gian huy động nguồn lực để đầu tư vào các dây chuyền máy móc, các công nghệ hiện đại nâng khả năng cạnh tranh lên một bước.
Hai là, giảm thiểu các thủ tục hành chính trong việc xét duyệt các dự án đầu tư vì các thủ tục hành chính rườm rà, thời gian cấp phép lâu sẽ làm mất cơ hội kinh doanh của Tổng công ty. Trước mắt, Nhà nước phải dứt điểm các thủ tục đầu tư đã được trình như gói thầu III, Bãi Bằng giai đoạn I, dự án Kom Tum, dự án tiền khả thi Nhà máy bột và giấy Thanh Hoá do các dự án này rất quan trọng đối với sự phát triển của Tổng công ty Giấy Việt Nam nói riêng cũng như ngành Giấy Việt Nam nói chung.
Ba là, đưa các công trình như nhà máy bột giấy Kom Tum (tổng số vốn 3421,6 tỷ đồng), nhà máy bột và giấy Thanh Hoá (1413,5 tỷ đồng) vào các công trình trọng điểm để cân đối đủ vốn đầu tư theo tiến độ vì vốn đầu tư lớn Tổng công ty không đủ tiềm lực tài chính để thực hiện.
Bốn là, đối với trồng rừng: về đất đai, trồng rừng nguyên liệu phải là một nghề kinh doanh nên cần tập trung. Nhưng hiện tại đất trồng rừng nguyên liệu hết sức hiếm hoi, không tập trung, độ dốc cao, hơn 10% là đất hoang hoá, bạc mầu lại ở vùng sâu xa. Do vậy, Nhà nước cần quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và ưu đãi lãi suất vay bằng 50% đầu tư công nghiệp.
Về vốn, do đầu tư trồng rừng có đặc điểm riêng nên không thể coi như dự án đầu tư công nghiệp. Đề nghị Nhà nước:vốn cho vay theo kế hoạch được duyệt hàng năm được trả một lần cả gốc và lãi (lãi đơn) khi khai thác; cho vay 100% vốn theo nhu cầu, ứng trước 20%-30% vốn theo thông báo đã chuẩn bị đất, cây trồng đúng thời vụ; không thực hiện đấu thầu như các công trình đầu tư khác vì đất có chủ. Mặt khác đề nghị cơ quan cấp trên cũng như nhà Nước tạo điều kiện giúp đỡ Tổng công ty tìm kiếm đầu tư từ bên ngoài để tăng nguồn vốn, tăng sức mạnh của Tổng công ty.
Năm là, Nhà nước tiếp tục bảo lãnh cho Tổng công ty vay vốn ngân hàng, hỗ trợ lãi suất đối với các công trình đầu tư quan trọng, tiếp tục điều chỉnh giá giấy cho phù hợp với xu thế tăng giá bột giấy để giảm thiệt hại cho Tổng công ty.
Trên đây là một số các giải pháp cũng như kiến nghị đối với Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Tổng công ty trong giai đoạn tới. Không một biện pháp nào quan trọng hơn biện pháp nào, mà Tổng công ty cần phải thực hiện một cách đồng bộ và triệt để cùng với sự giúp đỡ có hiệu quả từ phía Nhà nước thì mới mong đạt kết quả tốt.
3.5.2 Về phía Tổng công ty
Với những giải pháp nhằm đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đã nêu thì về phía Tổng công ty cũng phải có sự hoàn thiện về tổ chức và con người để tạo điều kiện cho việc thực hiện các giải pháp trên.
Đối với công tác tổ chức bộ máy quản lý cần có các thay đổi thích hợp đồng bộ với các chính sách và phù hợp với các định hướng, mục tiêu chung của Tổng công ty đề ra. Luôn tìm cách giảm các chi phí thuộc về hệ thống quản lý bằng cách xây dựng cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả, đúng chức năng, phân định trách nhiệm chuyên môn rõ ràng.
Đối với công tác đãi ngộ nhân viên, có thể nói quản trị suy cho cùng là quản trị con người, mọi người đều có các nhu cầu riêng của họ vì vậy họ đến làm việc
trong Tổng công ty để nhằm có thể đáp ứng nhu cầu đó của bản thân khi mọi người cố gắng thực hiện mục tiêu chung của Tổng công ty cũng chính là khi họ
thực hiện mục tiêu của bản thân họ nhờ sức mạnh đoàn kết của tất cả mọi người
trong Tổng công ty. Để kích thích nhiều người lao động thì bản thân Tổng công ty cũng phải có các chính sách đãi ngộ thích đáng, cho dù thế nào cũng phải đảm bảo được quyền lợi cho họ tạo cho họ một sự yên tâm, thoải mái và lạc quan, hăng say lao động. Chỉ khi nào, tâm trạng con người thoải mái lạc quan thì khi đó năng suất lao động mới cao, chất lượng sản phẩm cũng vì thế mà tốt hơn lên.
Về chiến lược lâu dài, cần chú trọng hơn nữa đến công tác đào tạo lao động, kỹ sư cho ngành giấy. Trong thời gian tới dự báo tình hình kinh tế đât nước sẽ có nhiều thay đổi, khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng thay thế rất nhiều cho lao động thủ công của con người. Để theo kịp những tiến bộ này cần thiết phải có đội ngũ kỹ sư thiết bị ngành giấy, vấn đề này trong những năm gần đây cũng đã được đưa ra bàn nhiều, đó còn là những đòi hỏi to lớn cấp bách của đất nước đối với ngành giấy làm chúng ta đau đầu, trăn trở. Thực tế cho thấy hầu hết các kỹ sư thiết bị trong ngành giấy đều có nhiều kinh nghiệm và kiến thức thiếu toàn diện. Những người xuất thân từ cơ khí chế tạo thì thiếu hiểu biết về máy hoá và máy giấy, ngược lại những người xuất thân từ máy hoá thì thiếu kiến thức về chế tạo máy...Vì vậy khi một sự cố thiết bị xảy ra đòi hỏi nhũng kỹ sư thiết bị phải phân tích, tìm ra nguyên nhân và quyết định biện pháp sửa chữa rất vất vả và thiếu tự tin trước tình hình này, đòi hỏi phải có một mô hình đào tạo kỹ sư thiết bị cho ngành giấy để cho ra đời những kỹ sư có kiến thức về các quá trình công nghệ thiết bị của các dây chuyền phụ trợ hiện có ở nhà máy bột và giấy. Có kiến thức cơ bản về lắp đặt thiết bị ngành giấy, có kiến thức vè tổ chức quản lý bảo dưỡng thiết bị ngành giấy. Có khả năng thực thi các tác nghiệp ngành giấy, có thể đưa ra được các biện pháp sửa chữa hỏng hóc thông thường. Để có được mô hình đào tạo này thì cũng phải đưa ra được nhiều nội dung chủ yếu trương trình đào tạo. Đây là một biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung mà đặc biệt là vốn cố định mang tính chất chiến lược của Tổng công ty Giấy Việt Nam. Biện pháp này cũng đã được thực hiện bằng sự ra đời của trường đào tạo ngành giấy đặt cạnh công ty giấy Bãi Bằng song quy mô chưa lớn, chất lượng chưa cao. Cần phải phát huy hơn nữa để không phải chỉ sau năm nữa mà sau 5 năm chúng ta vẫn được chào đón những đứa con của ngành thiết bị giấy Việt Nam.
Điều quan trọng nữa là khi Việt Nam tham gia vào AFTA thì sự bảo trợ của nhà nước đối với Tổng công ty cũng không còn nữa. Vì vậy, ngay từ bây giờ Tổng
công ty nên tập dần với các tình huống như là không có sự bảo trợ của nhà nước nữa để quen dần và các ứng xử kịp thời với những biến động như khi thử áp dụng luật thuế GTGT trong thời gian vừa qua. Điều này cũng có nghĩa là Tổng công ty Giấy Việt Nam phải thoát ra được căn bệnh của các doanh nghiệp nhà nước , không quan tâm đến việc mở rộng và phát triển nguồn vốn sở hữu, ỉ lại vào sự bảo hộ của ngân sách nhà nước để làm cho vốn của đơn vị bị ứ động ở nhiều nơi, nhưng không gây ảnh hưởng xấu rất lớn đến công tác quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết luận
Mọi sự phát triển đều có cơ sở của nó, một sự phát trển vững chắc thì trước tiên cũng phải dựa trên một cơ sở vững chắc. Vốn đóng vai trò là cơ sở, là phương tiện, là động lực, là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, duy trì sự tồn tại của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi chính sách bảo hộ của nhà nước không còn tiếp tục thực hiện thì việc quản lý và sử dụng vốn càng trở thành vấn đề quan tâm của những người làm công tác quản trị. Song công tác quản lý vốn sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là vấn đề quyết định sự thành công hay thất bại của mọi chiến lược sản xuất kinh doanh trong đơn vị.
Trên thực tế, những khó khăn chủ yếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là vốn và sử dụng hiệu quả vốn nhất là đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng mang tính chất xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là yêu cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Bài viết trên đã nêu lên những nét khái quát nhất về tình hình sử dụng vốn tại Tổng công ty Giấy Việt Nam và đưa ra một số giải pháp cũng như kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn. Hy vọng, trong thời gian tới, Tổng công ty Giấy Việt Nam sẽ đạt được những thành công mới trong sản xuất kinh doanh để vững bước trong thế kỷ 21 đầy cơ hội và thách thức, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Qua chuyên đề này em xin chân thành cảm ơn sự chỉ dẫn tận tình của thầy giáo TS - Nguyễn Hữu Tài và các thầy cô giáo trong khoa tài chính doanh nghiệp cùng các cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty giấu Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình thực tập.
danh mục tài liệu tham khảo
Tài chính doanh nghiệp.
Chủ biên TS Lưu Thị Hương, nhà xuất bản giáo dục 1998.
Quản trị tài chính doanh nghiệp Chủ biên TS Vũ Duy Hào- Đàm Văn Huệ, Nhà xuất bản thống kê 1998
Lập, đọc, kiểm tra và phân tích báo cáo tài chính.
Chủ biên TS Nguyễn Văn Công
Nhà xuất bản tài chính - 1998
Tài chính doanh nghiệp sản xuất
GS TS Trương Mộc Lâm - Nhà xuất bản tài chính 1997
Bảo toàn và phát triển vốn
Chủ biên Nguyễn Công Nghiệp - Nhà xuất bản thống kê 1992
Tạp chí tài chính năm 2000 và 2001
mục lục
lời nói đầu
chương 1: một số nhận thức về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.1 Lý luận chung về vốn trong các doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm vốn trong các doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm chung
1.1.1.2 Đặc điểm vốn
1.1.2 Phân loại vốn của doanh nghiệp
1.1.2.1 Vốn cố định
a, Khái niệm
b, đặc điểm vốn cố định
1.1.2.2 Vốn lưu động
a, Khái niệm
b, Đặc điểm vốn lưu động
1.1.2.3 Vốn đầu tư tài chính
a, Khái niệm
b, Các hình thức hoạt động đầu tư tài chính
1.1.3 Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
1.2.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn
chương 2: thực trạng sử dụng vốn tại tổng công ty giấy việt nam
2.1 Khái quát tình hình hoạt động của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty giấy Việt Nam
2.2.1 Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.1.2.1 Chức năng hoạt động của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.1.2.2 Nhiệm các phòng ban của Tổng cong ty gấy Việt Nam
2.1.3 Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.2 Thực trạng hiệu quả sử ụng vốn của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.2.1 Tình hình vốn của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.2.2 Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
2.2.3 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
2.2.4 Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra đối với công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty giấy Việt Nam
2.3.1Kết quả đạt được
Những vấn đề còn tồn tại trong công tác sử dụng vốn
Chương 3 : Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy Việt nam
3.1Định hướng hoạt động của Tổng công ty giấy Việt Nam
3.2 Những thuận lợi, khó khăn của Tổng công ty giấyViệt Nam
3.2.1 Những thuận lợi
3.2.2 Những khó khăn
3.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy Việt Nam
3.4 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Tổng công ty giấy Việt Nam
3.4.1 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
3.4.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động
3.4.3 Các giải pháp khác
3.5 Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
3.5.1 Đối với nhà nước
3.5.2 Về phía công ty
Kết luận
Bảng 8: Hiệu quả sử dụng VLĐ tại Tổng công ty Giấy Việt Nam
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
So sánh 99/98
so sánh 00/99
So sánh 01/00
±
%
±
%
±
%
Doanh thu
2270
2247
2262
2488
-23
99
15
100,7
226
110
Lợi nhuận
53
30
52
57
-23
56,6
22
173,3
5
109,6
Vốn LĐ bình quân
1185
1420
1694
1922
235
119,8
274
119,3
228
113,5
HTK bình quân
690
754
848
1076
64
109,3
94
112,5
228
126,9
Hệ số đảm nhiệm của VLĐ
0,522
0,632
0,7489
0,77
0,11
121,1
0,1169
118,5
0,0211
102,8
Số vòng lưu chuyển VLĐ
1,9156
1,5824
1,3353
1,29
-0,3332
82,6
-0,2471
84,4
-0.0453
99,96
Mức doanh lợi của VLĐ
0,0447
0,0211
0,0307
0,0296
-0,0236
47,2
0,0096
145,5
-1,04
99,96
Số ngày một vòng lưu chuyển VLĐ
188
228
270
279
40
121,3
42
118,4
65
124,1
Vòng quay HTK
3,2899
2,9801
2,6675
1,686
-0,3089
90,6
-0,3126
89,5
-0,9815
0,83
Số ngày một vòng quay HTK
109
121
135
213
22
111
14
111,6
78
0,5777
Nguồn: Phòng tài chính –Kế toán
Báo cáo tài chính năm 1998,1999,2000, 2001
Bảng 9: Hiệu quả sử dụng VCĐ tại Tổng công ty Giấy Việt Nam
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
So sánh 99/98
so sánh 00/99
so sánh 01-00
±
%
±
%
±
%
Doanh thu
2270
2247
2262
2488
-23
99
15
100,7
226
110
Lợi nhuận
53
30
52
57
-23
56,6
22
173,3
5
109,6
Vốn CĐ bình quân
714
729
750
1194
15
102,1
21
104
444
100,6
Mức doanh lợi VCĐ
0,0742
0,0412
0,0693
0,048
-0,033
55,5
0,0281
168,2
-0,022
99,7
Hiệu suất sử dụng VCĐ
3,1793
3,0823
3,016
2,0838
-0,097
96,9
-0,0663
97,8
-0,932
99,7
Hàm lượng VCĐ
0,3145
0,3244
0,3316
0,4799
0,01
103,1
0,0072
102,3
0,1483
100,45
Nguồn: Phòng tài chính – kế toán
Báo cáo tài chính năm 1998,1999,2000,2001
Bảng 11: Các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2001-2005
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Giá trị TSL
tỷ đồng
1647
2105
2562
2608
2791
Doanh thu
tỷ đồng
2322
2967
3612
3677
3935
Tổng vốn đầu tư TH
tỷ đồng
1640
4400
Sản lượng sản phẩm chủ yếu
- Giấy các loại
1000 tấn
182,2
232,2
282,2
287,2
307,2
+ Giấy in, viết
1000 tấn
110
140
170
170
170
+ Giấy in báo
1000 tấn
35
35
40
40
40
Tổng số lao động
Người
13000
14000
14500
15000
16400
Thu nhập bình quân
1000Đ/người
1200
1260
1350
1400
1600
Tỏng nộp NS
Tỷ đồng
116
128
129
141
145
Nguồn: Phòng tài chính –kế toán
Kế hoach phát triển giai đoạn 2001-2005
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0166.doc