Lời mở đầu
Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ ngày nay, nền kinh tế thế giới đang chuyển mình từng bước đi lên mạnh mẽ. Sự biến chuyển của nền kinh tế gắn liền với sự thay đổi mạnh mẽ của từng quốc gia trong từng khu vực trên thế giới. Song cùng với sự thay đổi đó, bước vào những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã phát triển mạnh. Nền kinh tế Việt Nam có sự biến chuyển mạnh mẽ, bước chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập tru
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Tìm hiểu giai đoạn kết thúc kiểm toán tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC thực hiện (92tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế mở đặt ra nhiều yêu cầu mới. Trước sự đòi hỏi của nền kinh tế, hoạt động kiểm toán đã được công nhận ở Việt Nam với sự ra đời của các tổ chức độc lập về kế toán kiểm toán nhằm giúp cá nhân, tổ chức nắm rõ kiến thức, tăng cường hiểu biết về tài chính, kế toán trong bối cảnh mới. Sự ra đời của các công ty kiểm toán độc lập quốc tế và nội địa ở Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán và tư vấn cho những người quan tâm đến các số liệu tài chính ở Việt Nam. Kiểm toán đã trở thành một hoạt động chuyên sâu, một khoa học chuyên ngành. Theo ier - Khan - Sere: Kiểm toán có ý nghĩa lớn trên nhiều mặt: đó là “Quan toà công minh của quá khứ”, là “Người dẫn dắt cho hiện tại” và “ Người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
AASC là một trong những tổ chức đầu tiên và lớn nhất của Việt Nam hoạt động độc lập trong lĩnh vực dịch vụ về kế toán kiểm toán và tư vấn tài chính. Sự am hiểu sâu sắc và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế là cơ sở để công ty phục vụ với chất lượng tốt nhất bất kỳ dịch vụ chuyên ngành nào mà khách hàng yêu cầu.
Với đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp được đào tạo có quy mô, AASC đã cung cấp dịch vụ cho lực lượng khách hàng đông đảo hoạt động trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và thuộc nhiều thành phần kinh tế.
Trong hơn một thập kỉ vừa qua, AASC đã nhanh chóng khẳng định vị trí của mình trên thị trường trong hoạt động kiểm toán đầy mới mẻ. AASC đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ, khai thác và mở rộng thị trường, và đặc biệt AASC được đánh giá cao với việc xây dựng và áp dụng một chương trình kiểm toán chặt chẽ, hợp lí và hiệu quả.
Trong giai đoạn kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đưa ra ý kiến của mình trên báo cáo kiểm toán, hoặc biên bản kiểm toán và có thể tư vấn thông qua thư quản lí. Đây là kết quả được thể hiện bằng văn bản của một cuộc kiểm toán. Giai đoạn kết thúc kiểm toán là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán, nó đúc kết nên sản phẩm cuối cùng là kết luận kiểm toán. Chính vì vậy giai đoạn kết thúc kiểm toán có ý nghĩa quyết định trong cuộc kiểm toán. Nhận thức rõ tầm quan trọng của giai đoạn kết thúc kiểm toán và qua thời gian thực tập tại công ty AASC, được sự hướng dẫn tận tình của giảng viên - Tiến Sĩ Chu Thành, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với đề tài “Tìm hiểu giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC thực hiện”.
Nội dung của chuyên đề bao gồm ba phần chính:
Phần I: Tổng quan về giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Phần II: Thực trạng công tác tổ chức giai đoạn kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC thực hiện .
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Phần I
Tổng quan về giai đoạn kết thúc kiểm toán
trong kiểm toán báo cáo tài chính
I. Khái quát chung về kiểm toán tài chính.
1. Khái niệm về kiểm toán tài chính.
1.1. Khái niệm kiểm toán.
Cũng như kế toán, kiểm toán được xem xét như một hoạt động kiểm tra kiểm soát trong quản lí và chỉ xuất hiện khi chủ thể quản lí đòi hỏi vượt quá khả năng của kế toán và được phát triển thành ngành khoa học thực thụ.
Thuật ngữ “Kiểm toán” mới thực sự xuất hiện và công nhận ở Việt Nam từ năm 1991. Trong qúa trình sử dụng chúng ta vẫn chưa thống nhất về khái niệm kiểm toán. Nhìn chung kiểm toán được nhìn nhận dưới ba quan điểm.
Quan điểm truyền thống về kiểm toán: kiểm toán đồng nghĩa với kiểm tra kế toán, là một chức năng của kế toán; nghĩa là rà soát thông tin từ chứng từ kế toán đến tổng hợp cân đối kế toán.
Quan điểm kiểm toán theo thời điểm phát sinh: kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính do kiểm toán viên độc lập thực hiện theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định nào có liên quan.
Quan điểm hiện đại về kiểm toán: trong quá trình phát triển, kiểm toán không chỉ giới hạn ở kiểm toán báo cáo tài chính mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau, vì vậy theo quan điểm này, phạm vi kiểm toán bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau: Kiểm toán qui tắc, kiểm toán hiệu quả, kiểm toán thông tin, kiểm toán hiệu năng.
Qua ba quan điểm cụ thể trên về kiểm toán, nội dung của các quan niệm không hoàn toàn đối lập nhau mà phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và lí luận của kiểm toán. Và cả ba quan điểm đó đều hướng tới bản chất chung của kiểm toán: kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lí đang có hiệu lực.
1.2. Kiểm toán tài chính trong hệ thống kiểm toán.
Kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng đầy đủ “Sắc thái kiểm toán” ngay từ khi ra đời cũng như trong quá trình phát triển.
Khái niệm kiểm toán tài chính: kiểm toán bảng khai tài chính là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính của các thực thể kinh tế do những người có trình độ nghiệp vụ tương xứng đảm nhiệm và dựa trên hệ thống pháp lí đang có hiệu lực.
Theo thông lệ quốc tế, các doanh nghiệp thường phải công bố bảng cân đối kế toán, bảng kết quả hoạt động kinh doanh và bảng lưu chuyển tiền tệ cùng thuyết minh báo cáo tài chính. Thông thường đây là đối tượng quan tâm trực tiếp của các tổ chức, cá nhân; do đó báo cáo tài chính là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của kiểm toán. Đối với đối tượng kiểm toán là các bảng khai tài chính này có nhiều người quan tâm trên nhiều góc độ khác nhau, đồng thời có nhiều chủ thể đa dạng do đó kiểm toán tài chính cần có hệ thống chuẩn mực thống nhất làm cơ sở cho việc thực hiện kiểm toán; đây là đặc trưng nổi bật của kiểm toán tài chính. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán là những qui phạm pháp lí, là thước đo chung về chất lượng công việc kiểm toán, dùng để điều tiết hành vi của kiểm toán viên theo hướng và mục tiêu xác định. Chuẩn mực kiểm toán chưa thể là thước đo đúng sai của báo cáo tài chính, vì vậy cơ sở pháp lí để tiến hành các cuộc kiểm toán tài chính lại là các chuẩn mực kế toán. Kiểm toán viên phải xác minh toàn bộ báo cáo tài chính đã lập so với những chuẩn mực chung của kế toán được chấp nhận để kết luận về tính trung thực của thông tin trong các bảng khai cùng tính pháp lí của biểu mẫu chứa đựng các thông tin đó. Kết luận về việc xác minh báo cáo tài chính được trình bày trên báo cáo kiểm toán, đồng thời với kết luận về độ tin cậy của thông tin, chủ thể kiểm toán còn đưa ra những phán quyết hoặc tư vấn thông qua thư quản lí.
2. Khái quát về đặc điểm và mục tiêu của kiểm toán tài chính.
2.1. Đặc điểm của kiểm toán tài chính.
Đối tượng: kiểm toán tài chính có đối tượng là các bảng khai tài chính. Bộ phận quan trọng của những bảng khai này là báo cáo tài chính. Bảng khai tài chính bao gồm hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành phản ánh các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu của đơn vị, ngoài ra còn bao gồm những bảng kê khai có tính pháp lí- là những bảng tổng hợp.
Chủ thể kiểm toán: thông thường chủ thể kiểm toán tài chính là các kiểm toán viên độc lập hoặc kiểm toán viên nhà nước.
Khách thể kiểm toán: là thực thể kinh tế độc lập, là doanh nghiệp, cơ quan hoặc tổ chức có bảng khai cần xác minh, cá nhân có tài khoản, bảng khai cần xác minh.
Mục đích: thu thập báo cáo cho những kết luận kiểm toán phục vụ công khai hoá tài chính.
Chức năng: xác minh tính trung thực hợp lí, hợp pháp của bảng khai tài chính và bày tỏ ý kiến của mình.
Cơ sở pháp lí: những chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực kế toán (GAAP).
Phương pháp: kiểm toán tài chính sử dụng tổng hợp các phương pháp kiểm toán cơ bản bao gồm cả kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
Tổ chức công tác kiểm toán: gồm ba giai đoạn: chuẩn bị, thực hiện và kết thúc kiểm toán.
Trình tự tiến hành: trình tự kiểm toán tài chính ngược với trình tự kế toán.
Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể kiểm toán: mang tính ngoại kiểm là chủ yếu.
2.2. Mục tiêu của kiểm toán tài chính.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200: “ mục tiêu của kiểm toán tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, có tuân thủ pháp luật liên quan có phản ánh trung thực và hợp lí tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu hay không”.[11,16]
Theo thông lệ quốc tế chức năng xác minh được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán thông qua chức năng xác minh, đơn vị được kiểm toán sẽ xác định được những tồn tại, những sai phạm từ đó khắc phục những tồn tại và sai phạm đó nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính và hiệu quả kinh doanh.
Mục tiêu tổng quát: mục tiêu tổng quát của kiểm toán tài chính bao gồm: tính trung thực, tính hợp lí và tính hợp pháp.
Mục tiêu kiểm toán chung và mục tiêu kiểm toán đặc thù.
Mục tiêu kiểm toán chung: chức năng xác minh thường được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán, mục tiêu kiểm toán chung bao gồm :
+ Mục tiêu hợp lí chung.
+ Các mục tiêu chung khác: bao gồm mục tiêu về tính hiệu lực, mục tiêu về tình trọn vẹn, mục tiêu quyền và nghĩa vụ, mục tiêu định giá, mục tiêu về trình bày, mục tieu chính xác số học.
Mục tiêu kiểm toán đặc thù: là mục tiêu gắn với từng khoản mục nghiệp vụ hay từng phần hành cụ thể.
3. Đặc điểm chung về trình tự kiểm toán tài chính.
3.1. Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Khái quát về giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Giai đoạn lập kế hoạch là cơ sở tiến hành các giai đoạn sau, vì vậy giai đoạn lập kế hoạch được coi là giai đoạn chuẩn bị. Giai đoạn này được bắt đầu việc gửi thư chào hàng, lập hợp đồng kiểm toán, xây dựng kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán cho từng phần hành đồng thời chuẩn bị các điều kiện về vật chất và nhân sự phục vụ cuộc kiểm toán.
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán bao gồm các công việc: Lập kế hoạch kiểm toán, lập kế hoạch chi tiết, thiết kế các chương trình kiểm toán.
Lập kế hoạch chiến lược.
Kế hoạch chiến lược: là kế hoạch do các kiểm toán viên cao cấp lập, là định hướng cơ bản cho một cuộc kiểm toán dựa trên hiẻu biết của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về tình hình hoạt động của khách hàng và trọng tâm của cuộc kiểm toán.
Lập kế hoạch tổng thể.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300: “kế hoạch kiểm toán tổng thể phải được lập cho mọi cuộc kiểm toán, trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công viẹc kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải đầy đủ chi tiết làm cơ sở để lập chương trình kiểm toán”. [21,50]
Việc lập kế hoạch tổng thể bao gồm các bước cơ bản sau:
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán.
Thu thập thông tin cơ sở.
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.
Thực hiện thủ tục phân tích.
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro.
Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát.
Thiết kế chương trình kiểm toán.
Chương trình kiểm toán là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các kiểm toán viên cũng như dự kiến về tư liệu, về thông tin liên quan cần sử dụng và thu thập.
Trình tự: chương trình kiểm toán của hầu hết các cuộc kiểm toán được thiết kế thành ba phần: thiết kế các trắc nghiệm công việc, thiết kế các trắc nghiệm phân tích, thiết kế các trắc nghiệm trực tiếp số dư.
3.2. Giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán.
Khái quát giai đoạn thực hiện kế hoạch kiểm toán.
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích hợp tương ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đây là giai đoạn kiểm toán viên triển khai thực hiện các công việc đã hoạch định trong kế hoạch kiểm toán và chương trình kiểm toán.
Thực hiện thủ tục kiểm soát.
Thủ tục kiểm soát được triển khai nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Thủ tục này chỉ được thực hiện sau khi tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ với đánh giá ban đầu là hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán hoạt động có hiệu lực.
Thực hiện thủ tục phân tích.
Qui trình phân tích và việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỉ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng biến động và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá tị đã dự kiến.
Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết.
Kiểm tra chi tiết là việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật cụ thể của trắc nghiệm tin cậy thuộc trắc nghiệm công việc và trắc nghiệm trực tiếp số dư để kiểm toán từng khoản mục hoặc nghiệp vụ tạo nên số dư trên khoản mục hay nghiệp vụ.
Đặc điểm thực hiện các thủ tục kiểm toán các loại nghiệp vụ liên quan đến báo cáo tài chính.
Các nghiệp vụ liên quan đến báo cáo tài chính thường được qui về ba loại:
Các nghiệp vụ thường xuyên: kiểm toán viên thường sử dụng trắc nghiệm đạt yêu cầu kết hợp với trắc nghiệm độ vững chãi.
Các nghiệp vụ không thường xuyên: kiểm toán viên thường sử dụng chủ yếu trắc nghiệm độ tin cậy.
Các ước tính kế toán: kiểm toán viên kết hợp trắc nghiệm đạt yêu cầu kết hợp trắc nghiệm độ tin cậy.
3.3. Giai đoạn kết thúc kiểm toán.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên phải hoàn tất công việc kiểm toán theo hợp đồng bao gồm: lập báo cáo kiểm toán, hoàn chỉnh hồ sơ kiểm toán, giải quyết các sự kiện phát sinh sau ngày lập báo cáo kiểm toán. Đối với kiểm toán tài chính, để có thể đưa ra kết luận kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán thì kiểm toán viên phải tiến hành nhiều công việc cụ thể tronh giai đoạn kết thúc kiểm toán.
Kết luận kiểm toán là sự khái quát kết quả thực hiện các chức năng kiểm toán trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Vì vậy kết luận kiểm toán phải đảm bảo yêu cầu cả về nội dung cũng như tính pháp lý.
ii. Nội dung của giai đoạn kết thúc kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
1. ý nghĩa của giai đoạn kết thúc kiểm toán.
1.1. vị trí, chức năng của giai đoạn kết thúc kiểm toán.
Vị trí: Giai đọan kết thúc kiểm toán là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán. Trong khâu cuối cùng của giai đoạn kiểm toán báo cáo tài chính là công việc lập báo cáo kiểm toán, đưa ra kết luận kiểm toán. Đây là kết quả tổng kết công việc thực hiện của kiểm toán viên trong suốt quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Sản phẩm cuối cùng của quá trình này là báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán. Nội dung và hình thức cụ thể của kết luận hay báo cáo kiểm toán rất đa dạng tuỳ theo mục tiêu, phạm vi, loại hình kiểm toán. Tuy nhiên về mặt khoa học cũng cần khái quát các yêu cầu và nội dung cơ bản của kết luận và báo cáo hoặc biên bản kiểm toán. Báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính thực chất là một bản thông báo về kết quả cuộc kiểm toán về báo cáo tài chính cho người sử dụng báo cáo tài chính.
Giai đoạn kết thúc kiểm toán được tổng kết qua báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính, chuyển đến cho người đọc bản báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính những đánh giá của kiểm toán viên về sự phù hợp của những thông tin định lượng của báo cáo tài chính cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập báo cáo tài chính này.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, sau khi xem xét đánh giá các kết luận rút ra từ các giai đoạn trước của quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải hình thành các kết luận toàn diện về các khía cạnh:
+ Các báo cáo tài chính lập ra có phù hợp với các thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực kế toán không.
+ Các thông tin tài chính có phù hợp với các qui định hiện hành và với các yêu cầu của pháp luật không.
+ Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp có nhất quán với các hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động kinh doanh của khách hàng hay không.
+ Các thông tin tài chính có biểu hiện thoả đáng mọi vấn đề trọng yếu, có đảm bảo trung thực và hợp lí hay không.
1.2. Nội dung các bước thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán.
Chuẩn bị hoàn thành kiểm toán: Sau khi hoàn thành công việc kiểm toán theo từng phần hành, từng chu trình, kiểm toán viên chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán nhưng trước đó cần tổng hợp các kết quả thu thập được và thực hiện một số thử nghiệm bổ sung có tính chất tổng quát.
+ Xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến.
+ Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
+ Xem xét về giả định hoạt dộng liên tục.
+ Đánh giá tổng quát kết quả.
Lập báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán.
Công việc sau khi tổng hợp kết quả thu thập được và thực hiện một số thử nghiệm bổ sung thì kiểm toán viên phải đưa ra kết luận kiểm toán. Hình thức của kết luận kiểm toán có thể là báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán. Báo cáo kiểm toán được trình bày đầy đủ, trung thực khách quan các nội dung đã kiểm toán, các trường hợp cần số liệu minh chứng, giải trình phải đính kèm phụ lục.
2. Nội dung của công việc chuẩn bị hoàn thành kiểm toán.
2.1. Xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến.
2.1.1. Khái niệm.
Trong thực tế có những sự kiện đã phát sinh trong năm và có thể dẫn đến một khoản công nợ hay thiệt hại mà cho đến thời điểm khoá sổ vẫn chưa thể xác định là có chắc chắn xảy ra hay không và số tiền cụ thể là bao nhiêu. Nợ ngoài dự kiến là những khoản nợ tiềm ẩn trong tương lai về một số tiền chưa xác định cụ thể là bao nhiêu phát sinh từ hoạt động đã xảy ra. Để một khoản nợ ngoài dự kiến tồn tại phải qui tụ đủ các yếu tố sau:
+ Phải có một khoản thanh toán tiềm ẩn trong tương lai mà là kết quả của một điều kiện hiện có.
+ Số tiền của khoản thanh toán trong tương lai này có sự không chắc chắn.
+ Khoản nợ ngoài ý muốn này sẽ được giải quyết bằng những sự kiện trong tương lai.
Thông thường các sự kiện này gồm có:
Các vụ kiện chưa xét xử do vi phạm quyền sở hữu công nghiệp hoặc trách nhiệm pháp lí đối với sản phẩm.
Các tranh chấp về thuế đối với cơ quan thuế vụ.
Các bảo lãnh về công nợ của người khác.
Đối với những khoản công nợ ngoài dự kiến này, kiểm toán viên phải xem xét đánh giá nội dung, số tiền và ảnh hưởng của từng khoản mục thông qua các thủ tục kiểm toán thích hợp. Thông qua đó kiểm toán viên phải đánh giá tính trọng yếu của các khoản mục đến báo cáo tài chính của khách hàng, rút ra nhận xét kiến nghị, đề xuất biện pháp điều chỉnh hoặc sự thể hiện trong báo cáo tài chính đã được xác nhận.
2.1.2. Các thủ tục kiểm toán các khoản công nợ ngoài dự kiến.
Các thủ tục kiểm toán thích hợp để khoả sát các khoản nợ ngoài dự kiến thường không được xác định rõ ràng như đối với các lĩnh vực kiểm toán khác trong giai đoạn thực hiện kiểm toán bởi mục tiêu của các khảo sát này là xác định sự hiện diện của các khoản công nợ ngoài ý muốn. Một số thủ tục kiểm toán thích hợp thường được sử dụng đối với các khoản công nợ ngoài ý muốn:
Trao đổi với các nhà quản lí về khả năng phát sinh các khoản công nợ ngoài dự kiến chưa được công bố, kiểm toán viên cần yêu cầu nhà quản lí cung cấp thư giải trình xác nhận đã công bố đầy đủ các khoản công nợ ngoài dự kiến.
Xem xét các biện pháp mà nhà quản lí đơn vị áp dụng nhằm đảm bảo mọi khoản công nợ xảy ra sau ngày kết thúc niên đọ kế toán đã được xác định.
Kiểm tra toàn bộ các khoản công nợ ngoài dự kiến tại thời điểm lập báo cáo tài chính.
Phỏng vấn luật sư hay tư vấn pháp lí của đơn vị.
Xem xét các biên bản họp hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc.
Sau khi thực hiện một số thủ tục kiểm toán cần thiết, kiểm toán viên cần đánh giá tầm quan trọng của các khoản công nợ ngoài dự kiến này và nội dung cần thiết khai báo trên báo cáo tài chính.
2.2. Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
2.2.1. Khái niệm.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560: “Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính là những sự kiện có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính đã phát sinh trong khoảng thời gian từ sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính để kiểm toán đến ngày kí báo cáo kiểm toán, và những sự kiện phát sinh sau ngày kí báo cáo kiểm toán”.[06,30]
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 “Kiểm toán viên phải xem xét ảnh hưởng của những sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính đối với báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán”.[02,30]
2.2.2. Các loại sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
Sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo tài chính đòi hỏi phải điều chỉnh báo cáo tài chính.
Khái niệm: là những sự kiện hay nghiệp cung cấp bằng chứng bổ sung về những sự việc xảy ra trước ngày kết thúc niên độ và ảnh hưởng trọng yếu đến các khoản mục trên bảng khai tài chính.
Các loại sự kiện này bao gồm:
+ Các kết quả của các khoản công nợ ngoài dự kiến được đánh giá là trọng yếu.
+ Những tài sản cố định không sử dụng được nhượng bán sau ngày khoá sổ kế toán với giá thấp hơn nguyên giá ghi trên sổ.
+ Các khách hàng có số dư lớn nhưng đầu năm sau mới phát hiện là không có khả năng thanh toán.
Sự kiện không ảnh hưởng trực tiếp nhưng cần công bố trên báo cáo tài chính.
Các sự kiện này chỉ thực sự phát sinh sau ngày kết thúc niên độ nên không phải điều chỉnh lại số liệu trên báo cáo tài chính. Nhưng do tầm quan trọng của thông tin nên cần công bố trong thuyết minh báo cáo tài chính.
Ví dụ các sự kiện:
+ Hoả hoạn, lũ lụt xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
+ Những sự kiện xảy ra bất ngờ cho khách nợ.
+ Sự sụt giảm giá trị đột ngột của cổ phiếu.
2.2.3. Các thủ tục kiểm toán.
Các sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán lập báo cáo tài chính liên quan đến trách nhiệm của kiểm toán viên được chia ra làm ba giai đoạn sau:
Các sự kiện phát sinh tính đến ngày kí báo cáo kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560: “kiểm toán viên phải xây dựng và thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để xác định tất cả những sự kiện đã phát sinh đến ngày kí báo cáo kiểm toán xét thấy có thể ảnh hưởng đến báo cáo tài chính và phải điều chỉnh hoặc thuyết minh trên báo cáo tài chính”.[10,31]
Trước khi kí báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên cần tiến hành các biện pháp dự kiến để chứng minh mọi sự kiện xảy ra cho đến ngày kí báo cáo kiểm toán có thể phải điều chỉnh hoặc đã được điều chỉnh đã được thể hiện trong báo cáo tài chính đã được phê duyệt. Những thủ tục này nhằm bổ sung thêm cho các thủ tục đặc biệt có thể áp dụng cho các nghiệp vụ phát sinh sau ngày lập bảng tổng kết tài sản để thu thập các bằng chứng về số dư tài khoảnvào ngày khoá sổ. Tuy nhiên kiểm toán viên không bắt buộc phải xem xét tất cả vấn đề mà những thủ tục kiểm toán trong năm đã đưa ra kết luận thoả đáng. Các biện pháp nhằm xác nhận các sự kiện xảy ra gần thời điểm lập báo cáo kiểm toán bao gồm:
Đọc biên bản đại hội cổ đông, biên bản họp ban giám đốc, các biên bản kiểm toán, biên bản họp hội đồng quản trị sau ngày khoá sổ kế toán, kể cả những vấn đề đã được thảo luận trong các cuộc họp này nhưng chưa được ghi nhận trong biên bản.
Đọc các bản báo cáo tài chính định kì gần nhất của doanh nghiệp và kế hoạch tài chính cũng như các báo cáo quản lí khác của giám đốc như các báo cáo về ngân sách, dự đoán lưu chuyển tiền tệ và các báo cáo quản lí liên quan khác rồi tiến hành so sánh.
Yêu cầu đơn vị hoặc luật sư đơn vị cung cấp thêm thông tin về các vấn đề tranh chấp trước đó, về các vụ kiện tụng hoặc tranh chấp khác.
Xem xét lại các thủ tục do đơn vị qui định áp dụng nhằm kiểm định rằng các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán đã được xác định.
Trao đổi với giám đốc, nhà quản lí xem các sự kiện đã xảy ra sau ngày khoá sổ kế toán đã thể hiện trong báo cáo tài chính chưa. Những vấn đề có thể trao đổi:
+ Các khoản mục hiện có được xây dựng dựa trên cơ sở số liệu tạm tính, sơ bộ hay số chưa được xác nhận.
+ Những điều đã cam kết về các hợp đồng kinh tế, các khế ước tín dụng, hay bảo lãnh có được thực hiện kí hết không.
+ Doanh nghiệp có bán tài sản hay dự kiến bán tài sản hoặc một bộ phận nào đó của doanh nghiệp không.
+ Doanh nghiệp có phát hành thêm cổ phiếu hay trái phiếu mới không, có sự thoả thuận thay đổi về tổ chức như: giải thể, sáp nhập, chia tách hoặc có dự kiến làm như vậy được kí kết không.
+ Doanh nghiệp có bị tổn thất về tài sản do chưng dụng, phá huỷ, mất mát do hoả hoạn lũ lụt...hay không.
+ Có những rủi ro hay dự kiến có thể xảy ra.
+ Có những điều chỉnh kế toán bất thường đã thực hiện hay dự định điều chỉnh báo cáo sau ngày lập bảng tổng kết tài sản không.
+ Có hay không những sự kiện đã xảy ra hoặc có khả năng xảy ra làm chính sách kế toán đã và đang sử dụng để lập báo cáo tài chính không còn phù hợp.
+ Có biểu hiện gì vi phạm khái niệm “Doanh nghiệp hoạt động liên tục” không.
Nếu kiểm toán viên xem xét thấy có sự kiện xảy ra sau ngày lập bảng tổng kết tài sản tính đến ngày kí báo cáo kiểm toán có thể ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải xác định xem các sự kiện đó có được phản ánh đúng và chính xác trong báo cáo tài chính không và đề ra ý kiến nhận xét thích hợp trong báo cáo kiểm toán.
Các sự kiện phát sinh sau ngày kí biên bản kiểm toán nhưng trước ngày phát hành báo cáo tài chính.
Các nhà quản lí doanh nghiệp phải có trách nhiệm thông báo cho kiểm toán viên biết sự kiện đã xảy ra từ khi kí báo cáo kiểm toán cho đến lúc phát hành báo cáo kiểm toán hàng năm và những sự kiện có khả năng ảnh hưởng đến báo cáo tài chính. Kiểm toán viên không bắt buộc phải áp dụng các thủ tục hoặc phải xem xét những vấn đề có liên quan đến báo cáo tài chính xảy ra sau ngày kí báo cáo kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 “ Trường hợp kiểm toán viên biết được sự kiện có khả năng ảnh trọng yếu đến báo cáo tài chính phát sinh sau ngày kí báo cáo kiểm toán nhưng trước ngày công bố báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên phải cân nhắc xem có nên sửa lại báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán hay không và phải thảo luận vấn đề này với giám đốc đơn vị được kiểm toán để có những biện pháp phù hợp trong từng trường hợp cụ thể”.[15,33]
Khi kiểm toán viên được thông báo về các sự kiện này thì kiểm toán viên đánh giá đến khả năng doanh nghiệp có nên sửa lại báo cáo tài chính không và cần thảo luận với các nhà quản lí của doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp sửa chữa lại báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải thực hiện những biện pháp cần thiết phù hợp với tình hình thực tế để ghi lại trên báo cáo kiểm toán, đồng thời sẽ cung cấp cho đơn vị khách hàng một báo cáo kiểm toán mới. Báo cáo kiểm toán mới này phải được kí cùng ngày tháng hoặc sau ngày tháng kí báo cáo tài chính đã sửa đổi. Trường hợp này kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng về các sự đã phát sinh. Các thủ tục này được tiến hành tương tự như đối với các sự kiện phát sinh tại thời điểm khoá sổ kế toán. Trường hợp kiểm toán viên yêu cầu nhưng giám đốc đơn vị khách hàng không chấp nhận sửa đổi báo cáo tài chính trong khi đó kiểm toán viên nhận thấy báo cáo tài chính cần phải sửa đổi lại thì kiểm toán viên phải xem xét tuỳ thuộc nội dung báo cáo kiểm toán mà kiểm toán viên đã đưa cho khách hàng. Nếu kiểm toán viên chưa gửi báo cáo kiểm toán cho đơn vị khách hàng thì kiểm toán viên sẽ lập lại báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận. Trong trường hợp báo cáo kiểm toán đã gửi cho đơn vị khách hàng và kiểm toán viên mới phát hiện có sự kiện ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì kiểm toán viên yêu cầu những người có trách nhiệm cao nhất tại đơn vị khách hàng không công bố báo cáo kiểm toán cho bên thứ ba. Khi đơn vị khách hàng vẫn quyết định công bố báo cáo kiểm toán này thì kiểm toán viên phái áp những biện pháp thích hợp để ngăn chặn bên thứ ba sử dụng báo cáo kiểm toán của mình. Các biện pháp ngăn chặn được thực hiện tuỳ thuộc vào quyền hạn và nghĩa vụ pháp lí của kiểm toán viên cũng như những kiến nghị của luật sư của kiểm toán viên. Đối với biên bản kiểm toán được lập, các sự kiện phát sinh trước ngày kí biên bản nhưng sau ngày khoá kế toán cũng thực hiện các thủ tục kiểm toán tương tự như trên.
Các sự kiện được phát hiện sau ngày công bố báo cáo tài chính.
Sau ngày phát hành báo cáo tài chính chính thức, kiểm toán viên không có nghĩa vụ phải thẩm tra tiếp tục đối với các sự kiện, số liệu nào có liên quan đến báo cáo tài chính. Tuy nhiên nếu kiểm toán viên nhận thấy có những ảnh hưởng nghiêm trọng tới báo cáo tài chính đã được kiểm toán mà trước khi kí báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên chưa được biết thì kiểm toán viên phải cân nhắc về việc sửa chữa lại báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560: “Sau ngày công bố báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán nếu kiểm toán viên nhận thấy vẫn còn sự kiện xảy ra đến ngày kí báo cáo kiểm toán cần phải sửa đổi báo cáo kiểm toán, thì kiểm toán viên phải cân nhắc xem có nên sửa lại báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán hay không, phải thoả thuận vấn đề này với giám đốc đơn vị được kiểm toán và có những biện pháp thích hợp tuỳ theo từng trường hợp cụ thể”.[20,34]
Theo đó thì kiểm toán viên phải xem lại các bước công việc mà các nhà quản li doanh nghiệp đã làm để khẳng định xem liệu khoản mục đơn lẻ trong các báo cáo tài chính phát hành chính thức và báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính này có sai sót, thay đổi không. Kiểm toán viên sẽ thảo luận với ban giám đốc công ty khách hàng. Trường hợp ban giám đốc đơn vị khách hàng chấp nhận sửa đổi báo cáo tài chính thì kiểm toán viên phải thực hiện thủ tục, biện pháp xét thấy cần thiết và phù hợp để lập báo cáo kiểm toán trên cơ sở báo cáo tài chính đã được sửa đổi. Bản báo cáo kiểm toán mới lập sẽ nêu thêm vấn đề giải thích về báo cáo tài chính mới và giải thích về lí do xem lại báo cáo tài chính phát hành trước đó. Kiểm toán viên đảm bảo các vấn đề này phải được thông báo đến các bên nhận báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã công bố trên báo cáo kiểm toán mới. Trường hợp kiểm toán viên bị hạn chế trong việc kiểm tra xem xét._. lại các sự kiện tiếp theo thì cũng phải ghi những ảnh hưởng này vào báo cáo.
Trong trường hợp nếu ban giám đốc đơn vị khách hàng không thông báo các vấn đề xảy ra cho các bên nhận báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán và cũng không sửa đổi báo cáo tài chính theo yêu cầu của kiểm toán viên, của công ty kiểm toán thì công ty kiểm toán phải thông báo cho giám đốc đơn vị khách hàng biết về những biện pháp mà kiểm toán viên sẽ áp dụng để ngăn chặn bên thứ ba sử dụng báo cáo kiểm toán. Những biện pháp này của kiểm toán viên được thực hiện tuỳ thuộc vào hiệu lực, quyền hạn và nghĩa vụ pháp lí của kiểm toán viên cũng như khuyến cáo của tư vấn, luật sư của kiểm toán viên. Nếu trường hợp báo cáo tài chính của kì tới sắp phát hành, kiểm toán viên xét thấy không cần thiết phải sửa đổi báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán đã phát hành cho năm tài chính trước thì kiểm toán viên phải trình bày rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính của năm tài chính tiếp theo về các thông tin này.
Ngoài ra đối với trường hợp đơn vị khách hàng kiểm toán phát hành chứng khoán trên thị trường thì kiểm toán viên phải xem xét các qui định pháp lí liên quan đến việc phát hành chứng khoán.
2.3. Xem xét về giả định hoạt động liên tục.
2.3.1. Khái niệm hoạt động liên tục.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 570: “Một đơn vị được coi là hoạt động liên tục trong một tương lai gần có thể dự đoán được (ít nhất là một năm kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán) khi không có ý định hoặc yêu cầu phải giải thể, ngừng hoạt động hoặc thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động, tìm kiếm sự bảo hộ từ các chủ nợ theo pháp luật và các qui định pháp lí hiện hành”.[04,38]
Doanh nghiệp hoạt động liên tục là một trong những khái niệm cơ bản của kế toán quốc tế, đồng thời là khái niệm quan trọng trong lĩnh vực kiểm toán. Một doanh nghiệp được coi là hoạt động liên tục khi mà nó tiếp tục hoạt động cho một tương lai định trước. Trong khái niệm hoạt động liên tục kế toán giả thiết rằng doanh nghiệp sẽ hoạt động vô thời hạn, trừ khi có chứng cứ phủ nhận rõ ràng. Khái niệm doanh nghiệp hoạt động liên tục được thừa nhận để lập báo cáo tài chính. Theo khái niệm này tài sản và nợ phải trả được ghi nhận trên cơ sở là đơn vị có khả năng thực hiện giá trị các tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả trong điều kiện bình thường. Nếu doanh nghiệp bị phá sản thì báo cáo tài chính phải được lập theo một thể thức đặc biệt trong đó tài sản được ghi nhận theo giá trị thực hiện thuần tuý và các khoản công nợ cũng được tái phân loại.
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 7- 01 định nghĩa về khái niệm doanh nghiệp hoạt động: “Thông thường một doanh nghiệp được coi là đang hoạt động khi mà nó tiếp tục hoạt động cho một tương lai định trước. Người ta quan niệm rằng doanh nghiệp không có ý định và cũng không cần phải giải tán hoặc quá thu hẹp qui mô hoạt động của mình”. Chuẩn mực qui định ban giám đốc đơn vị được kiểm toán phải xem xét đánh giá cụ thể khả năng hoạt động liên tục của đơn vị và một số chuẩn mực kế toán khác qui định các vấn đề liên quan đến khả năng hoạt động liên tục cần xem xét và trình bày trên báo cáo tài chính. Trong quá trình đánh giá khả năng hoạt động liên tục, nếu ban giám đốc nhận biết được bất cứ sự không chắc chắn trọng yếu nào liên quan tới các sự kiện hoặc điều kiện có thể gây ra nghi ngờ đáng kể về khả năng tiếp tục hoạt động của đơn vị thì các vấn đề không chắc chắn này phải được trình bày trên báo cáo tài chính. Khi báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục thì đơn vị phải trình bày điều này và cơ sở áp dụng trong việc lập báo cáo tài chính cùng các lí do đơn vị không được đánh giá là có khả năng hoạt động liên tục. Khi đánh giá sự phù hợp của giả định liên tục, ban giám đốc phải xem xét tất cả các thông tin có sẵn cho tương lai gần có thể dự đoán được, ít nhất là 12 tháng kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán. Mức độ xem xét hoàn toán phụ thuộc vào các sự kiện thực tế trong từng trường hợp cụ thể.
2.3.2. ý nghĩa của khái niệm hoạt động liên tục.
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xem xét khả năng tiếp tục hoạt động của doanh nghiệp, khái niệm này có được thể hiện trong báo cáo tài chính không. Nếu kiểm toán viên nghi ngờ khả năng tiếp tục hoạt động thì phải tìm bằng chứng hoặc xoá bỏ nghi ngờ. Khi lập báo cáo kiểm toán chấp nhận toàn bộ, kiểm toán viên phải đảm bảo rằng doanh nghiệp tiếp tục hoạt động ít nhất là một năm kể từ khi kí duyệt báo cáo. Nếu khả năng tiếp tục hoạt động là không chắc chắn thì phải tính đến khả năng báo cáo kiểm toán chấp nhận từng phần hoặc cho rằng doanh nghiệp không có khả năng tiếp tục hoạt động thì phải lập báo cáo bất đồng.
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán xem xét các sự kiện và điều kiện liên quan đến giả định hoạt động liên tục trong suốt quá trình lập kế hoạch kiểm toán bởi vì công việc này giúp kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể thảo luận kịp thời với ban giám đốc đơn vi khách hàng để xem xét các giải pháp của ban giám đốc về các vấn đề liên quan đến khả năng hoạt động liên tục đã phát hiện. Thông qua đó có thể giảm nhẹ ảnh hưởng của các sự kiện liên quan đến khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Ví dụ, đơn vị không có khả năng thanh toán các khoản nợ phải trả khi đến hạn- đây là một biểu hiện ảnh hưởng đến khả năng hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng. Ban giám đốc có thể lập kế hoạch làm giảm nhẹ ảnh hưởng của sự kiện đó bằng cách duy trì luồng tiền đầy đủ nhờ vào áp dụng các phương pháp như thanh lí TSCĐ, điều chỉnh lại lịch thanh toán nợ, tìm kiếm thêm nguồn vốn mới...
2.3.3. Một số biểu hiện ảnh hưởng đến giả định hoạt động liên tục.
Khái niệm doanh nghiệp đang hoạt động liên tục bị vi phạm có thể xuất phát từ các báo cáo tài chính hoặc các nguồn khác. Dưới đây là điển hình của nhiều biểu hiện gây nghi ngờ về vi phạm giả định hoạt động liên tục.
Biểu hiện về tài chính:
Doanh nghiệp trong tình trạng tổng nợ phải trả hoặc tổng nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản lưu động.
Doanh nghiệp có khoản nợ dài hạn đến hạn trả mà không có khả năng chi trả hoặc không có hi vọng đảo nợ, không đủ khả năng thanh toán hoặc bị phụ thuộc quả nhiều vào khoản vay ngắn hạn đề tài trợ các tài sản dài hạn.
Các tỷ lệ tài chính chủ yếu bị đảo ngược.
Dấu hiệu về hỗ trợ tài chính của khách hàng và chủ nợ bị cắt bỏ.
Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh bị âm .
Lỗ kinh doanh thực tế lớn hoặc có sự suy giảm lớn về giá trị của các tài sản được dùng đề tạo ra luồng tiền.
Không có khả năng hoàn trả khoản tín dụng đến hạn.
Gặp khó khăn trong việc thực hiện các điều khoản của khế ước vay mượn.
Chuyển đổi từ các giao dịch mua chịu sang thanh toán ngay.
Không có khả năng đạt được các nguồn tài trợ cho việc phát triẻn sản xuất sản phẩm mới cần thiết hoặc khoản đầu tư cần thiết khác.
Biểu hiện về hoạt động.
Doanh nghiệp thiếu cán bộ chủ chốt mà không bổ sung được.
Doanh nghiệp thiếu thị trường chính, đặc quyền, giấy phép hoặc thiếu nhà cung cấp quan trọng.
Doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động hoặc thiếu nguồn cung cấp quan trọng.
Biểu hiện khác.
Doanh nghiệp không đủ vốn hoặc không thể thực hiện các yêu cầu của pháp luật.
Doanh nghiệp đang bị vướng vào các vụ kiện tụng tại toà án và nếu thua kiện phải gánh chịu khủng hoảng nghiêm trọng về tài chính.
Có những thay đổi về pháp luật hoặc chính sách của nhà nước làm ảnh hưởng bất lợi đến doanh nghiệp.
Các dấu hiệu khác.
Đây là một số biểu hiện điển hình, không bao gồm toàn bộ các biểu hiện vi phạm tính hoạt động liên tục của doanh nghiệp và cũng không có nghĩa là khi doanh nghiệp có một hoặc một vài biểu hiện đó thì đã bị coi là vi phạm khái niệm doanh nghiệp đang hoạt động liên tục.
2.3.4. Các thủ tục kiểm toán khi xác định sự kiện ảnh hưởng tới khả năng hoạt động liên tục.
Khi đánh giá kết quả công việc, kiểm toán viên cần đề phòng khả năng giả định hoạt động liên tục không được thực hiện. Khi khả năng này có thể xảy ra, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục cần thiết khác nhằm thu thập bằng chứng để xác nhận sự kiện hoặc đảm bảo rằng giả định này sẽ không bị vi phạm.
Các thủ tục kiểm toán có thể áp dụng:
Phân tích và thảo luận với ban giám đốc đơn vị được kiểm toán về dự báo luồng tiền, lợi nhuận và một số dự báo liên quan khác vào một ngày có hiệu lực gần sát ngày kí báo cáo kiểm toán.
Soát xét lại các sự kiện tài sản sau ngày lập bảng tổng kết tài sản nhất là các khoản mục có tác động đến khả năng tiếp tục tồn tại của doanh nghiệp.
Phân tích và thảo luận về báo cáo tài chính kì gần nhất của doanh nghiệp.
Soát xét các điều khoản của giấy nợ, khế ước vay vốn và xác định xem có điều khoản nào bị vi phạm không.
Đọc các biên bản đại hội cổ đông, biên bản họp ban giám đốc, hội đồng quản trị doanh nghiệp để thấy rõ khó khăn về tài chính của doanh nghiệp.
Xác nhận sự hiện diện, tính hợp pháp, tính hiệu lực của các cam kết, khế ước cho vay hoặc duy trì sự ủng hộ về tài chính của bên thứ ba và đánh giá tiềm lực tài chính của các bên này đề cung cấp quĩ bổ sung.
Trao đổi với luật sư của khách hàng về các tranh chấp, kiện tụng, các vấn đề pháp lí trọng yếu.
Xem xét kế hoạch của doanh nghiệp với việc giải quyết các đơn đặt hàng chưa thực hiện.
Thu thập thư giải trình của các nhà quản lí doanh nghiệp về các dự kiến cho các hoạt động sắp tới, rút ra các kết luận hợp lí để cải thiện tình hình.
2.3.5. Kết luận về giả định hoạt động liên tục.
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đưa ra những báo cáo kiểm toán thu thập được để đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng.
Khi đánh giá tính đầy đủ của việc trình bày thông tin trong báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần xem xét các thông tin đã trình bày rõ ràng chưa để lưu ý cho người sử dụng báo cáo tài chính khi xem xét khả năng đơn vị có thể không tiếp tục thực hiện được giá trị các tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả trong kì hoạt động bình thường. Trong một số ít trường hợp, khi có nhiều sự kiện không chắc chắn trọng yếu xảy ra gây ảnh lớn đến báo cáo tài chính, kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể xem xét đưa ra ý kiến từ chối sẽ thích hợp hơn việc đưa ra đoạn nhấn mạnh vấn đề. Trong trường hợp báo cáo kiểm toán đã khẳng định chắc chắn về sự vi phạm giả định hoạt động của doanh nghiệp thì báo cáo kiểm toán phải bao gồm tham chiếu cụ thể về thực tế tồn tại yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể gây ra nghi ngờ đáng kể về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp.
Trường hợp giả định về khả năng hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng là không phù hợp. Trên cơ sở tiến hành thủ tục kiểm toán bổ sung và những thông tin thu thập được bao gồm ảnh hưởng của các kế hoạch của ban giám đốc, kiểm toán viên và công ty kiểm toán vẫn phải kết luận là giả định hoạt động liên tục đã sử dụng trong việc lập báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng là không phù hợp và đưa ra ý kiến trái ngược. Khi ban giám đốc đơn vị khách hàng đã kết luận giả định hoạt động liên tục sử dụng khi lập và trình bày báo cáo tài chính là không phù hợp thì báo cáo tài chính cần phải lập lại trên cơ sở mới có căn cứ. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác định cơ sở thay thế là phù hợp sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhấn mạnh về căn cứ thay thế.
Trưòng hợp ban giám đốc dơn vị khách hàng không thực hiện hoặc không mở rộng đánh giá về khả năng hoạt động liên tục thì kiểm toán viên cũng không có trách nhiệm biện hộ cho việc thiếu sự phân tích của ban giám đốc và kiểm toán viên đưa ra ý kiến trong báo cáo kiểm toán là hạn chế không thể thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp liên quan đến việc sử dụng giả định hoạt động liên tục trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Tuy nhiên một số trường hợp khi thiếu sự phân tích của ban giám đốc đơn vị khách hàng, kiểm toán viên vẫn có thể đưa ra ý kiến chấp nhận về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp khi các thủ tục kiểm toán khác có thể đủ để đánh giá sự hợp lí của việc sử dụng giả định hoạt động liên tục của ban giám đốc khi lập báo cáo tài chính.
2.4. Đánh giá kết quả.
2.4.1. áp các dụng thủ tục phân tích.
Để đánh giá tính đồng bộ và xác thực của các thông tin tài chính thu thập được kiểm toán viên phải áp dụng các thủ tục phân tích một cách thích hợp. Thủ tục phân tích được áp dụng trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán từ giai đoạn lập kế hoạch cho tới giai đoạn kết thúc kiểm toán. Trước, trong và sau mỗi giai đoạn kiểm toán, thủ tục phân tích được áp dụng nhằm giúp kiểm toán viên đánh giá đúng đắn những thông tin thu thập được.
Sau khi thu thập những thông tin về các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán, những khoản công nợ ngoài dự kiến và những thông tin về giả định hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng thì kiểm toán viên áp dụng các thủ tục phân tích để đánh giá tính xác thực của các thông tin tài chính thu thập được. Và đồng thời các thủ tục phân tích giúp kiểm toán viên đánh giá tính hợp lí, tính đồng bộ của các thông tin tài chính đó.
2.4.2. Đánh giá bằng chứng kiểm toán.
Đánh giá về sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán.
Sau khi thu thập được các bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên phải đánh giá về sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán đã đủ để chứng minh về các thông tin trên báo cáo tài chính hay chưa. Khi kiểm toán viên bị giới hạn trong việc thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thì kiểm toán viên phải tiến hành các thủ tục kiểm toán thay thế để thu thập đày đủ bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho kết luận của mình về báo cáo tài chính được kiểm toán.
Đánh giá sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán.
Bằng chứng kiểm toán thu thập được không chỉ được đánh giá về mặt số lượng mà quan trọng là về tính hợp lí của bằng chứng kiểm toán. Các bằng chứng kiểm toán thu thập được phải có độ tin cậy cao. Sức thuyết phục của bằng chứng kiểm toán phụ thuộc vào nguồn gốc, thể loại và sự kết hợp của các bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng kiểm toán thu thập được phải đầy đủ và thích hợp để làm cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét của mình về báo cáo tài chính. Nếu kiểm toán viên kết luận là bằng chứng chưa đầy đủ và thích hợp để đưa ra kết luận về tính trung thực và hợp lí của các thông tin trên báo cáo tài chính của khách hàng thì kiểm toán viên phải tiếp tục thu thập thêm các bằng chứng hoặc đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến không chấp nhận.
2.2.3. Tổng hợp các sai sót phát hiện được.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên phải tổng hợp đánh giá các sai sót phát hiện được trong quá trình kiểm toán. Đối với những sai sót trọng yếu kiểm toán viên lập các bút toán điều chỉnh ngay trong quá trình kiểm toán các khoản mục có sai sót đó. Ngoài các sai sót trọng yếu còn có một số lượng lớn các sai sót tuy không trọng yếu nhưng cần thiết phải lập bút toán điều chỉnh vì khi tổng hợp những sai sót này sẽ có ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính được kiểm toán. Thông qua việc tổng hợp các sai sót, kiểm toán viên đánh giá một cách tổng thể về các thông tin trên báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Việc tổng hợp các sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán sẽ thống nhất được kết quả kiểm toán giữa các kiểm toán viên để hình thành nên kết luận kiểm toán.
2.4.4. Thu thập thư giải trình của nhà quản lí.
Đối với các sự kiện đòi hỏi phải có sự giải trình thì kiểm toán viên yêu cầu nhà quản lí đơn vị khách hàng phải cung cấp các thư giải trình giải thích về các sự kiện có nghi vấn mà trong quá trình kiểm toán kiểm toán viên đã phát hiện, ví dụ như các khoản công nợ ngoài dự kiến, các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán. Thư giải trình là sự thừa nhận trách nhiệm của ban giám đốc đơn vị được kiểm toán trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lí và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành.
Trường hợp không có đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, kiểm toán viên phải thu thập thư giải trình của ban giám đốc đơn vị kiểm toán về những vấn đề xét thấy có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính.
2.4.5. Kiểm tra các công bố trên thuyết minh báo cáo tài chính.
Thuyết minh báo cáo tài chính phải công bố đầy đủ và xác thực các sự kiện xảy ra. Kiểm toán viên phải kiểm tra các thông tin trên thuyết minh báo cáo tài chính và đối chiếu với bảng cân đối kế toán cùng báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Thông tin trên thuyết minh báo cáo tài chính phải khớp đúng với thông tin trên báo cáo tài chính của đơn vị, đồng thời trên thuyết minh báo cáo tài chính phải có đầy đủ những giải trình cần thiết về những lí do, sự kiện cần công bố. Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm tra các thông tin trình bày trên thuyết minh báo cáo tài chính đã đầy đủ và hợp lí chưa, đồng thời cho ý kiến nhận xét về từng nội dung trên thuyết minh báo cáo tài chính đã kiểm toán.
3. Lập báo cáo kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán.
3.1. Lập và công bố báo cáo kiểm toán.
3.1.1. Khái niệm báo cáo kiểm toán.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700: “Báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán”.[06,61]
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải soát xét đánh giá những kết luận rút ra từ các bằng chứng thu thập được và sử dụng những kết luận này để làm cơ sở cho ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Trong ý kiến đánh giá của kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải xác định mức độ phù hợp của báo cáo tài chính với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận cũng như xác định sự tuân thủ theo các qui đinh pháp lí có liên quan khi lập báo cáo tài chính. Báo cáo kiểm toán phải có phần ghi rõ ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về toàn bộ báo cáo tài chính đã được kiểm toán trên phương diện phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành cũng như các qui định pháp lí có liên quan.
3.1.2. ý nghĩa của báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán là kết quả của một cuộc kiểm toán.
Đây là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán độc lập, thể hiện ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về báo cáo tài chính mà họ đã kiểm toán. Kết quả của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính được thông báo thông qua báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán là sự đảm bảo thông tin định lượng trên báo cáo tài chính: phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu.
ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trên báo cáo kiểm toán là một sự đảm bảo chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kì sai sót nào trên báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm toán viên chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu của các báo cáo tài chính.
3.1.3. Nội dung cơ bản của báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Báo cáo kiểm toán phải được trình bày nhất quán về hình thức và kết cấu để người đọc hiểu thống nhất và dễ nhận biết được có những tình huống bất thường xảy ra.
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính theo thông lệ chung bao gồm các yếu tố cơ bản được trình bày theo thứ tự sau:
Tên và địa chỉ công ty kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ tên, biểu tượng, địa chỉ, số điện thoại, số fax và số hiệu liên lạc khác của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán phát hành báo cáo kiểm toán.
Khi có từ hai công ty trở lên cùng thực hiện một cuộc kiểm toán thì cũng phải ghi đầy đủ các thông tin về các công ty đó.
Số hiệu báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán theo từng năm. Đây là số đăng kí chính thức trong hệ thống văn bản của công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán.
Tiêu đề.
Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề rõ ràng và thích hợp để phân biệt với báo cáo do người khác lập. Chẳng hạn báo cáo của các nhà quản lí doanh nghiệp có tiêu đề “Báo cáo của các nhà quản lí doanh nghiệp”, sẽ được phân biệt với các báo cáo kiểm toán có tiêu đề như: “Báo cáo kiểm toán” hoặc “Báo cáo của kiểm toán viên” hoặc “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính” hoặc có thể là “Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính năm N của công ty X”...
Địa chỉ nơi nhận báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải ghi nơi nhận, địa chỉ nơi gửi báo cáo kiểm toán và phải phù hợp với yêu cầu của thư hẹn kiểm toán và qui định của địa phương.
Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ người nhận báo cáo kiểm toán, địa chỉ chính thức của khách hàng kiểm toán. Người nhận có thể là hội đồng quản trị, ban giám đốc hoặc các cổ đông của đơn vị khách hàng. Ví dụ:
“Kính gửi: Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc công ty X”.
hoặc “Kính gửi: Tổng công ty X
Ban giám đốc công ty A”.
Đoạn mở đầu của báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải xác định rõ các báo cáo tài chính được kiểm toán bao gồm: Tên của doanh nghiệp có báo cáo tài chính, ngày lập báo cáo và kì hạn của báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính phải khẳng định rõ trách nhiệm lập báo cáo tài chính là của ban giám đốc đơn vị khách hàng. Trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán là việc đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của mình.
Báo cáo tài chính phản ánh các thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có trách nhiệm kiểm tra các thông tin trên báo cáo tài chính và đưa ra ý kiến nhận xét về báo cáo này. Ví dụ về đoạn mở đầu:
“Chúng tôi đã kiểm toán báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/N, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính năm tài chính kết thúc ngày 31/12/N của công ty A từ trang...đến trang...kèm theo. Việc lập và trình bày báo cáo tài chính thuộc trách nhiệm của ban giám đốc công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi”.
Phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải khẳng định công việc kiểm toán đã thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận. Đây là các thông lệ và chuẩn mực kiểm toán được tuân thủ khi thực hành kiểm toán. Báo cáo kiểm toán phải chỉ ra được các thủ tục kiểm toán cần thiết để đảm bảo cho người đọc hiểu được cuộc kiểm toán đã thực hiện theo các chuẩn mực và thông lệ được thừa nhận. Trường hợp riêng biệt kiểm toán viên đã thực hiện các thủ tục kiểm toán khác thì cần phải ghi rõ trong báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán ghi rõ cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lí để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên, để đảm bảo hợp lí là các báo cáo tài chính không còn chứa đựng những sai sót trọng yếu:
Các phương pháp kiểm toán, những bằng chứng kiểm toán đủ để xác minh được thông tin trong báo cáo tài chính.
Đánh giá việc tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để áp dụng lập báo cáo tài chính.
Đánh giá việc trình bày tình hình tài chính trên các báo cáo tài chính.
Đánh giá các ước tính kế toán và xét đoán quan trọng của giám đốc đơn vị khách hàng.
Ví dụ về đoạn nêu phạm vi căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán:
“ Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được chấp nhận ở Việt Nam. Các chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lí rằng các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thử nghiệm cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trong báo cáo tài chính; đánh giá việc tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, các nguyên tắc và phương pháp kiểm toán được áp, các ước tính và xét đoán quan trọng của giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lí để làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi”.
ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính.
Báo cáo kiểm toán phải diễn đạt đầy đủ rõ ràng ý kiến của kiểm toán viên nhận xét về các báo cáo tài chính, giải trình về tình hình tài chính của doanh nghiệp và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với nguyên tắc và chuẩn mực kế toán.
Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về việc đánh giá sự tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành để lập báo cáo tài chính. Ngoài ý kiến được nêu ra về tính trung thực hợp lí mà báo cáo tài chính phản ánh và sự tuân thủ chuẩn mực thì báo cáo kiểm toán cần phải đưa ra ý kiến nhận xét về tính tuân thủ của báo cáo tài chính đối với các qui định pháp lí khác.
Trường hợp kiểm toán viên không xác định chuẩn mực kế toán được sử dụng để lập báo cáo tài chính là của quốc gia nào thì thông tin nước nơi doanh nghiệp hoạt động phải được nêu trong báo cáo kiểm toán. Đây là trường hợp báo cáo kiểm toán được gửi ra ngoài phạm vi nước Việt Nam.
Các yếu tố về thủ tục.
Ngày lập báo cáo kiểm toán và địa điểm lập.
+ Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ ngày tháng năm kết thúc toàn bộ công việc kiểm toán. Ngày tháng năm ghi trên báo cáo kiểm toán thông báo cho người đọc tính thời gian của sự kiện và hiệu lực của báo cáo kiểm toán và các sự kiện nghiệp vụ phát sinh tính đến ngày kí báo cáo kiểm toán.
+ Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ địa chỉ công ty hoặc chi nhánh công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán.
+ Ngày kí báo cáo kiểm toán được ghi trước ngày giám đốc đơn vị kí báo cáo tài chính. Trường hợp báo cáo tài chính được điều chỉnh và lập lại trong quá trình kiểm toán thì ngày kí báo cáo kiểm toán được phép ghi cùng ngày với ngày kí báo cáo tài chính.
Chữ kí và đóng dấu.
+ Báo cáo kiểm toán phải có chữ kí của kiểm toán viên và đăng kí hành nghề của kiểm toán viên ở Việt Nam và có kí tên của giám đốc hoặc người được uỷ nhiệm của công ty kiểm toán chịu trách nhiệm phát hành báo cáo kiểm toán. Dưới mỗi chữ kí phải ghi rõ họ tên, số hiệu giấy đăng kí hành nghề kiểm toán ở Việt Nam. Trên chữ kí của giám đốc hay người được uỷ nhiệm của công ty kiểm toán phải có đóng dấu của công ty và báo cáo tài chính đã được kiểm toán phải có dấu giáp lai của công ty kiểm toán.
+ Ngôn ngữ trình bày trên báo cáo kiểm toán là ngôn ngữ Việt Nam và có thể có thêm bản báo cáo kiểm toán bằng ngôn ngữ khác kèm theo như đã thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán.
3.1.4. Các loại ý kiến trình bày trên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính.
Căn cứ vào kết quả kiểm toán, kiểm toán viên có trể đưa ra một trong bốn loại ý kiến sau về báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
ý kiến chấp nhận toàn phần.
ý kiến chấp nhận toàn phần được sử dụng khi kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị và phù hợp với chuẩn mực hay chế độ kế toán hiện hành. ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng mọi thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét đánh giá đầy đủ và được công bố trong thuyết minh báo cáo tài chính.
ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng mà báo cáo tài chính không còn những sai sót trọng yếu.
Ví dụ về ý kiến chấp nhận toàn phần:
“Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty X tại ngày 31/12/N, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/N, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các qui định pháp lí có liên quan”.
ý kiến loại này được sử dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chính có sai sót nhưng đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên. Báo cáo tài chính sau khi điều chỉnh đã được kiểm toán viên chấp nhận.
Mẫu ý kiến trong trường hợp này:
“Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty X tại ngày 31/12/N, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/N, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các qui định pháp lí có liên quan”.
Ngoài ra có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần có đoạn nhận xét. Đoạn nhận xét thường đặt sau đoạn ý kiến nhằm làm sáng tỏ một vài yếu tố có ảnh hưởng báo cáo tài chính nhưng không ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên. Ví dụ:
“Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lí trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty X tại ngày 31/12/N, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc ngày 31/12/n, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các qui định pháp lí có liên quan.
ở đây chúng tôi không phủ nhận ý kiến chầp nhận toàn phần như trên, mà chỉ muốn lưu ý người đọc báo cáo tài chính đến điểm A trong phần thuyết minh báo cáo tài chính: Công ty X đã đưa vào sử dụng công trình xây dựng có giá trị xxx VND, ba tháng trước ngày kết thúc niên độ tài chính, nhưng chưa ghi tăng TSCĐ. Điều này cần được thuyết minh rõ ràng trong báo cáo tài chính…”
ý kiến chấp nhận từng phần.
ý kiến này được sử dụng khi kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lí nếu không bị giới hạn ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại trừ hoặc yếu tố tuỳ thuộc mà kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm toán .
ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố ngoại trừ: ý kiến này được đưa ra khi kiểm toán viên bị giới hạn phạm vi kiểm toán hoặc bất đồng ý kiến.
+ Khi bị giới hạn phạm vi kiểm toán, phạm vi công việc kiểm toán bị giới hạn đôi khi là do khách hàng áp đặt hoặc có thể do hoàn cảnh thực tế, do các tài liệu kế toán không đầy đủ hoặc do kiểm toán viên không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán cần thiết. Khi phạm vi kiểm toán bị giới hạn nghiêm trọng, kiểm toán viên phải áp dụng các thủ tục kiểm toán thay thế để thu thập bằng chứng kiểm toán. Nếu thu được bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp thì kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Nếu kiểm toán viên không thu thập được bằng chứng thì tuỳ thuộc vào mức độ trọng yếu của sự kiện mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần có yếu tố ngoại trừ hoặc từ chố._.CĐ và hàng tồn kho cũng như ảnh hưởng của chúng tới các số liệu khác được trình bày trên báo cáo tài chính cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2003 của Công ty.
Tại thời điểm 31/12/2003 Công ty đang theo dõi công nợ phải trả khác, khoản tiền thu phụ cấp tham gia liên doanh, thu phí quản lí từ liên doanh và tiền chênh lệch do đánh giá lại tài sản khi thanh lí liên doanh chưa xử lí với số tiền là 620.570.964 VNĐ.
Tại thời điểm 31/12/2003, Công ty chưa bù trừ số dư phải thu nội bộ với số tiền 3.662.084.560 VNĐ.
Theo ý kiến chúng tôi, ngoại trừ những ý kiến nêu trên, báo cáo tài chính của Công ty đã phản ánh trung thực và hợp lí về tình hình tài chính của Công ty tại thời điểm 31/12/2003, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh trong năm tài chính kết thúc cùng ngày phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các qui định khác có liên quan.
Hà Nội, ngày 31 tháng 03 năm 2004.
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính
kế toán và kiểm toán
Phó giám đốc Kiểm toán viên
(kí tên, đóng dấu) (kí tên)
Nguyễn Thanh Tùng Phạm Thị Sửu
Chứng chỉ KTV số: H.0063/KTV Chứng chỉ KTV số: 0512/KTV
Bảng số 10: Thư quản lí cho công ty A
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán
01-Lê Phụng Hiểu
Tel: (84-4) 824 1990/1
Fax: (84-4) 825 39873
Số: 20/TQL Hà Nội, ngày 09 tháng 04 năm 2004.
Thư quản lí
Năm tài chính 2003
Kính gửi: Tổng giám đốc Tổng công ty Than Việt Nam
Giám đốc công ty A
Thực hiện hợp đồng kiểm toán số 26/HĐKT/TC ngày 02 tháng 01 năm 2004 giữa Tổng công ty Than Việt Nam và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán, chúng tôi đã hoàn thành việc kiểm toán báo cáo tài chính năm 2003 của Công ty A.
Trong quá trình kiểm toán, chúng tôi đã xem xét một số khía cạnh quan trọng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Kèm theo đây chúng tôi xin gửi tới Quí Công ty những ý kiến nhận xét của chúng tôi nhằm giúp Công ty A hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ và khắc phục những điểm yếu mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình kiểm toán.
Các vấn đề trình bày trong thư này được chúng tôi rút ra từ quá trình thực hiện các thủ tục kiểm toán nhằm giúp chúng tôi đưa ra các ý kiến nhận xét đối với báo cáo tài chính năm 2003 của Công ty A. Vì vậy những nhận xét này không phải là tất cả những nhận xét, đánh giá về công tác quản lí tài chính và công tác kế toán mà một cuộc kiểm toán toàn diện có thể đưa ra.
Nhân dịp này, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán chân thành cảm ơn đối với ban giám đốc, phòng kế toán, các phòng, ban liên quan của Công ty A về sự hợp tác, giúp đỡ đối với chúng tôi trong quá trình kiểm toán.
Kính thư,
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính
kế toán và kiểm toán
Phó giám đốc
(kí tên, đóng dấu)
Nguyễn Thanh Tùng
Các ý kiến đề xuất chi tiết.
Bảng dưới đây là tóm tắt tầm quan trọng của mỗi đề xuất mà chúng tôi muốn đưa ra sau đợt kiểm toán báo cáo tài chính cho năm tài chính 2003 của Công ty nhằm góp phần giúp Công ty từng bước hoàn thiện công tác hạch toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị.
Stt
Các đề xuất
Mức độ ưu tiên
A
B
1
2
3
4
5
6
7
8
Thực hiện chê độ chứng từ kế toán
Hạch toán và theo dõi khoản công nợ phải trả.
Hạch toán và trích lập khoản dự phòng nợ phải thu.
Hạch toán và theo dõi TSCĐ, KH TSCĐ.
Hạch toán và theo dõi thuế GTGT đầu vào.
Hạch toán và theo dõi các khoản thuế phải nộp ngân sách.
Hạch toán và theo dõi nợ dài hạn đến hạn trả.
Hạch toán và theo dõi chi phí tài chính.
v
v
v
v
v
v
v
v
Chú thích:
Mức độ ưu tiên A: Các biện pháp thực hiện càng sớm càng tốt.
B: Các quyết định có thể chưa cần thực hiện ngay.
Thực hiện chế độ chứng từ kế toán.
Quy định.
Theo quy định tại quyết định 1141/TC/QĐ/ CĐKT ngày01/11/1995 của Bộ tài chính về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp và quyết định số 885/1998/QĐ-BTC ngày 16/07/1998 của Bộ tài chính quy định về chế độ quản lý và sử dụng hoá đơn thì:
Mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đều phải có chứng từ chứng minh. Chứng từ kế toán phải được lập đúng quy định và đảm bảo tính hợp pháp, hợp lệ, đúng với sự thực nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Khi mua bán hàng hoá dịch vụcó giá trị trên 100.000VNĐ, mỗi lần thu tiền bên bán phải viết hoá đơn bán hàng, hoá đơn phải do Bộ tài chính phát hành hoặc Tổng cục thuế chấp thuận bằng văn bản về các hoá đơn đặc thù cho phép tổ chức cá nhân tự in.
Ghi nhận qua kiểm tra tại đơn vị.
Một số hoá đơn mua hàng thanh toán trong năm chưa có chữ ký của người mua hàng, không ghi mã số thuế của người mua, không ghi ngày tháng.
Một số hoá đơn bán hàng chưa có chữ ký của thủ trưởng đơn vị, chưa có chữ ký người mua.
Một số giấy phép đi đường không có dấu xác nhận nơi đến công tác hoặc chữ ký của những người có liên quan, chưa ghi ngày tháng đi công tác.
Một số khoản chi thanh toán công tác phí không có giấy đi đường.
Một số phiếu xuất kho vật tư trong năm không có chữ ký của thủ trưởng đơn vị, kế toán trưởng hoặc chữ ký người nhận hàng.
ảnh hưởng.
Các khoản chi không có chứng từ, hoá đơn hợp lệ sẽ không được xác định là chi phí hợp lý hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế.
ý kiến của kiểm toán viên.
Công ty nên chỉ đạo các đơn vị thực hiện đúng quy định của Nhà nước về chế độ chứng từ kế toán.
ý kiến của đơn vị.
Đơn vị đồng ý với những kiến nghị của kiểm toán viên.
Hạch toán và theo dõi khoản công nợ phải trả.
...
Hạch toán và theo dõi chi phí tài chính.
Ghi nhận qua kiểm tra tại đơn vị.
Mỏ than Núi Hồng đang hạch toán vào chi phí hoạt động tài chính phần lãi vay trong giai đoạn đầu tư công trình đền bù giải phóng mặt tiền băng tải số tiền 37.003.006.
ảnh hưởng.
Việc phản ánh không đúng giá trị tài sản hoàn thành bằng nguồn vốn vay và kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ của đơn vị.
ý kiến của kiểm toán viên.
Công ty nên chỉ đạo hướng dẫn mỏ than điều chỉnh lãi tiền vay vào chi phí xây dựng cơ bản dở dang đúng quy định.
Bảng số 11: Báo cáo của ban giám đốc Công ty B
Công ty B
Số: xxx- Hà Nội - Việt Nam
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2004.
Báo cáo của ban giám đốc
Công ty TNHH B là một công ty liên doanh được thành lập tại Việt Nam theo giấy phép đầu tư số 853/GP ngày 04/05/1998 có trụ sở tại số xxx, Hà Nội, Việt Nam, giữa một bên là Công ty M, trụ sở tại xxx Hà Nội, Việt Nam và một bên là Công ty Q, trụ sở tại xxx, Singapore.
Theo giấy phép đầu tư sửa đổi của Công ty số 853/GPĐC1 ngày 14/06/1996, vốn pháp định của công ty là 4.500.000 Đô la Mĩ, tổng số vốn đầu tu của Công ty liên doanh là 150.000.000 Đô la Mĩ.
Thời gian hoạt động theo giấy phép đầu tư là 35 năm kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư.
Hoạt động của công ty là cho thuê văn phòng và các dịch vụ văn phòng tại xxx, Hà Nội.
Hội đồng quản trị gồm:
Bà: Nguyễn Thị Phương Chủ tịch Hội đồng quản trị
Ông: Choinh Teck Swee Phó chủ tịch Hội đồng quản trị
Ông: Lim Teng Neng Thành viên
Ông: Dương Văn Cơ Thành viên
Ông: Ong Chai Siong Thành viên
Ban giám đốc gồm:
Ông: Lim Teng Neng Tổng giám đốc
Ông: Dương Văn Cơ Phó Tổng giám đốc
Chúng tôi, Lim Teng Neng và Dương Văn Cơ là Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc của Công ty B, đại diện cho Ban giám đốc xác nhận rằng, theo ý kiến của Ban giám đốc Bảng cân đối kế toán kèm theo tại ngày 31 tháng 12 năm 2003 và các báo cáo Kết quả kinh doanh, Lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc vào thời điểm 31 tháng 12 năm 2003, phản ánh trung thực hợp lí tình hình tài chính tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2003 và kết quả hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ cho năm kết thúc cùng ngày nêu trên.
Công ty B
Phó Tổng giám đốc Tổng giám đốc
(kí tên) (kí tên, đóng dấu)
Dương Văn Cơ Lim Teng Neng
Bảng số 12: Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của Công ty B
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán
01-Lê Phụng Hiểu
Tel: (84-4) 824 1990/1
Fax: (84-4) 825 39873
Số: BCKT/TC
Báo cáo kiểm toán
(Về báo cáo tài chính năm 2003 của Công ty B)
Kính gửi: Hội đồng quản trị
Ban giám đốc
Công ty B
Chúng tôi đã kiểm toán Báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán tại thời điểm ngày 31/12/2003 và các Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính cho năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2003 của Công ty B từ trang 5 đến trang 16 kèm theo.
Việc lập và trình bày Báo cáo tài chính thuộc trách nhiệm của Ban giám đốc Công ty B. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến về các Báo cáo này căn cứ trên kết quả kiểm toán của chúng tôi.
Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và các chuẩn mực kiểm toán Quốc tế được chấp nhận tại Việt Nam. Các chuẩn mực kiểm toán này yêu cầu công việc kiểm toán lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo hợp lí rằng các báo cáo tài chính không còn chứa đựng các sai sót trọng yếu. Chúng tôi đã thực hiện việc kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu và áp dụng các thủ tục cần thiết, các bằng chứng xác minh những thông tin trên báo cáo tài chính; đánh giá việc tuan thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, các nguyên tắc và phương pháp kế toán được áp dụng, các ước tính và xét đoán quan trọng của Giám đốc cũng như cách trình bày tổng quát các báo cáo tài chính. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lí làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi.
Kết quả sản xuất kinh doanh của năm 2003 đã bao gồm việc giảm chi phí lãi vay của năm 2003 là 418.942 USD. Khoản chiết khấu này cũng đã được Overseas Union Bank (Bây giờ sáp nhập vào United Overseas Bank) đề cập đến vào ngày 24/09/2003. Khoản gốc vay của Overseas Union Bank đã được thanh toán đầy đủ sau khi công ty nhận được khoản tái đầu tư tài chính từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng vì những lí do nêu trên đến Báo cáo tài chính, xét trên khía cạnh trọng yếu, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lí tình hình tài chính của Công ty B tại ngày 31/12/2003 cũng như kết quả hoạt động kinh doanh, các luồng lưu chuyển tiền tệ của Công ty cho năm kết thúc cùng ngày, các Báo cáo được soạn thảo phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các qui định pháp lí có liên quan.
Các Báo cáo tài chính kèm theo được lập theo giả định Công ty sẽ tiếp tục hoạt động theo khái niệm hoạt động liên tục. Như đã được nêu ở ghi chú số 2.1 và 7, khả năng hoạt động liên tục của Công ty theo khái niệm hoạt động liên tục phụ thuộc vào kết quả hoạt động trong tương lai và việc các nhà đầu tư của Công ty tiếp tục cung cấp hỗ trợ về tài chính ở mức cần thiết để thanh toán các khoản nợ khi đến hạn trả và duy trì sự tồn tại của Công ty trong tương lai.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2004.
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính
kế toán và kiểm toán
Giám đốc Kiểm toán viên
(kí tên, đóng dấu) (kí tên)
Ngô Đức Đoàn Phạm Thị Hường
Chứng chỉ KTV số: Đ0052/KTV Chứng chỉ KTV số: 0161/KTV
Toàn bộ công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện đã được minh họa trong phần hai của chuyên đề. Sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán là báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tuỳ thuộc vào yêu cầu cụ thể của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên có thể sẽ phát hành Biên bản kiểm toán thay cho báo cáo kiểm toán. Thông thường biên bản kiểm toán được phát hành khi kiểm toán viên tiến hành kiểm toán một khoản mục trong báo cáo tài chính hoặc kiểm toán một đơn vị thành viên của khách hàng kiểm toán. Dưới đây là một ví dụ về một biên bản kiểm toán do công ty AASC phát hành đối với khách thể là một đơn vị thành viên của Công ty A. (Bảng số 13)
Bảng số 13: Biên bản kiểm toán báo cáo tài chính của Xí nghiệp K
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
biên bản kiểm toán
Báo cáo kiểm toán năm 2003 của Xí nghiệp K
Thực hiện hợp đồng kiểm toán số xxx ngày ... tháng ... năm ... giữa Tổng công ty Than Việt Nam và Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán - Bộ Tài chính (AASC) về việc cung cấp dịch vụ kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2003 của các đơn vị thành viên trực thuộc Tổng công ty Than Việt Nam.
Thực hiện kế hoạch kiểm toán tại Xí nghiệp K thuộc Công ty A, nhóm kiểm toán của Công ty AASC đã tiến hành kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2003, gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và Thuyết minh báo cáo tài chính của Xí nghiệp K.
Hôm nay, ngày ... tháng ... năm 2004 tại Xí nghiệp K, chúng tôi gồm có:
Đại diện Công ty A
Ông: Phạm Đình Nguyên Phó phòng kế toán
Đại diện Xí nghiệp K
Ông: Phạm Hồng Khánh Giám đốc
Bà: Trương Thị Điểm Kế toán trưởng
Đại diện Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)
Bà: Nguyễn Thị Thu Hằng Trưởng nhóm kiểm toán
Bà: Nguyễn Thị Thuý Thành viên
Ông: Phạm XuânThọ Thành viên
Cùng nhau thống nhất các vấn đề có liên quan đến kết quả kiểm toán Báo cáo tài chính năm 2003 của Xí nghiệp K.
Nhóm kiểm toán thuộc AASC đã thựchiện công việc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, đã kiểm tra chứng từ, sổ sách, báo cáo tài chính của đơn cị từ ngày 06/02/2004 đến ngày 09/02/2004. Trong quá trình kiểm toán, nhóm kiểm toán cũng đã thực hiện các thủ tục phân tích, các thủ tục phỏng vấn và các thủ tục kiểm toán cần thiết khác nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán.
Dưới đây là một số ghi nhận kiểm toán mà đoàn kiểm toán có được trong quá trình kiểm toán tại đơn vị.
Hạch toán Nợ dài hạn đến hạn trả.
Phát hiện qua kiểm tra tại đơn vị
Cuối kì đơn vị chưa tính và kết chuyển khoản vay dài hạn đến hạn trả trong năm 2004 sang khoản mục Nợ dài hạn đến hạn trả số tiền 98.000.000 đ.
ý kiến của kiểm toán viên.
Đơn vị nên hạch toánđiều chỉnh kết chuyển vay dài hạn đến hạn trả sang tài khoản 315 và hạch toán điều chỉnh
Nợ TK 341 98.000.000 đ
Có TK 315 98.000.000 đ
Hạch toán doanh thu tài chính.
...............
ý kiến đơn vị
..................
Biên bản kiểm toán này đã được hai bêncùng nhất trí thông qua và được lập thành 05 bản có giá trị như nhau, Xí nghiệp K giữ 02 bản, Công ty A giữ 01 bản, Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán giữ 02 bản.
Đại diện Xí nghiệp K
Giám đốc Xí nghiệp Kế toán trưởng
(kí tên, đóng dấu) (kí tên)
Phạm Hồng Khánh Trương Thị Điểm
Đại diện Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toánvà Kiểm toán
Kiểm toán viên
(kí tên)
Nguyễn Thị Thu Hằng
Phần III.
Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện
I. Nhận xét chung về công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
1. Đánh giá chung về qui trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Ban lãnh đạo công tyAASC đã lập ra một quy trình kiểm toán chung tương đối chặt chẽ, hợp lý và hiệu quả bao gồm các bước công việc được thể hiện qua sơ đồ 3. Trên cơ sở quy trình kiểm toán chung được lập, AASC đã tiến hành các cuộc kiểm toán theo yêu cầu của khách hàng kiểm toán và đem lại hiệu quả cao. Thông qua quy trình kiểm toán chung này, để tiến hành một cuộc kiểm toán đạt chất lượng cao thì kiểm toán viên phải lập kế hoạch chi tiết cho từng bước công việc thực hiện trong quá trình kiểm toán. Mỗi cuộc kiểm toán thực hiện là sự vận dụng sáng tạo lý thuyết vào thực tiễn tại công ty AASC trên cơ sở các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và các chế độ pháp lý có liên quan.
2. Đánh giá về giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính, công ty AASC đã thực hiện các bước công việc tuần tự từ việc xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán đến việc lập và công bố báo cáo kiểm toán.
Trình tự tiến hành các bước công việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán của công ty AASC nhìn chung đã tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Việt nam và các chuẩn mực khác có liên quan. Trong giai đoạn này, công ty AASC đã vận dụng các chuẩn mực kiểm toán Việt nam có liên quan: chuẩn mực số 560 “các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán”, chuẩn mực số 570 “hoạt động liên tục”, chuẩn mực số 580 “giải trình của ban giám đốc” và chuẩn mực số 700 “báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính”. Công ty đã vận dụng sáng tạo các chuẩn mực có liên quan trong từng bước công việc cụ thể của giai đoạn kết thúc. Tuy nhiên, trong từng bước công việc cụ thể do AASC thực hiện trong giai đoạn này cũng có những hạn chế nhất định. Giai đoạn kết thúc kiểm toán do công ty AASC thực hiện bao gồm năm các bước cơ bản sau:
Xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
Các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán ở đơn vị khách hàng được kiểm toán viên xem xét dưới 2 góc độ: sự kiện ảnh hưởng trực tiếp đến báo cáo tài chính cần phải điều chỉnh và các sự kiện không bắt buộc phải điều chỉnh nhưng cần được thuyết minh trên báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, các thủ tục kiểm toán được kiểm toán viên AASC thiết lập chỉ để soát xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán chỉ áp dụng cho những sự kiện trước ngày kí báo cáo kiểm toán. Ban quản lí doanh nghiệp chịu trách nhiệm thông báo cho kiểm toán viên về những sự kiện quan trọng có thể ảnh hưởng tới báo cáo tài chính mà những sự kiện này xảy ra sau ngày phát hành báo cáo kiểm toán.
Xem xét tính hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng.
Trong giai đoạn này giả định hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng được kiểm toán viên đánh giá chủ yếu thông qua ảnh hưởng của các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán và các căn cứ về kết quả hoạt động kinh doanh dự đoán trong các giai đoạn trước. Để kết luận liệu doanh nghiệp có khả năng hoạt động liên tục hay không, ngoài việc xác định các dấu hiệu vi phạm kiểm toán viên còn chú trọng các yếu tố giảm nhẹ.
Thu thập thư giải trình của ban giám đốc đơn vị khách hàng.
AASC không sử dụng thư giải trình như một bằng chứng kiểm toán mà chỉ để chứng minh rằng ban giám đốc đã được hỏi một số vấn đề và họ nhận thức được trách nhiệm của mình về việc hỗ trợ cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.
Tổng hợp và đánh giá kết quả kiểm toán.
Trong bước công việc này, kiểm toán viên AASC đã thiết lập một trình tự khoa học, chặt chẽ từ việc soát xét các giấy tờ làm việc, đánh giá tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán đến việc đưa ra kết luận về báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần chú trọng hơn đối với việc xem xét các thông tin khác đính kèm với báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
Lập báo cáo kiểm toán.
Việc lập báo cáo kiểm toán cho đơn vị khách hàng ở AASC luôn được thực hiện đúng theo quy định về thời gian và đảm bảo về chất lượng. Để lập báo cáo kiểm toán, AASC cũng tuân thủ theo đúng trình tự từ lập bản thảo báo cáo đến việc thảo luận sửa đổi và phát hành báo cáo kiểm toán chính thức.
3. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Đánh giá về hoạt động kiểm toán ở nước ta hiện nay, từ góc độ nghiên cứu khoa học có thể thấy còn khá nhiều vấn đề cần trao đổi,trong đó có một số vấn đề nổi cộm đang được quan tâm hiện nay như: xây dựng hệ thống các quy định, chuẩn mực nghề nghiệp; đảm bảo sự thống nhất trong kết quả kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và trách nhiệm của kiểm toán viên và công ty kiểm toán về báo cáo kiểm toán mà họ phát hành.
Hiện nay, Bộ tài chính vẫn đang trong quá trình xây dựng một hệ thống các quy định, chuẩn mực làm nền tảng pháp lý cho việc thực hiện kiểm toán cũng như việc kiểm tra đánh giá chất lượng của hoạt động này. Hiện nay Bộ tài chính mới chỉ ban hành được 27 chuẩn mực kiểm toán. Các chuẩn mực này chủ yếu dựa trên hệ thống chuẩn mực kiểm toán quốc tế và quá trình tổng kết thực tiễn hoạt động của các công ty kiểm toán lớn tại Việt Nam. Kết quả kiểm toán chưa thực sự được đánh giá cao và phổ biến tại nước ta, sự thống nhất trong kết quả kiểm toán chưa được chú ý và tôn trọng. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý kinh tế ở nước ta chưa ổn định, thiếu tính đồng bộ và nhất quán. Hơn nữa trong thực tiễn đã xuất hiện trường hợp kết quả kiểm toán không thống nhất với kết quả kiểm tra của cơ quan thuế. Sự thiếu thống nhất đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp.
Việc tổng hợp kết quả và lập báo cáo kiểm toán là nhiệm vụ chính của giai đoạn kết thúc kiểm toán, do vậy để đảm bảo sự thống nhất về kết quả kiểm toán đối với các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế cũng như để nâng cao chất lượng của báo cáo kiểm toán, ngoài việc hoàn thiện và ổn định các chính sách kinh tế đối với các loại hình doanh nghiệp còn phải nhanh chóng bồi dưỡng và đào tạo các kiểm toán viên chuyên nghiệp, bồi dưỡng cho các kiểm toán viên nước ngoài hoạt động tại Việt Nam về kiến thức pháp luật Việt Nam. Thực tiễn luôn đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống chuẩn mực đối với quy trình kiểm toán trong hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính. Quy trình kiểm toán nói chung cũng như giai đoạn kết thúc kiểm toán nói riêng một khi đã được xây dựng một cách khoa học có chất lượng cao và được quy định thành văn bản luật riêng sẽ trở thành cơ sở pháp lý trong việc quản lý và kiểm soát chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán cũng như chất lượng của báo cáo kiểm toán, ngoài ra đó cũng là cơ sở quan trọng đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên trong mỗi cuộc kiểm toán.
Các công việc kết thúc kiểm toán tại công ty AASC đã được trình bày trong nội dung của phần 2. Kiểm toán viên Việt Nam nói chung và kiểm toán viên AASC nói riêng thiết lập và thực hiện các thủ tục kết thúc kiểm toán chủ yếu từ kinh nghiệm của bản thân và vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm kiểm toán trên thế giới, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế trên cơ sở phù hợp với hệ thống pháp luật, môi trường kiểm toán và hiện trạng công tác quản lý kinh tế tài chính của nước ta.
Muốn hoàn thiện quy trình kiểm toán báo cáo tài chính thì phải hoàn thiện trong từng giai đoạn một. Giai đoạn kết thúc kiểm toán là một khâu quan trọng trong quy trình, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến kết quả của toàn bộ cuộc kiểm toán cũng như chất lượng của báo cáo kiểm toán. Vì vậy, hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán là một vấn đề rất quan trọng đối với AASC cũng như với bất kỳ công ty kiểm toán nào.
II. Một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Qua thực tế công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán cũng như đối với công tác tổ chức kiểm toán chung tại công ty AASC, nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác kiểm toán tại công ty em xin đề xuất một số ý kiến đóng góp của mình, hy vọng những ý kiến này sẽ giúp ích cho công ty AASC trong việc xây dựng quy trình kiểm toán hiệu quả hơn.
1. Một số ý kiến đề xuất đối với các bước công việc thực hiện trong giai đoạn kết thúc kiểm toán.
1.1. Việc thẩm tra các khoản công nợ ngoài dự kiến.
Cơ sở đưa ra ý kiến:
Nợ ngoài dự kiến là một khoản công nợ hay thiệt hại mà chỉ có thể khẳng định được kết quả cuối cùng khi xảy ra một hoặc nhiều sự kiện không chắc chắn trong tương lai. Do quy mô số tiền của khoản tiền tiềm ẩn trong tương lai có thể ảnh hưởng đến nội dung của báo cáo tài chính nên trong quy trình kiểm toán nước ngoài người ta thường thực hiện một bước công việc độc lập để thẩm tra các khoản nợ này. Trong thực tế có những khoản nợ ngoài dự kiến có quy mô số tiền có thể ước tính là rất lớn, nếu không được xem xét sẽ dẫn đến sự sai sót nghiêm trọng trong báo cáo tài chính. Do vậy việc xem xét và khảo sát các khoản công nợ ngoài dự kiến là rất cần thiết. Tại AASC thông thường kiểm toán viên không thực hiện thủ tục kiểm toán cần thiết để xem xét và đánh giá các khoản nợ ngoài ý muốn trong giai đoạn kết thúc kiểm toán.
ý kiến đề xuất:
Kiểm toán viên có thể kết hợp công việc xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến trong khi xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán cũng như đánh giá về giả định hoạt động liên tục của đơn vị khách hàng. Công việc này nhất thiết phải được tổ chức thực hiện. Khi xem xét các khoản công nợ ngoài dự kiến, kiểm toán viên cần xem xét trên các khía cạnh: xem xét liệu những khoản công nợ ngoài dự kiến có được xác định đầy đủ hay không, xem xét tới rủi ro có thể phát sinh những khoản công nợ này, xem xét tới quy mô số tiền của khoản công nợ này, xem xét liệu các khoản công nợ ngoài dự kiến có được hạch toán và thuyết minh hợp lý hay không.
1.2. Việc xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán.
Cơ sở ý kiến:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 560 có những sự kiện xảy ra sau ngày ký báo cáo kiểm toán nếu không được kiểm toán viên phát hiện và xem xét mà sự kiện này có ảnh hưởng trọng yếu đến các thông tin trong báo cáo tài chính đã kiểm toán thì việc thiếu các sự kiện này có thể gây ra những hậu quả bất lợi cho người sử dụng báo cáo tài chính.
Thực tế tại AASC cũng như một số công ty kiểm toán khác thì công việc soát xét các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên độ kế toán không chú trọng tới việc xem xét các sự kiện phát sinh sau ngày kí báo cáo kiểm toán.
ý kiến đề xuất:
Kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết trong việc xem xét phát hiện các sự kiện xảy ra sau ngày kí báo cáo kiểm toán. Việc xem xét các sự kiện này sẽ đảm bảo báo cáo kiểm toán phát hành có độ tin cậy là cao nhất.
1.3. Phân tích tổng hợp các thông tin trong quá trình tổng hợp đánh giá kết quả kiểm toán.
Cơ sở ý kiến:
Trong quá trình thực hiện các thủ tục phân tích tại giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên AASC sử dụng phương pháp phân tích soat xét để đánh giá lại báo cáo tài chính của doanh nghiệp và tổng hợp các thông tin tài chính. Việc phân tích tổng hợp các thông tin ít chú trọng tới các thông tin phi tài chính. Những thông tin chủ yếu được dính kèm với báo cáo tài chính được kiểm toán, đó có thể là các báo cáo của nhà quản lí doanh nghiệp, của các giám đốc điều hành, của các nhân vật chủ chốt.
Báo cáo kiểm toán muốn có độ tin cậy cao phải nhất quán với các thông tin khác đính kèm. Vì vậy việc xem xét các thông tin tài chính và thông tin phi tài chính đính kèm với báo cáo tài chính là công việc cần thiết.
ý kiến đề xuất:
Kiểm toán viên trong quá trình đánh giá tổng thể kết quả kiểm toán cần xem xét kết hợp kết quả đánh giá về các thông tin tài chính cùng các thông tin phi tài chính trên báo cáo tài chính với các thông tin khác đính kèm. Việc đọc và kết hợp các thông tin này giúp kiểm toán viên xác định các sự kiện sai lệch để có điều chỉnh phù hợp.
2. Các ý kiến đề xuất đối với khách hàng kiểm toán.
Cơ sở ý kiến:
Trên thực tế kiểm toán còn là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, vì vậy thường xảy ra tình trạng các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như các nhân viên không nhiệt tình hợp tác với kiểm toán viên, gây cản trở khó khăn cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.
ý kiến đề xuất:
Các đơn vị khách hàng cần phải có sự nhận thức đúng đắn về chức năng và vai trò của hoạt động kiểm toán để từ đó có sự hỗ trợ nhất định cho các kiểm toán viên, công ty kiểm toán thực hiện giai đoạn kết thúc đạt hiệu quả cao nhất cũng như hoàn thành cuộc kiểm toán với chất lượng tốt nhất.
3. Các ý kiến đề xuất đối với Nhà nước và Bộ tài chính.
Cơ sở ý kiến:
Nhà nước và Bộ tài chính là các cơ quan chủ quản ban hành các chuẩn mực và chế độ pháp lý có liên quan đến hoạt động trong đời sống kinh tế nói chung và đối với hoạt động kiểm toán nói riêng.
Theo thông lệ quốc tế, hoạt động kiểm toán chỉ có thể phát triển được trong một khuôn khổ pháp lý đầy đủ. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động kiểm toán ở Việt Nam chưa có hệ thống pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ. Vì thế dẫn đến nhiều khó khăn cho các công ty kiểm toán trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình trong đó có AASC.
ý kiến đề xuất:
Để tạo môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho sự phát triển của hoạt động kiểm toán ở Việt Nam, Nhà nước cần phát huy vai trò điều tiết vĩ mô của mình đối với nền kinh tế và Bộ tài chính cần tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động kiểm toán nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ kiểm toán và vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế.
Kết luận
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày nay, thương mại dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng và chiếm tỉ trọng khá lớn trong giao dịch thương mại toàn cầu. Mở cửa dịch vụ tài chính kế toán và kiểm toán vấn đề được nhiều quốc gia quan tâm nhất. Hoạt động kiểm toán là một yếu tố nảy sinh và song hành của nền kinh tế thị trường. Nó không ngừng được mở rộng và kiện toàn theo sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Kiểm toán đang trở thành một hoạt động mang tính chất toàn cầu.
AASC là một tổ chức kiểm toán độc lập hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ tài chính kế toán và kiểm toán, đáp ứng nhu cầu nóng bỏng của nền kinh tế mở hiện nay. Cùng với sự lớn mạnh của nền kinh tế, AASC đã không ngừng phát triển trở thành lá cờ tiên của ngành kiểm toán, AASC luôn khẳng định vị thế của mình là một trong những tổ chức lớn nhất của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên ngành về kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính.
Qua thời gian thực tập tại công ty AASC, được tiếp xúc với thực tế công tác kiểm toán do các kiểm toán viên AASC thực hiện em đã tìm hiểu về hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính và đi sâu tìm hiểu thực tế công tác tổ chức giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính. Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính và là yếu tố quảntọng quyết định chất lượng và hiệu quả mỗi cuọoc kiểm toán.
Trong thời gian thực vừa qua, nhờ có sự giúp đỡ của các anh chị kiểm toán viên công ty AASC, đặc biệt là các anh chị phòng kiểm toán các ngành sản xuất vật chất đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề của mình. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban lãnh đạo công ty và các anh chị kiểm toán viên của Công ty AASC , và đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn tới giáo viên hướng dẫn- Thạc Sỹ Chu Thành đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề của mình với đề tài: “Tìm hiểu giai đoạn kết thúc kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán AASC thực hiện”.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT569.doc