Báo cáo Phân tích tài chính tại Tổng Công ty mía đường

Tài liệu Báo cáo Phân tích tài chính tại Tổng Công ty mía đường: ... Ebook Báo cáo Phân tích tài chính tại Tổng Công ty mía đường

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2014 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Báo cáo Phân tích tài chính tại Tổng Công ty mía đường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất ĐặT VấN Đề 1.1. TíNH CấP THIếT CủA Đề TàI Trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại một vấn đề khách quan đó là bất cứ ai dù là một cá nhân, một tập thể hoặc một doanh nghiệp nào khi gia nhập thị trường đều phải chấp nhận cạnh tranh và quá trình cạnh tranh đó luôn xảy ra hai mặt trái ngược nhau đó là vừa đào thải vừa thúc đẩy sản xuất phát triển. Đặc biệt ngày nay khi nền kinh tế Việt nam đang hội nhập mạnh mẽ với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Các doanh nghiệp muốn đứng vững được trong cơn lốc của thị trường xuyên quốc gia, xuyên lục địa, toàn cầu hoá, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lý tốt nguồn lực tài chính hiện có và tạo nguồn tài chính mới tài trợ cho các hoạt động kinh doanh có hiệu quả đối với mọi biến động của thị trường. Nếu doanh nghiệp nào bộc lộ sự yếu kém của mình và không đáp ứng được yêu cầu của thị trường thì doanh nghiệp đó sẽ bị đào thải, còn ngược lại những doanh nghiệp đó sẽ ăn nên làm ra và sẽ có lãi. Thực tế cho thấy có nhiều doanh nghiệp do sự yếu kém trong quản lý mà gây ra tình trạng thua lỗ kéo dài và dẫn đến phá sản hàng loạt. Ngược lại như việc cung ứng sản xuất, tiêu thụ được tiến hành bình thường và đúng tiến độ sẽ là tiền đề bảo đảm cho hoạt động tài chính có hiệu quả. Đồng thời việc tổ chức và huy động các nguồn vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và có lợi nhuận cao. Vì vậy, để đáp ứng một phần các yêu cầu mang tính chiến lược của mình, các doanh nghiệp cần tiến hành định kỳ phân tích đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính từ đó phát triển những lợi thế để phát huy và và tìm những khó khăn ách tắc để khắc phục, tháo gỡ kịp thời để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn thắng thế trên thương trường các doanh nghiệp cần phải biết doanh nghiệp mình hoạt động như thế nào? kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ra sao? có nghĩa là chủ doanh nghiệp phải biết được doanh nghiệp mình đang trên đà phát triển hay suy thoái. Điều đó buộc họ phải phân tích, đánh giá hoạt động tài chính thông qua những chỉ tiêu nhất định, phù hợp với cơ chế quản lý tài chính hiện hành. Như vậy, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những đối với chủ doanh nghiệp mà còn đối với nhiều đối tượng khác như các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng và các cơ quan, hữu quan khác. Mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung đều với mục đích muốn biết khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, hiệu quả sản xuất kinh doanh tình hình phát phiển và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có thể đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp trong tuơng lai bằng cách dự báo và lập ngân sách. Phân tích báo cáo tài chính không chỉ là một quá trình tính toán các tỷ số mà là quá trình tìm hiểu kết quả của sự quản lý và điều hành tài chính doanh nghiệp, phân tích báo cáo tài chính là phân tích những gì đã làm được, dự kiến những gì sẽ xảy ra. Trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp để tận dụng triệt để mọi tiềm năng sẵn có nhằm đạt lợi nhuận cao. Tổng Công ty Mía Đường I cũng không nằm ngoài những đối tượng xem xét kể trên. Tổng Công ty Mía Đường I là doanh nghiệp Nhà nước có tình hình tài chính rất đáng được quan tâm. Trong những năm gần đây sản lượng đường hàng năm của Tổng Công ty có tăng nhưng hiệu quả đạt được còn thấp. Do đó, đứng trước thử thách của nền kinh tế thị trường các nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, nhất là quản lý tài chính trong doanh nghiệp. Điều đáng quan tâm nhất ở Tổng Công ty hiện nay là tại sao hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu vẫn chưa cao? vì vậy, cần có sự phân tích đánh giá qua đó có thể tìm ra những phương hướng và biện pháp khả thi nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn góp phần làm cho Tổng Công ty đứng vững và dành thắng lợi trong cơ chế thị trường. Với những lý do nêu trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: ((PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI TỔNG CÔNG TY MÍA ĐƯỜNG I)). 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. 1.2.1. Mục tiêu chung. Nghiên cứu thực trạng tình hình tài chính của Tổng Công ty qua các báo cáo tài chính. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Tổng Công ty. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp. Phân tích thực trạng tình hình tài chính của Tổng Công ty Mía Đường I trên cơ sở nghiên cứu các báo cáo tài chính nhằm phát hiện ra những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của nó. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và kết quả sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty. 1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 1.3.1. Đối tương nghiên cứu. Tập trung nghiên cứu tình hình tài chính tại Tổng Công ty mía đường I. 1.2.3. Phạm vi nghiên cứu. Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tại Tổng Công ty Mía Đường I. Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1998 đến năm 2000 Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình tài chính trực tiếp tại Tổng Công ty Mía Đường I Phần thứ hai CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1. tài chính doanh nghiệp 2.1.1. Khái niệm chung về tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Là những quan hệ trong phân phối sản phẩm quốc dân, từ quỹ tiền tệ và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Hay nói cách khác tài chính là những quan hệ trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ. Tuy nhiên hoạt động tài chính vẫn là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh. Hoạt động tài chính giải quyết các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, được biểu hiện qua các hình thái tiền tệ xuất phát từ yêu cầu và mục đích kinh doanh. Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân và là một khâu của hệ thống tài chính. Tại đây diễn ra các quá trình sản xuất kinh doanh: Đầu tư, tiêu thụ, phân phối. Trong sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá. 2.1.2. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính, nó gồm các quan hệ kinh tế cụ thể là: Quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân sách Nhà nước. Đây là quan hệ kinh tế dưới hình thái tiền tệ nảy sinh. Các quan hệ này có hai chiều vận động ngược nhau. Thứ nhất: Ngân sách Nhà nước góp phần hình thành vốn cho sản xuất kinh doanh. Thứ hai: Doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế, phí, lệ phí theo luật định để hình thành ngân sách Nhà nước cấp. Quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức trung gian tài chính. Các trung gian tài chính nhất là ngân hàng, là cầu nối giữa những người có vốn nhàn rỗi và người cần vốn để đầu tư. Quan hệ này có hai chiều: Doanh nghiệp đi vay các tổ chức tín dụng đồng thời phải trả chi phí cho việc sử dụng vốn vay đó. Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường. Doanh nghiệp lúc này đóng vai trò là người mua và người bán trong việc sử dụng và tái tạo lại quỹ tiền tệ của mình. Doanh nghiệp mua nguyên vật liệu, dịch vụ cho sản xuất rồi bán sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường để tái tạo lại quỹ đã sử dụng khi mua các yếu tố sản xuất. Quan hệ giữa doanh nghiệp với hộ gia đình. Doanh nghiệp thu hút sức lao động, tiền vốn của các thành viên hộ gia đình để phục vụ cho mục đích kinh doanh. Đồng thời doanh nghiệp chi trả lương, lãi suất cổ tức cho họ. Quan hệ giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài hay còn gọi là quan hệ tài chính đối ngoại. Đây là quan hệ phát sinh trong quá trình vay và cho vay, trả nợ và đầu tư giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế nước ngoài. Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Biểu hiện của quan hệ này là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp. Đó là quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh với nhau, giữa các thành viên, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua các chính sách tài chính của doanh nghiệp như chính sách phân phối thu nhập, chính sách về đầu tư và cơ cấu đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chính sách về chi phí... Nhìn vào các nhóm quan hệ trên của doanh nghiệp ta thấy tài chính doanh nghiệp là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính quốc dân. Thông qua tài chính doanh nghiệp Nhà nước thực hiện việc quản lý vĩ mô cho các mục tiêu phát triển kinh tế lâu dài. Đối với doanh nghiệp tài chính vừa là mục tiêu vừa là công cụ quản lý vĩ mô, nếu doanh nghiệp sử dụng công cụ này không đúng đắn thì thay vì có tác dụng thúc đẩy, nó sẽ kìm hãm sự phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1.3. Nhiệm vụ và vai trò của tài chính doanh nghiệp. 2.1.3.1. Nhiệm vụ của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ nắm vững tình hình vốn sản xuất kinh doanh hiện có cả về mặt hiện vật và giá trị, nắm vững sự biến động về vốn, nhu cầu vốn trong từng khâu, từng thời kỳ của quá trình sản xuất, từng thời gian cụ thể để có biện pháp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức khai thác và động viên kịp thời các nguồn vốn nhàn rỗi phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh không để ứ đọng và kém hiệu quả. Để làm được điều này tài chính doanh nghiệp phải thường xuyên giám sát và tổ chức sử dụng vốn trong doanh nghiệp làm cho khi có một lượng vốn nhất định phải tạo ra một lượng lợi nhuận lớn nhất trên cơ sở sử dụng tối đa các nguồn lực hiện có. 2.1.3.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có thể trở lên tích cực hay thụ động, thậm chí có thể là tiêu cực đối với sản xuất kinh doanh. Sở dĩ như vậy là do tài chính là một trong những công cụ quản lý kinh tế, sự phát huy vai trò tác dụng của công cụ này một phần phụ thuộc vào khả năng, trình độ của người quản lý. Mặt khác nó phụ thuộc vào chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước theo từng thời kỳ. Trong cơ chế thị trường như hiện nay, hoạt động tài chính doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để phát huy vai trò của nó trên các mặt sau. Một là: Hoạt động tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc chủ động tạo lập vốn đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là: Có vai trò trong việc tổ chức sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Ba là: Hoạt động tài chính doanh nghiệp được sử dụng như một công cụ để kích thích, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh. Bốn là: Tài chính doanh nghiệp còn là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2.1.4. Ý nghĩa của việc phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp. *, Khái niệm: Phân tích hoạt động tài chính là xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành và quá khứ. *, Ý nghĩa: Thông qua việc phân tích hoạt động tài chính nhà quản lý, nhà đầu tư, ngân hàng, khách hàng... sẽ sử dụng thông tin để dự đoán tương lai bằng cách so sánh đánh giá và phân tích xu hướng. Vì vậy phân tích hoạt động tài chính không chỉ có ý nghĩa với những quyết định hiện tại mà còn có trong tương lai gần. Phân tích hoạt động tài chính có những ý nghĩa sau: Thứ nhất: Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp. Qua đó doanh nghiệp có được những thông tin chính xác nhất về tình hình tài chính để quyết định đúng đắn và hợp lý với thực trạng tài chính của doanh nghiệp mình. Thứ hai: Phân tích hoạt động tài chính còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với chủ doanh nghiệp và các nhà cho vay tín dụng trong việc quyết định cho doanh nghiệp vay thêm hay thu hồi nợ. Thứ ba: Phân tích hoạt động tài chính giúp cho các nhà cho vay, cung cấp vật tư hàng hoá, dịch vụ... trong việc quyết định xem có cho khách hàng sắp tới được mua chịu hay không? Thứ tư: Các nhà đầu tư dựa vào thông tin mà phân tích hoạt động tài chính để có quyết định đúng đắn. Thứ năm: Phân tích hoạt động tài chính giúp cho các cơ quan tài chính, thuế, thống kê, những người lao động có thái độ ứng xử hợp lý đối với doanh nghiệp. 2.2. báo cáo tài chính doanh nghiệp. 2.2.1. Báo cáo tài chính tài chính doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, vốn, công nợ cũng như tình hình tài chính và kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Những báo cáo này do kế toán soạn thảo theo định kỳ nhằm mục đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi vậy, hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp được lập với mục đích sau: Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát toàn diện, tình hình tài sản, công nợ, nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ hạch toán. Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá kết quả hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng cho việc đề ra quyết định khái quát về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sơ hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Theo quy định hiện hành, các chủ doanh nghiệp phải lập ba báo cáo bắt buộc sau đây: -Bảng cân đối kế toán- Mẫu số B01-DN. -Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh-Mẫu số B02-DN. -Bảng thuyết minh báo cáo tài chính -Mẫu số B09-DN. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải lập thêm một báo cáo mang tính hướng dẫn là ((Báo cáo lưu chuyển tiền tệ -Mẫu số B03-DN)). Tất cả các doanh nghiệp độc lập có tư cách pháp nhân đều phải lập và gửi báo cáo tài chính theo đúng các quy định của chế độ kế toán tài chính, các báo cáo phải lập và gửi vào cuối mỗi quý của niên độ kế toán. Thời hạn gửi báo cáo chậm nhất là 15 ngày sau khi kết thúc niên độ kế toán nếu là báo cáo năm. Nơi nhận báo cáo tài chính được quy định cụ thể đối với từng đối tượng, nó thể hiện tính thiết thực của báo cáo đối với từng nơi nhận báo cáo. Cụ thể như: -Doanh nghiệp Nhà nước gửi cho cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước. -Doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài gửi cho cục thuế (tỉnh thành phố) bộ kế hoạch đầu tư, cơ quan thuế. -Các doanh nghiệp khác gửi cho cục thống kê và cơ quan thuế. 2.2.2. Bảng cân đối kế toán. 2.2.2.1. Khái niệm ý nghĩa và kết cấu của bảng. *, Khái niệm. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tổng hợp phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định duới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp. *, Kết cấu của bảng. Bảng cân đối kế toán gồm hai phần đó là phần ((Tài sản)) và phần ((Nguồn vốn)). Mỗi phần đều có tổng cộng đầu năm và cuối kỳ, số tổng cộng của hai phần này bao giờ cũng bằng nhau, tức là Tài sản = Nguồn vốn. Về mặt kinh tế, qua việc xem xét phần “Tài sản” cho phép tổng quát về năng lực và trình độ sử dụng tài sản về mặt pháp lý thể hiện tiềm lực của doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài gắn với mục địch thu được các lợi ích trong tương lai. Khi xem xét phần “Nguồn vốn” về mặt kinh tế, người sử dụng thấy được thực trạng của doanh nghiệp. Về mặt pháp lý người sử dụng bảng cân đối kế toán thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh với Nhà nước, về số tài sản được hình thành từ nguồn vốn vay ngân hàng và vốn vay của các đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản phải trả với người lao động, với nhà cung cấp, với cổ đông, với trái chủ, với ngân sách. Ngoài ra bảng cân đối kế toán còn có thêm các phần phụ phản ánh các chỉ tiêu dài hạn không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp như là: Ngoại tệ các loại, vốn khấu hao hiện có, tài sản thuê ngoài, hàng hoá nhận gia công chế biến, nhận bán hộ. *, Ý nghĩa của bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo kết cấu tài sản và cơ cấu nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp. Phần phản ánh tài sản theo kết cấu cho biết tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo là bao nhiêu? Tình hình phân bổ tài sản đó như thế nào? Còn phản ánh nguồn hình thành tài sản cho biết tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ đâu? Từ những nguồn nào? Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính liên quan. 2.2.2.2. Nguyên tắc chung để lập bảng cân đối kế toán. Trước khi lập bảng cân đối kế toán chúng ta phải tiến hành làm các công việc như sau: +kiểm tra kỹ nội dung phản ánh nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán có liên quan. +khoá sổ và rút số dư các tài khoản. +đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán có liên quan. -Phương pháp lập: Cơ sơ số liệu và căn cứ lập bảng cân đối kế toán là bảng cân đối niên độ trước (hoặc kỳ trước ), các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết. Đối với cột số đầu năm lấy số liệu là cột số cuối kỳ của bảng cân đối kế toán cuối niên độ trước chuyển sang(nếu lập bảng cân đối kế toán quý đầu niên độ này) lấy số cột năm trên bảng cân đối kế toán quý trước cùng niên độ chuyển sang(nếu lập bảng cân đối kế toán các quý sau, cùng niên độ kế toán). Số đầu năm không thay đổi trong suốt niên độ báo cáo. Còn đối với cột cuối kỳ trên các sổ kế toán tổng hợp hoặc chi tiết tương ứng với các chỉ tiêu đó để lập bảng. Sau đây là mẫu bảng cân đối kế toán tổng quát: (Trang bên) Bảng cân đối kế toán tổng quát. TÀI SẢN MS SĐN SCN NGUỒN VỐN MS SĐN SCN A.TSLĐvàĐTNH 100 A. Nợ phải trả 300 I.Tiền 110 I.Nợ ngắn hạn 310 II.Các khoản ĐTT CNH 120 I.Nợ dài hạn 320 III.Các khoản phải thu 130 II. Nợ khác 330 V.Hàng tồn kho 140 V.TSLĐkhác 150 VI.Chi phí sự nghiệp 160 B.TSCĐvàĐTTCDH 200 B.Nguồn vốn CSH 400 I. TSCĐ 210 I.Nguồn vốn quỹ 410 II.Đầu tư TCDH 220 II.Nguồn kinh phí 420 III.Chi phí XDCBĐ 230 IV.Các khoản ký quỹ,ký cược DH 240 Tổng cộng Tổng cộng 2.2.3. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 2.1.3.1. Khái niệm kết cấu và ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. *, Khái niệm: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những báo các tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát kết quả chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh theo từng loại hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán và tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước về thuế và các khoản khác *, Kết cấu của báo cáo: Báo cáo gồm 3 phần chính như sau: Phần I: Lãi, lỗ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm. *, Ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho biết toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau một thời kỳ nhất định đồng thời cho biết các yếu tố liên quan đến việc tính toán xác định sản xuất kinh doanh của từng loại hoạt động. Ngoài ra báo cáo báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà Nhà nước của doanh nghiệp về các khoản thuế, phí, lệ phí, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn... 2.2.3.2. Cơ sở số liệu và nguyên tắc lập báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ sở số liệu để lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh kỳ trước, số liệu trên các tài khoản thuộc loại 5” Doanh thu” đến các tài khoản loại 9” Xác định kết quả sản xuất kinh doanh. Để lập phần I: Lấy số liệu trên các tài khoản 333 và các khoản phải nộp Nhà nước và tài khoản 338 “ Các khoản phải trả, phải nộp khác”. Để lập phần II lấy số liệu trên tài khoản 133 ((Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ)) để lập phần III. *, Nguyên tắc lập bảng Phần I: Lãi - Lỗ. -Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh . Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ = Doanh thu thuần Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán = Lợi nhuận gộp. Lợi nhuận từ HĐSXKD = Lợi nhuận gộp - CP quản lý- CP bán hàng -Đối với kết quả hoạt động tài chính. Thu nhập Chi phí Lợi nhuận hoạt động - hoạt động = hoạt động tài chính tài chính tài chính -Đối với kết quả các hoạt động bất thường Thu nhập Chi phí Lợi nhuận hoạt động - hoạt động = hoạt động bất thường bất thường bất thường Tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường được gọi là tổng lợi nhuận trước thuế. Tổng lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập = Lợi nhuận sau thuế . Cột quý trước: Lấy số liệu của cột quý này thuộc báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của quý trước để ghi sang. Cột luỹ kế từ đầu năm được tính bằng cột quý này cộng với luỹ kế từ đầu năm báo cáo quý trước. Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Theo dõi chi tiết từng khoản thanh toán với Nhà nước (thuế, phí lệ, phí, bảo hiểm , kinh phí công đoàn,...) Từng chỉ tiêu được lập theo nguyên tắc : Số còn phải Số phải nộp Số đã Số còn nộp kỳ trước + phát sinh - được nộp = phải nộp chuyển sang trong kỳ trong kỳ chuyển sang Lấy số liệu chi tiết trên các khoản chi tiết tương ứng với từng chỉ tiêu để lập. Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại được miễn giảm. Sau đây là báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tổng quát(Xem biểu ). 2.2.4. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. 2.2.4.1. Khái niệm ý nghĩa của báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng quát phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong báo cáo của doanh nghệp. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ biết được những khả năng thu chi tiền. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là báo cáo cung cấp những thông tin về những sự kiện và nghiệp vụ kinh tế phát sinh có ảnh hưởng đến tình hình tiền tệ của doanh nghiệp, cụ thể là những thông tin về: -Doanh nghiệp đã bằng cách nào kiếm được tiền và chi tiêu như thế nào. -Quá trình đi vay và trả nợ của doanh nghiệp. -Quá trình mua bán lại chứng khoán, vốn của doanh nghiệp và doanh nghiệp khác. -Quá trình thanh toán cổ tức và quá trình phân phối cho chủ sở hữu và các đối tượng khác. Như vậy, qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ, những người quan tâm đến doanh nghiệp sẽ biết được hoạt động nào là hoạt động chủ yếu tạo ra tiền và đã được sử dụng vào những mục đích gì và sử dụng có hợp lý không? 2.2.5.2. Cơ sở để lập báo cáo lưu chuyển *, Theo phương pháp gián tiếp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ được lập căn cứ vào: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đôi kế toán và một số chỉ tiêu có liên quan để ghi các chỉ tiêu của báo cáo. Việc lập báo cáo theo phương pháp này là căn cứ vào lợi tức trước thuế của hoạt động sản xuất kinh doanh cộng thêm chi phí không có tính chất trên và loại trừ các khoản lãi lỗ của hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính đã tính vào lợi tức trước thuế, tiến hành điều chỉnh các khoản thuộc vốn lưu động. Việc điều chỉnh này phụ thuộc vào tính chất của các tài khoản phản ánh tài sản (vốn kinh doanh) có số dư cuối kỳ lớn hơn đầu kỳ (-); ngược lại ghi tăng (+). Nếu tài khoản phản ánh nguồn vốn có số dư lớn hơn số dư đầu kỳ, chứng tỏ dòng tiền của doanh nghiệp đi vào, nên các chỉ tiêu này được ghi tăng (+); Ngược lại ghi giảm (-). *, Phương pháp trực tiếp: Theo phương pháp này, báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập trên cơ sở phân tích thống kê trực tiếp trên sổ kế toán vốn bằng tiền liên quan đến từng hoạt động và chi tiết theo từng chỉ tiêu có liên quan. Phương pháp chung để lập các chỉ tiêu của báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp là căn cứ vào nội dung cụ thể các chỉ tiêu, những chỉ tiêu phản ánh số tiền đi vào doanh nghiệp (sô tiền thu) theo từng hoạt động sẽ được ghi bình thường (biểu hiện số tiền tăng), còn những chi tiêu phản ánh số tiền ra, số tiền chi theo từng hoạt động được ghi bằng số âm (biểu diễn số tiền trong dấu ngoặc đơn). Các chỉ tiêu lưu chuyển tiền thuần của các hoạt động là số cộng đại số của mã số phản ánh trong các hoạt động đó. 2.2.5. Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu B09 - DN). Thuyết minh cáo tài chính được trình bày khái quát đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để sử dụng tình hình và quản lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của doanh nghiệp. Cơ sở dữ liệu để lập thuyết minh báo cáo tài chính: -Các sổ kế toán kỳ báo cáo. -Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo. -Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh kỳ báo cáo. -Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước. 2.3. Nội dung phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng,... từng đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức độ lợi tức tối đa... Vì vậy, khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp góp phần cung cấp thông tin nền tảng quan trọng nhất đó là báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu quan trọng nhất đó là hệ thống báo cáo tài chính kế toán, trong đó tài liệu thường xuyên được sử dụng là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Khi các báo cáo tài chính của doanh nghiệp được phân tích thì các khoản riêng biệt trên báo cáo thường không có nhiều ý nghĩa. Song giữa các khoản mục và nhóm khoản mục cùng với việc biến động phát sinh lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Do đó, phân tích báo cáo tài chính gồm việc mô tả các mối quan hệ giữa các khoản mục và các khoản mục để xác định được các chỉ tiêu cần thiết phục vụ cho nhà doanh nghiệp và các đối tượng khác trong việc ra quyết định để phù hợp với cùng mục tiêu của các đối tượng đó. 2.3.1. Phân tích tài sản và nguồn vốn. 2.3.1.1. Phân tích mối quan hệ của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán. Để nắm bắt được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình hình biến động của các khoản mục trong bảng cân đối kế toán. Về nguyên tắc là nguồn vốn chủ sở hữu doanh nghiệp phải thoả mãn hầu hết các nhu cầu về tài sản lưu động và tài sản cố định của mình. Cụ thể từ bảng cân đối kế toán ta hình thành được cân đối sau. Loại B nguồn vốn = Loại A tài sản + Loại B tài sản (1) Quan hệ đối ứng (1) chỉ mang tính lý thuyết nghĩa là nguồn vốn chủ sở hữu B có đủ trang trải cho các tài sản cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp không cần phải đi vay hoặc cần phải chiếm dụng bên ngoài. Song thực tế cân đối (1) không khi nào sảy ra mà thường xảy ra các trường hợp sau: Vế trái lớn hơn vế phải: Trường hợp này nguồn vốn chủ sở hữu trang trải không hết cho tài sản nên bị các doanh nghiệp hoặc các đối tượng khác chiếm dụng. Vế trái nhỏ hơn vế phải thì kết luận nguồn vốn không thể trang trải hết tài sản nên doanh nghiệp phải đi vay hoặc chiếm dụng vốn hợp lý là những công việc cần thiết để phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên chiếm dụng vốn quá lớn, đặc biệt chiếm dụng vốn bất hợp pháp nhiều dẫn tới tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp bị suy giảm, Công ty luôn đối đầu với công nợ, hoạt động kinh doanh bị đình đốn dẫn tới bị phá sản. 2.3.1.2. Phân tích cơ cấu và biến động tài sản của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường thế mạnh trong cạnh tranh sẽ phụ thuộc vào tiềm lực về nguồn vốn và quy mô tài sản. Song việc phân bổ tài sản như thế nào tỷ trọng từng loại tài sản so với tổng số tài sản ra sao có hợp lý không mới là điều kiện tiên quyết. Vì vậy để phân tích cơ cấu và biến động tài sản của doanh nghiệp là hợp lý hay chưa ta tiến hành hành lập bảng phân tích cơ cấu tài sản(vốn). Trong bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn, ngoài việc so sánh tổng số vốn cuối kỳ so với đầu năm còn phải xem xét tỷ trọng từng loại tài sản trong tổng số và xu hướng biến động của chúng để thấy được mức độ hợp lý của việc phân bổ. Cũng qua việc phân tích cơ cấu tài sản ta biết được tỷ suất đầu tư . TSCĐ và ĐTDH Tỷ suất đầu tư = x 100 Tổng tài sản Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp nó cho biết được năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Trị số của chỉ tiêu này tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh cụ thể. Thông thường tỷ suất đầu tư được coi là hợp lý trong một số nghành nếu đạt trị số sau. -Nghành công nghiệp thăm dò và khai thác dầu mỏ: 0,9 -Nghành công nghiệp luyện kim: 0,7 -Nghành công nghiệp sản xuất chế biến: 0,1 Về tài sản lưu động, tiền và các khoản đầu tư dài hạn tăng hay giảm cần đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với hàng tồn kho và các khoản phải thu. Tuy nhiên để có thể rút ra nhận xét xác đáng và phù hợp cần liên hệ biến động từng loại tài sản này với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn cung cấp vật tư hàng hoá, phương thức thanh toán tiền hàng. Tuỳ theo từng loại kinh doanh để xem xét tỷ trọng từng khoản vốn (tài sản) chiếm trong tổng số là cao hay thấp. Nếu là doanh nghiệp sản xuất phải có lượng dự trữ nguyên vật liệu đầy đủ với nhu cầu sản xuất, nếu là doanh nghiệp thương mại phải có lượng hàng hoá đầy đủ để cung cấp cho nhu cầu bán ra kỳ tới... Nói chung nếu các tình hình khác thông thay đổi mà tỷ suất đầu tư tăng đối với doanh nghiệp sản xuất thì đây là hiện tượng khả quan. Song đối với các chủ doanh nghiệp của các nghành khác như thương mại, dịch vụ.., thì phải cẩn trọng trong việc xem xét tỷ suất này. 2.4.1.3. Phân tích cơ cấu và biến động nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh việc xem xét tình hình hình cơ cấu tài sản, các chủ doanh nghiệp các nhà đầu tư và các đối tượng cần phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm đánh giá được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ động trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu. Đó được phản ánh qua việc xác định “ tỷ suất tự tài trợ “ Nếu tỷ suất này cao thể hiện khả năng về mặt tài chính mạnh hay mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp là tốt. Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ suất._. tự tài trợ = x 100 Tổng nguồn vốn Thông thường “Tỷ suất tự tài trợ” > 50% thì được coi là tốt. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể để có những đánh giá chính xác ta còn phải căn cứ vào quy mô và tính chất hoạt động của từng doanh nghiệp. Nợ phải trả và nguồn vố chủ sở hữu là hai yếu tố cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Cho nên một chỉ tiêu phải quan tâm khác là “Tỷ suất nợ”. Tỷ suất nợ = x 100 = 1- Tỷ suất tự tài trợ Nếu nợ phải trả chiếm chủ yếu trong tổng nguồn vốn hay tỷ lệ này càng cao thì khả năng về mặt tài chính của doanh nghiệp sẽ thấp. Tỷ suất nợ phản ánh vốn vay và vốn đi chiếm dụng trong tổng số vốn của doanh nghiệp. Nếu tỷ suất này >50% thì có thể nhận xét doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn và chủ động vốn kinh doanh khi có thời cơ. Qua việc phân tích đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp giúp cho những người quan tâm đến tình tài chính có những kết quả sơ bộ về mặt mạnh cũng như những thiếu sót và hạn chế còn tồn tại trong công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân tích mới chỉ dừng lại ở mức độ đánh giá khái quát chung... Để có thêm những thông tin cụ thể và chính xác cần đi sâu phân tích một số chỉ tiêu có liên quan đến tình hình tài chính dưới đây. 2.3.1.4. Phân tích tình hình sử dụng vốn kinh doanh. Để phân tích tình hình sử dụng vốn kinh doanh, ngoài việc sử dụng các số liệu của bảng cân đối kế toán còn phải sử dụng bảng thuyết minh báo caó tài chính và các tài liệu chi tiết khác. Khi phân tích, các doanh nghiệp cần phải nắm được nhu cầu về vốn kinh doanh, nhu cầu phải được xác định phù hợp với tính chất, quy mô kinh doanh và thường được thể hiện trong kế hoạch dự trữ tài sản lưu động (hàng tồn kho, nguyên vật liệu...). Khi nhìn vào bảng cân đối kế toán chúng ta có thể xác định được ngay vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng con số đó không phản ánh sát thực bởi vì trong thực tế doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn từ các đối tượng khác để tài trợ cho vốn lưu động. Thực tế mà nói nguồn vốn này rất khó xác định trên bảng cân đối kế toán. Vì vậy, trước khi phân tích chúng ta cần phải xác định nguồn vốn chủ sở hữu lưu động của doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu lưu động là nguồn vốn mang tính chất dài hạn, vốn thường xuyên được coi là bản lề an toàn đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhưng thực tế cho thấy, vốn lưu động của doanh nghiệp được sử dụng trong kỳ còn được tài trợ từ nguồn ngắn hạn. Do vậy, cần phải vào bảng cân đối kế toán và tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu của thuyết minh báo cáo tài chính để xác định tổng số vốn lưu động sử dụng của doanh nghiệp và sự biến động của chúng. Ngoài ra người phân tích còn phải tiến hành nghiên cứu mức độ đảm bảo của nguồn vốn lưu động với các tài sản dự trữ thực tế để phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Tài sản dự trữ của doanh nghiệp phản ánh trên bảng cân đối kế toán gồm mục IV (Hàng tồn kho) và hai phần mục thuộc phần V (Chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển). Việc tính toán mức độ đảm bảo thừa hay thiếu của nguồn vốn lưu động được thể hiện bằng cách lấy nguồn vốn lưu động thực tế trừ đi tài sản dự trữ thực tế. Nếu nguồn vốn lưu động lớn hơn tài sản dự trữ thì đó là mức độ đảm bảo thừa, ngược lại là mức độ đảm bảo thiếu. Khi mức độ đảm bảo thiếu thì doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn còn mức độ đảm bảo thừa thì doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn. Trong thực tế, việc các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau là một tất yếu khách quan và thường xảy ra đối với khách hàng, nhà cung cấp, ngân sách Nhà nước cán bộ công nhân viên và các đơn vị phụ thuộc. Chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng phải xem xét cụ thể trường hợp nào chiếm dụng hoặc bị chiếm dụng là hợp lý để có hướng giải quyết kịp thời. Cũng như nguồn vốn lưu động, nguồn vốn cố định được huy động chủ yếu từ các chủ sở hữu các nhà đầu tư, các cổ đông và phần lợi tức của doanh nghiệp khi phân tích cũng cần phải xác định được nhu cầu về vốn cố định sao cho phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thường được dự kiến trong kế hoạch. Nếu nguồn vốn chủ sỡ hữu kinh doanh không đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu đầu tư về tài sản cố định thì doanh nghiệp cần phải huy động từ các nguồn vốn vay dài hạn. Phân tích nguồn vốn kinh doanh và tình hình sử dụng vốn kinh doanh là việc xem xét đánh giá tình hình phân bổ nguồn vốn kinh doanh như thế nào vào từng mục đích khác nhau. Vì vậy, khi phân tích phải xác định được tỷ trọng từng khoản vốn chiếm trong tổng số vốn, đối chiếu tình hình, nhiệm vụ của doanh nghiệp để xác định tính chất hợp lý của việc sử dụng vốn. 2.3.2. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. 2.3.2.1. Phân tích tình hình thanh toán. Tài liệu để phân tích tình hình thanh toán chủ yếu là bảng cân đối kế toán và bảng thuyết minh bổ sung báo cáo. Qua bảng phân tích có thể thấy được sự tăng nên hay giảm đi của các khoản thu, khoản chi do nguyên nhân nào để xem doanh nghiệp có bị chiếm dụng vốn hay không? Theo dõi số người đặt trước cho người bán để xem xét sự cố gắng của doanh nghiệp trong công tác thu mua, cung ứng vật tư...Tổng quát nhất ta có thể lập bảng phân tích tình hình thanh toán. Để xem xét các khoản phải thu biến động có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp hay không ta cần tính toán chỉ tiêu sau: Tỷ lệ phải thu so với phải trả = x100 Chỉ tiêu này lớn hơn 100% thì có thể kết luận tình hình tài chính của doanh nghiệp có nhiều thuận lợi. 2.3.2.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán. Để biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay không cần phải xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nếu tình hình tài chính của doanh nghiêp tốt thì sẽ ít công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiêp sẽ dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh thuận lợi. Ngược lại, nếu tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn doanh nghiệp nợ nần dây dưa kéo dài, mất tính chủ động trong sản xuất kinh doanh và đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản. Để thấy rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai cần đi sâu vào phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán phải thông qua một số chỉ tiêu kết hợp. *, Khả năng thanh toán tổng quát. Hệ số thanh toán tổng quát = ( lần ) Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 báo hiệu sự phá sản của doanh nghiệp và vốn chủ sở hữu đã bị mất toàn bộ vì tổng giá trị tài sản không đủ trả nợ. *, Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn = ( lần ) Giá trị TSLD gồm: Vốn bằng tiền, tồn kho, phải thu. Hệ số này lớn hơn 1 thì doanh nghiệp có đủ sức trang trải nợ trong kỳ. *, Khả năng thanh toán bằng tiền. Hệ số thanh toán bằng tiền = ( lần ) Hệ số này lớn hơn 1 thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay. Chỉ tiêu này có thể tính cho cả thời kỳ hoặc cho từng giai đoạn (hiện thời tháng tới, quý tới). *, Vòng quay các khoản phải thu. Vòng quay các khoản phải thu = ( vòng) Số BQ các khoản phải thu = Đôi khi số dư cuối kỳ của các khoản phải thu cũng được sử dụng thay thế cho số dư các khoản phải thu cũng được sử dụng thay thế cho số dư bình quân các khoản phải thu. Điều này sẽ được chấp nhận nếu kết quả không có sự chênh lệch lớn. 2.2.3. Phân tích hiệu quả(khả năng sinh lời) của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh. 2.2.3.1. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn. *, Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề then chốt. Nó gắn liền với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thông qua hiệu quả sử dụng vốn ta có thể đánh giá tình hình trang thiết bị cơ sở vật chất, trình độ sử dụng các nguồn nhân tài vật lực của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời sẽ phản ánh chất lượng công tác quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định vốn cố định được tính toán bằng nhiều chỉ tiêu phổ biến là các chỉ tiêu sau: 1. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn CĐ = ( vòng) 2. Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định. Hàm lượng vốn CĐ = 3. Chỉ tiêu doanh lợi vố cố định : chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong năm có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Doanh lợi vốn CĐ = Số vốn cố định B/Q trong năm 4. Chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ: chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá BQTSCĐ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận ròng Sức sinh lời củaTSCĐ = Nguyên giá B/Q của TSCĐ *, Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. -Hiệu quả chung về sử dụng tài sản lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất, sức sinh lời của vốn lưu động, ở đây cần hiểu vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nằm trong lĩnh vực sản xuất - dự trữ - lưu thông. Các chỉ tiêu dùng trong quá trình phân tích như sau: 1. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lưu động, chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng doanh thu trong năm. Hiệu suất sử dụng VLĐ = 2. Chỉ tiêu hàm lượng vốn lưu động chỉ tiêu này phản ánh số lưu động cần có thể đạt được một đồng doanh thu. Hàm lượng VLĐ = 3. Chỉ tiêu mức doanh lợi vốn cố định: chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh lợi vốn lưu động = 4. Chỉ tiêu số lần luân chuyển vốn lưu động: chỉ tiêu này phản ánh một số vòng quay vốn được thực hiện trong một thời kỳ nhất định thường tính là một năm. Tổng mức luân chuyển vốn trong năm Số lần luân chuyển VLĐ trong năm = VLĐ B/Q trong năm 2.3.3.2. Phân tích khả năng sinh lời của vốn. Ngoài việc xem xét hiệu quả kinh doanh dưới góc độ sử dụng tài sản cố định và tài sản lưu động khi phân tích cần phải xem xét hiệu quả sử dụng vốn dưới góc độ sinh lời. Đây là một trong những nội dung được các nhà đầu tư, nhà tín dụng quan tâm đặc biệt vì nó ngắn liền với lợi ích của họ cả về hiện tại và về tương lai. Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn ta cần tính toán các chỉ tiêu sau: *, Khả năng sinh lời của tổng vốn . Khi nhìn vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp phải đăc biệt quan tâm đến khả năng sử dụng tài sản của mình một cách có hiệu quả để mang lại lợi tức cao nhất . Có một chỉ tiêu dùng để giúp cho các chủ doanh nghiệp và kế toán trưởng đánh giá hiệu quả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp, đó là chỉ tiêu tỷ suất lợi tức thuần( lợi tức đã nộp thuế). Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn = x100 Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh nghiệp bỏ ra thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. *, Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu. Tỷ suất lợi nhuận VCSH = x100 Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Từ công thức “Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu” hay “ Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu” ta có mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng. Hệ số doanh lợi VCSH = Dựa vào công thức trên ta thấy “Hệ số doanh lợi vố chủ sở hữu" chịu ảnh hưởng của hai nhân tố . -Nhân tố “hệ số quay vòng vốn chủ sở hữu” nhân tố này phản ánh trong kỳ kinh doanh vốn chủ sở hữu quay được mấy vòng, số vòng của vốn chủ sở hữu cao thì hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu càng tăng và ngược lại. -Nhân tố “Hệ số doanh lợi doanh thu thuần “nhân tố này cho biết một đồng doanh thu thuần đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nhân tố này càng cao thì hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu càng tăng và ngược lại. 2.3.4. Phân tích kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh. +Kết quả sản xuất kinh doanh là kết quả hữu ích do lao động kết hợp với các yếu tố tạo ra. Đây là kết quả cuối cùng thể hiện trình độ sản xuất và trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật có phù hợp với phương hướng của doanh nghiệp hay không. Vì vậy phân tích kết quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp biết được kết quả đó là tốt hay không tốt, để từ đó có những biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Tài liệu sử dụng trong phân tích kết quả sản xuất kinh doanh khi phân tích chúng ta cần xem xét sự biến động của kết quả qua các năm, cơ cấu các bộ phận kết quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế. LNsau thuế = LN từ HĐKD + LN từ HĐBT + LN từ HĐTC + +Thuế TNDN. Ta phân tích kết quả bằng cách so sánh các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả với năm trước, so sánh trong nhiều nămvà xem xét mối quan hệ tạo nên kết quả từ doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Sau đó ta phân tích hiệu quả. Để phân tích được chính xác chúng ta cần xét một số chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu này phản ánh để thu được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng giá vốn. Giá vốn Tỷ lệ giá vốn so doanh thu = x 100 Doanh thu thuần -Tỷ lệ lợi nhuận so doanh thu. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thì tạo ra bao nhiêu đồng lãi gộp. Lợi nhuận gộp Tỷ lệ lợi nhuận so doanh thu = x 100 Doanh thu thuần -Tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý so doanh thu. Chỉ tiêu này phản ánh để thu được một đồng doanh thu thuần thì doanh nghiệp phải mất bao nhiêu đồng chi phí bán hàng và chi phí quản lý. CPBH + CPQL Tỷ lệ CPBH và CPQL so DT = x 100 Doanh thu thuần -Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so doanh thu. Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu thì doanh nghiệp thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Lợi nhuận trước thuế Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế so DT = x 100 Doanh thu thuần -Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so doanh thu. Chỉ tiêu phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao thì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh càng có hiệu quả. Lợi nhuận sau thuế Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so DT = x 100 Doanh thu thuần Như vậy, quá trình phân tích tình tài chính của doanh nghiệp kết thúc sẽ cung cấp những thông tin quan trọng, giúp người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp. Những phân tích ở trên mới chỉ có ý nghĩa tương đối tuỳ thuộc vào mục đích và phạm vi nghiên cứu, tuỳ đối tượng sử dụng thông tin mà có thể lược bớt hoặc phân tích sâu thêm bằng việc đưa ra các chỉ tiêu, tỷ suất có liên quan. Song, những thông tin thu được qua quá trình phân tích này đã cung cấp những đánh giá khái quát nhất, sát thực, phù hợp nhằm mục đích ra quyết định. Phần thứ ba ĐẶC ĐIỂM TỔNG CÔNG TY MÍA ĐƯỜNG I VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. giới thiệu sơ lược về Tổng Công ty mía đường I. 3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Mía Đường I. Tổng Công ty Mía Đường I là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ Nông Nghiệp và chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Nông Nghiệp, các Bộ cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND Tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Tổng Công ty Mía Đường I là doanh nghiệp hoạch toán kinh tế độc lập có đầy đủ tư cách pháp nhân có tài khoản tại ngân hàng và có con dấu riêng để giao dịch theo quy định của Nhà nước. Tiền thân của Tổng Công ty Mía Đường I là liên hiệp các xí nghiệp Công Nông Mía Đường (gọi tắt là liên hiệp Mía ĐườngI) được thành lập theo quyết định 69/HĐBTngày 1-6-1982 của hội đồng Bộ trưởng. Từ năm1982 đến 1989, liên hiệp hoạt động trong cơ chế hành chính bao cấp; đã có nhiều đóng góp trong việc xây dưng và phát triển nghành Mía Đưòng hoàn thành được nhiệm vụ mà Bộ giao trong các lĩnh vục mở rộng diện tích gieo trồng, tăng năng suất, xây dựng cơ sở sản xuất, tổ chức lao động và đã có nhiều đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Từ năm 1990 đến năm 1996 với mô hình quản lý là liên hiệp Mía Đường với 7 đơn vị thành viên thực hiện giá trị tổng sản lượng hàng năm đạt mức tăng bình quân từ 8% đến 16%. Từ năm 1996 đến năm 2000 đã thực hiện quản lý tổng hợp theo mô hình của tổn Công ty 90 với 14 doanh nghiệp trực thuộc và thực hiện chức năng quản lý nghành sản xuất mía đường khu vực phiá Bắc. Trong những năm qua thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII với mục tiêu đến năm 2000 sản xuất đạt 1 triệu tấn đường, ngành Mía Đường phía Bắc và Tổng Công ty Mía Đường I đã góp phần đáng kể nhờ toàn bộ nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài. Kết quả việc đầu tư tài chính và phát triển ngành Mía Đường phía Bắc. Trước khi đầu tư phía Bắc chỉ có 5 nhà máy đường lớn với công suất thiết kế đạt 3950 tấn mía/ngày. Sản lượng đường đạt hơn 30 nghìn tấn/ năm. Tới năm 2000 đã có 15 nhà máy với tổng công suất 30700 tấn mía/ ngày, sản lượng đường đạt 248 nghìn tấn/năm. Diện tích trồng mía tới năm 2000 của phía Bắc đạt hơn 50 nghìn ha (Tăng gấp 6 lần so với trước khi thực hiện trương trình). Tổng Công ty Mía Đường do khai thác và sử dụng các nguồn vốn vay trong nước và nước ngoài đã trực tiếp góp phần hoàn thành các dự án đầu tư sau: 1. Thực hiện liên doanh với nước ngoài xây dựng nhà máy đường Việt - Đài trong đó Tổng Công ty Mía Đường I đã vay và góp vốn 4.620.000USD. 2. Mở rộng xây dựng dây chuyền 4000 tấn mía /ngày của Công ty dương Lam Sơn từ các nguồn vốn vay trong nước 500 tỷ đồng. 3. Nhà máy đường Sơn Dương 120 tỷ (trong đó vay trả chậm của Trung Quốc 4720 USD tương đương với 52,014tỷ, vay ADB đặt cọc 1.180.000 USD). 4. Nhà máy đường Nông Cống 158,8 tỷ (trong đó vay vốn ODA ấn Độ là 195 triệu RuPi tương đương với 63,366 tỷ đồng). 5. Nhà máy đường Linh Cảm 124 ty (trong đó vay trả chậm Trung Quốc 5920 USD vay ADB đặt cọc 888000 USD). 6. Nhà máy đường Quảng Bình 128 tỷ (trong đó vay trả chậm Trung Quốc 7465 USD tương đương 58,1 tỷ vay ADB đặt cọc 1027800 USD). 7. Dây chuyền sản xuất bia việt trì 71tỷ. Dây chuyền mở rộng sản xuất của Công ty Thiết Bị Thực Phẩm 50.6 tỷ (trong đó vay nước ngoài là 38,9tỷ). Cùng với việc khai thác các nguồn vốn trong nước và nước ngoài như trên, các đơn vị thành viên của Tổng công ty đã khai thác các nguồn vốn vay thương mại và vốn tự có để phát triển sản xuất nâng tổng số vốn của Tổng Công ty năm1996 là 260563 tỷ đồng đến nay là 1089tỷ đồng ( vay nước ngoài 342 tỷ, tăng 417,8% làm năng lực sản xuất của Tổng Công ty tăng 330,7% tính theo tỷ lệ tăng của giá trị tổng sản lượng năm 2000 /1996). Các khoản nộp ngân sách Nhà nước năm 1996 là 27,481 tỷ năm 1999 đạt 33,107 tỷ đạt mức tăng 120,47% trong đó là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của việc khai thác đầu tư tài chính còn các hiệu quả về xã hội theo như đánh giá tổng kết 5 năm thực hiện chương trình mía đường cả nước đó là khai thác nội lực để công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nông nghiệp và nông thôn. -Tổng Công ty Mía Đường I có tên giao dịch quốc tế là: VIET NAM SUGAR CANE AND CORPORATION I Viết tắt là VINA SUGARI. Trụ sở chính tại 5B Minh Khai-Quận Hai Bà Trưng- Thành Phố Hà Nội. 3.1.2. Chức năng hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng Công ty mía đường I. Chịu sự quản lý của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước. Tổng Công ty có các quyền sau: Có quyền quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác của Nhà nước giao theo quy định của pháp luật có quyền giao lại cho các đơn vị thành viên quản lý, sử dụng. Có quyền đầu tư liên doanh, liên kết góp vốn cổ phần mua một phần hoặc bán toàn bộ tài sản của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý, tổ chức kinh doanh đổi mới công nghệ trang thiết bị của mình. Được mời và tiếp đối tác kinh doanh nước ngoài. Được sử dụng vốn và các quỹ của Tổng Công ty để phục vụ kịp thời các nhu cầu kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn có hiệu quả. Được hưởng các chế độ ưu đãi được đầu tư hoặc tái đầu tư theo quy định của Nhà nước. Hoạt động theo nguyên tắc hạch toán tập trung đối với các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty và hạch toán kinh tế tổng hợp trên cơ sở hạch toán đầy đủ của các đơn vị thành viên. Các đơn vị trực thuộc Tổng Công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế nội bộ. Các đơn vị thành viên của Tổng Công ty hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế có tư cách pháp nhân, tài khoản tại ngân hàng và con dấu riêng, có điều lệ hoạt động theo quy định của Nhà nước và của Tổng Công ty. *, Các đơn vị thành viên của Tổng Công ty Mía Đường I: 1. Công ty Bánh Kẹo Hải Châu. Công ty Thiết Bị Thực Phẩm . Công ty Đường Trà Vinh. 4. Công ty liên doanh Việt Nam- Đài Loan . 5. Công ty Đường Sơn Dương . 6. Công ty Kỹ Nghệ Thực Phẩm. 7. Công ty Đường Quảng Bình . 8. Công ty Đường Linh Cảm. 9. Công ty Chế Biến Thực Phẩm Vĩnh Hà. 10. Công ty Đường Rượu - Bia Việt Trì. 11. Công ty Đường Lam Sơn. 12. Công ty Đường Nông Cống. 13. Công ty Đường Vạn Điểm. 14. Trung tâm Kinh Doanh Thương Mại Dịch Bộ máy tổ chức của Tổng Công ty Mía Đường I được thể Tổng giám đốc Phòng kỹ thuật Phòng kế hoạch đầu tư Phòng tổ chức Phòng tài chính kế toán Phòng kiểm toán nội bộ Phòng nguyên liệu Trung tâm thương mại Phòng hành chính hiện ở sơ đồ sau: Tồn tại và phát triển trong điều kiện kinh tế đang đổi mới từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, Tổng Công ty Mía Đường I đã từng bước tổ chức lại sản xuất xắp xếp lại lao động đổi mới mặt hàng nhằm đẳm bảo cho sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. 3.1.3. Điều kiện kinh tế của Tổng Công ty. 3.1.3.1. Tình hình lao động và sử dụng lao động của Tổng Công ty Biểu1: Tình hình lao động của Tổng Công ty qua 3 năm CHỈ TIÊU 1998 1999 2000 So sánh(%) Số lượng Cơ cấu Số lượng cơ cấu Số lượng Cơ cấu 1999/ 1998 2000/ 1999 Bình quân Tổng số lao động 4291 100 5964 100 3945 100 138,9 66,1 95,88 1. Phân theo T/c lđ +Lao động gián tiếp 515 12,0 716 12,0 474 12,0 139,0 66,20 95,93 +Lao động trực tiếp 3776 88,0 5248 87,9 3471 87,9 138,9 66,13 95,86 2. Phân theo gới tính +Nam 2141 50,0 3544 59,4 2129 55,6 165,5 61,85 101,2 +Nữ 2150 50,0 2420 40,6 4 44,4 112,6 72,43 90,28 3. Phân theo trình độ lao động +Trên đại học 3 0,7 3 0,1 3 0,07 - - - +Đại học cao đẳng 323 7,5 339 5,7 298 7,55 104,9 87,91 96,05 +Trung cấp 500 11,6 500 8,4 484 12,3 - 96,8 - +Công nhân 3465 80,7 5122 85,7 3160 80,1 147,8 61,96 95,49 (Nguồn: Phòng nhân sự) Lao động là một trong những yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm của tất cả các ngành sản xuất. Trong tất cả các ngành thì yếu tố con người, nguồn nhân lực đã đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nó góp phần làm tăng năng xuất lao động, tăng trưởng nền kinh tế. Do vậy các doanh nghiệp muốn đạt được lợi nhuận tối đa thì cần phải kết hợp và sử dụng các nguồn nhân lực hợp lý có hiệu quả. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy lao động năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 nhưng đến năm 2000 thì lao động cuả Tổng Công ty đã giảm so với năm 1999 là 33,9%. Sự giảm lao động đó là do năm qua ngành đường làm ăn thua lỗ, nên Tổng Công ty đã giảm bớt số lao động đi. Bên cạnh đó lao động nữ của các năm đều giảm đi so với lao động nam. Về trình độ lao động tỷ số lao động trên đại học qua các năm là không tăng và mới chỉ có 3 người trên đại học. Điều đó cho thấy số lao động có trình độ cao ở Tổng Công ty còn ít. Tuy nhiên Tổng Công ty đã tạo điều kiện đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh thông qua việc cử cán bộ công nhân viên học các lớp nghiệp vụ và tham gia hội thảo để tiếp cận với các kiến thức mới về kinh tế thị trường, kiến thức về quản trị kinh doanh, giúp cán bộ công nhân viên hiểu biết hơn để vận dụng trong các hoạt động kinh doanh của mình. 3.1.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật. Qua biểu 2 ta thấy tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty tăng lên qua các năm. Riêng chỉ có đất của Tổng Công ty là giảm đi một cách rõ rệt cụ thể là năm 1999 giảm so năm 1998 là 95,13%. Giảm này là do trong năm 1999 Tổng Công ty đã điều động đi 1891,994 triệu đồng và đến năm 2000 thì vẫn giữ nguyên về nhà cửa và vật kiến trúc thì tăng lên cụ thể là năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 là 1,32% và năm 2000 tăng hơn so với năm 1999 là 77,07%, tốc độ tăng bình quân đạt 133,94%. Tăng lên như vậy là ro Tổng Công ty đã đầu tư và mua sắm thêm máy điện thoại và máy điều hoà, vi tính nên cơ sở vật chất kỹ thuật qua các năm đều tăng. Còn về tài sản cố định phúc lợi của Tổng Công ty qua 3 năm đều không tăng. (Xem biểu 2) 3.1.3.3. Kết quả hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường với chính sách mở cửa đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp luôn phải thực sự quan tâm tới đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp mình. Sự tồn tại của doanh nghiệp gắn liền với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Là một doanh nghiệp Nhà nước vì vậy Tổng Công ty luôn tìm mọi cách để vừa đảm bảo lợi ích kinh tế cũng như vừa đảm bảo được lợi ích xã hội. Qua biểu 3 ta thấy tổng doanh thu của Tổng Công ty không tăng mà có xu hướng giảm đi trong năm vừa qua. Tổng doanh thu của năm 2000 giảm so với năm 1999 là 14,9%. Sự giảm tổng doanh thu đó là do giá đường của năm 2000 trên thị trường trong nước cũng như trên thế giới giảm đáng kể, trong khi đó sản lượng đường của Tổng Công ty vẫn tăng qua mấy năm, bên cạnh đó thì doanh thu của sản phẩm sau đường như bánh kẹo cũng giảm so với trước. Cụ thể năm 1999 tổng doanh thu của kẹo đạt 3397 triệu đồng thì đến năm 2000 chỉ đạt 3198,6 triệu đồng và bánh cũng vậy năm 1999 đạt 5518 triệu đồng thì năm 2000 chỉ đạt 5052,1 triệu đồng. Trong khi đó sản lượng sản suất vẫn nhiều nhưng lượng tồn kho cũng không ít. Bên cạnh đó thì chi phí lại tăng qua các năm điều này làm cho lợi nhuận của Tổng Công ty bị giảm. Cụ thể như chi phí quản lý và chi phí bán hàng tăng rất nhiều so với năm trước. Như chi phí bán hàng của năm 1999 tăng hơn so với năm 1998 là 46,68% và năm 2000 so với 1999 là 14,06% do giá đường giảm mà doanh nghiệp lại muốn bán được nhiều hàng lên Tổng Công ty đã tăng chi phí bán hàng lên bằng cách tăng cường quảng cáo và khuyến mại...Với mục đích sẽ giảm bớt được lượng hàng tồn kho. Không những chi phí quản lý chi phí bán hàng tăng mà chi phí hoạt động tài chính tăng một cách đáng kể, vì Tổng Công ty còn thiếu vốn lên số vốn là do đi vay với lãi xuất cao và đi vay của các nước bằng tiền USD và do tỷ giá ngoại tệ tăng nhanh lên Tổng Công ty hàng năm phải trả lãi rất nhiều cộng thêm phần chênh lệch tỷ giá.Vì vậy lợi nhuận sau thuế của Tổng Công ty giảm xuống một cách nhanh chóng dẫn đến thua lỗ, cụ thể là năm 2000 Tổng Công ty đã lỗ 11724,4 triệu đồng.Mặc dù lợi nhuận của Công ty bị giảm đi nhưng vẫn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhìn chung, trong mấy năm vừa qua lợi nhuận của Tổng Công ty đã bị giảm xuống một cách nhanh chóng trong khi đó thì chi phí lại tăng lên gây ảnh hưởng không tốt. bởi vậy Tổng Công ty cần phải kịp thời đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để tránh tình trạng thua lỗ như hiện nay. 3.2. Phương pháp nghiên cứu. 3.2.1. Phương pháp chung. Phương duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp cơ bản nền tảng, xuyên suốt quá trình nghiêp cứu các nội dụng cơ bản của đề tài. Sử dụng phương pháp này nhằm nghiên cứu xem xét sự vật hiện tượng trong mối quan hệ tác động lẫn nhau và vận động phát triển không ngừng. Dựa trên cơ sở những gì đã sảy ra mà phát hiện kiểm chứng các quy luật tính chất của sự vật hiện tượng. Từ đó có thể phát hiện bổ sung tái hiện quy luật và tìm cách giải quyết. 3.2.2. Phương pháp chuyên môn. 3.2.2.1. Phương pháp thống kê kinh tế. Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng xã hội tương đối lớn, thông qua cái đa dạng cái phức tạp đó chúng ta rút ra được các quy luật các hiện tượng. 3.2.2.2. Phương pháp so sánh. Phương pháp so sánh là dùng các số liệu thu thập được so sánh với nhau khi nghiên cứu biến động và xu hướng thay đổi của một hiện tượng thông qua chỉ tiêu cần so sánh chúng theo thời gian. Phân tích báo cáo tài chính là một tập hợp các khái niện, phương pháp và công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán thông qua báo cáo tài chính và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Trong khi phân tích báo cáo tài chính người ta thường sử dụng các phương pháp sau: 3.2.2.3. Phương pháp phân tích ngang. Phân tích ngang là phương pháp so sánh theo thời gian (tức là so sánh với năm trước hay so sánh với nhiều năm). So sánh các chỉ tiêu trong báo cáo của doanh nghiệp với doanh nghiệp khác, và so sánh các chỉ tiêu trong báo cáo thực hiệnvới báo cáo dự toán. +So sánh theo thời gian: So sánh năm trước, quý trước. So sánh với năm trước là dùng nó để viết các báo cáo đánh giá năm, báo cáo này được công bố trước hội nghị cổ đông, các nghành. Tăng giảm so năm trước = số năm nay - số năm trước. Số thực hiện năm nay Tỷ lệ tăng giảm so với năm trước = Số thực hiện năm trước Bên cạnh đó cũng có những trường hợp phải so sánh qua nhiều năm. khi đánh giá qua nhiều năm thường sử dụng số tương đối để so sánh và ta thường dùng bảng để so sánh. +So sánh các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Ta thường so sánh với các doanh nghiệp có sản phẩm giống nhau hay là những doanh nghiệp có điều kiện kinh doanh giống nhau để so sánh một số chỉ tiêu. +So sánh các chỉ tiêu trong báo cáo thực hiện với báo cáo dự toán. Đối với nền kinh tế thị trường thì trong kinh doanh công tác dự toán được đặt lên hàng đầu và khi có dự toán rồi thì chúng ta sẽ thực hiện và so sánh kết quả thực hiện với dự toán. +So sánh tuyệt đối được thể hiện bằng phép trừ với một chỉ tiêu mức tăng giảm so với dự toán. So sánh tương đối nó được thể hiện bằng phép chia. Số thực hiện Tỷ lệ thực hiện so dự toán = Số dự toán Mức tăng giảm Số dự toán Tỷ lệ tăng giảm so dự toán = 3.2.2.4. Phương pháp phân tích dọc. Là phân tích mối quan hệ theo chiều dọc trong một báo cáo để xem xét quan hệ giữa các chỉ tiêu trong báo cáo đó. -Ta thường xem xét chỉ tiêu này với chỉ tiêu khác trong một báo cáo thì ta sử dụng phép chia hoặc phép trừ. -Ta làm rõ mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên trong một báo cáo bằng cách xác định cơ cấu như là cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn . 3.2.2.5. Phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tí._.dụng vốn sao cho có hiệu quả thì Tổng Công ty cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo mục tiêu kinh doanh của Tổng Công ty. 4.1.4.2. Phân tích khả năng sinh lời của vốn. Qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động ta đã biết được phần nào về khả năng sinh lời của vốn. Thực ra khi nhìn vào cái vỏ xù xì cái vỏ lép xẹp ta biết ngay được cái bên trong. Để chứng thực điều đó ta cần bóc trần cái vỏ bề ngoài nó sẽ phơi bày cho ta tất cả. Việc phân tích khả năng sinh lời vốn cũng vậy ta cần phân tích rõ để kết luận khách quan về khả năng sinh lời vốn ở hiện tại cũng như trong thời gian tới ta cần đi vào nghiên cứu và tính toán các chỉ số sinh lời. Vì các chỉ số sinh lời luôn được các nhà quản trị quan tâm. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ nhất định, là đáp số sau cùng của hiệu quả kinh doanh, và còn là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Để phân tích khả năng sinh lời của vốn ta đi tính toán các chỉ tiêu sau: (1) Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn (ROI) = Hay Tỷ suất LN vốn = Doanh lợi doanh thu x Vòng quay của vốn Tổng vốn đầu năm + Tổng vốn cuối năm Tổng vốn bình quân sử dụng = 2 Lợi nhuận sau thuế (2)Tỷ suất lợi nhuận VCSH (DoanhlợiVCSH) = Vốn chủ sở hữu B/Q Vốn CSH đầu năm + Vốn CSH cuối kỳ Vốn chủ sở hữu BQ = 2 Doanh thu thuần (3)Hệ số vòng quay vốn CSH = Vốn chủ sở hữu B/Q (4) Hệ số doanh lợi doanh thu thuần = Tỷ suất lơi nhuận tổng vốn ROI là chỉ tiêu đo lường mức độ sinh lời của đồng vốn. Tỷ suất này phản ánh một đồng vốn bình quân được sử dụng trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 1998 thì cứ một đồng vốn tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh thì nó tạo ra cho Tổng Công ty 0,027 đồng lợi nhuận, năm 1999 thì 1 đồng vốn tham gia vào kinh doanh nó tạo ra cho Tổng Công ty 0,010 đồng lợi nhuận và giảm so với năm 1998 là 0,016 đồng và cho đến năm 2000 thì khi một đồng vốn tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh lại phải bù lỗ một khoản là 0,011 đồng. Qua đây ta thấy qua 3 năm hoạt động kinh doanh ở Tổng Công ty đã có sự biến động to lớn về nguồn cũng như hiệu quả của vốn kinh doanh. Ta thấy rằng tỷ suất lợi nhuận tổng vốn đã giảm dần qua 3 năm và giảm rất nhanh như năm 2000 giảm so với năm 1999 là 0,021 đồng và năm 200 so với năm 1998 là giảm 0,038 đồng. Từ đây ta có thể kết luận rằng Tổng Công ty kinh doanh kém hiệu quả trong khi quy mô về vốn đã có sự tăng lên rất nhiều, như phân tích ở phần trên do Tổng Công ty sử dụng vốn còn lãng phí nhiều nên dẫn đến lợi nhuận giảm, và đi đến lỗ, do đặc điểm sản xuất kinh doanh đường mang tính chất mùa vụ và chịu nhiều ảnh hưởng của thiên nhiên, vì mấy năm vừa qua do bão lũ sảy ra nhiều làm hư hỏng nhiều vùng nguyên liệu dẫn tới việc thu mua đầu vào trở lên khan hiếm, giá cả lên cao thêm vào đó thì công suất hoạt động của các nhà máy không được phát huy ở mức tối đa làm cho lãng phí nhiều, bên cạnh đó nó phụ thuộc vào sự biến động của nền kinh tế đất nước, các chính sách của Nhà nước, như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tiền tệ. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) của Tổng Công ty năm 1998 là 0,0963. Nghĩa là khi các yếu tố khác không đổi thì một đồng vốn chủ sở hữu khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra 0,0963 đồng lợi nhuận đây là một tỷ số lợi nhuận không hấp dẫn lắm đối với các nhà đầu tư vì tỷ số này còn thấp, năm 1999 thì một đồng vốn chủ sở hữu tham gia vào một hoạt đồng sản xuất kinh doanh sẽ được 0,065 đồng lợi nhuận. Nhưng sang năm 2000 thì cứ mỗi một đồng vốn chủ sở hữu tham gia vào hoạt động kinh doanh là phải bù lỗ một khoản là 0,0917 đồng, điều này cho thấy là với tỷ số này thì không thể hấp dẫn được các nhà đầu tư vì tỷ số này ngày càng bị giảm xuống mạnh, sự giảm xuống này là do 2 nguyên nhân sau: Do hệ số quay vòng vốn chủ sở hữu thay đổi và do hệ số doanh lợi doanh thu thuần thay đổi. Sở dĩ ta có kết luận được nó bị ảnh hưởng bởi 2 nguyên nhân này là vì từ công thức tỷ suất lợi nhuận vốn từ sở hữu ( hay doanh lợi vốn chủ sở hữu) ta có mối liên hệ sau. Tỷ suất LN sau thuế Doanh thu thuần LN sau thuế lợi nhuận = + + VCSH Vốn CSH B/Q Vốn CSH B/Q Doanh thu thuần = Hệ số quay vòng vốn CSH x Hệ số doanh lợi DT thuần. Từ mối quan hệ trên ta đi vào xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận vốn CSH. = 3,4137 x 0,0346 - 2,7843 x 0,0346 D tỷ suất lợi nhuận VCSH (Vòng quay vốn CSH) 1999 = 0,118-0,096 = 0,022 = 0,056 - 0,118 = - 0,061 D tỷ suất lợi nhuận VCSH (Doanh lợi DT thuần ) 2000 D tỷ suất LN VCS = Tổng hợp 2 nhân tố trên: + D tỷ suất lợi nhuận VCSH D tỷ suất LN VCSH Vòng quay VCSH doanh lợi DT thuần -0,039 = 0,022 +(- 0,061) Như vậy tỷ suất lợi nhuận VCSH năm1999 giảm so với năm1998 là 0,039 đồng là do hệ số vòng quay vốn chủ sở hữu tăng làm cho tỷ suất lợi nhuận vốn CSH tăng 0,022 đồng bên cạnh đó do hệ số doanh lợi doanh thu thuần giảm làm giảm tỷ suất lợi nhuận vốn CSH là 0,061 đồng. +Tỷ suất lợi nhuận vốn CSH của năm 2000 giảm so với năm 1999 là 0,148 đồng tương ứng giảm 62,30% là do 2 nguyên nhân sau. +Tỷ suất lợi nhuận VCSH thay đổi là do hệ số vòng quay vốn CSH thay đổi. = 3,287 0,016 - 3,4130,016= - 0,002 D Tỷ suất lợi nhuận VCSH ( Vòng quay vốn CSH) + Tỷ suất lợi nhuận VCSH thay đổi do hệ số doanh lợi doanh thu thuần. = 3,287x(-0,027) - 3,287x0,016 = -0,145 D Tỷ suất lợi nhuận VCSH (Doanh lợi doanh thu thuần) Tổng hợp 2 nhân tố ảnh hưởng trên + D Tỷ suất LN VCS = D Tỷ suất LN VCSH D Tỷ suất LN VCSH . vòng quay VCSH doanh lợi DT thuần Û - 0,148 = - 0,02 + (- 0,145 ) Như vậy là tỷ suất lợi nhuận VCSH năm 2000 giảm so năm 1999 là 0,148 đồng là do hệ số vòng quay vốn chủ sở hữu giảm làm giảm khả năng sinh lời của VCSH là 0,002 đồng và hệ số doanh lợi doanh thu làm giảm khả năng sinh lời VCSH là 0,145 đồng. +Tỷ suất lợi nhuận VCSH của năm 2000 giảm so năm 1998 là 0,18 đồng là do 2 nguyên nhân đó là hệ số vòng quay vốn và hệ số doanh lợi doanh thu thuần. Tương tự cách tính trên bằng phép thay thế liên hoàn ta thấy năm 2000 giảm so năm1999 là do hệ số vòng quay VCSH tăng làm tăng khả năng sinh lời của VCSH 0,017 đồng bên cạnh đó do giảm doanh lợi doanh thu thuần giảm làm giảm khả năng sinh lời VCSH đi 0,205 đồng. Qua đây ta thấy rằng tỷ suất lợi nhuận VCSH của Tổng Công ty giảm dần qua 3 năm là do lợi nhhuận sau thuế của Tổng Công ty giảm của Tổng Công ty giảm và doanh thu thuần của Tổng Công ty thì tăng giảm không theo quy luật, bên cạnh đó thì VCSH tăng dần qua các năm điều này cho thấy Tổng Công ty đã sử dụng vốn không được tốt hay là sử dụng kém hiệu quả. Hệ số vòng quay VCSH là phản ánh trong kỳ VCSH quay vòng được mấy lần. Năm 1998 khi một đồng VCSH tham gia vào hoạt động kinh doanh sẽ thu được 2,784 đồng doanh thu thuần, năm1999 tạo ra được 3,413 đồng và năm 2000 tạo ra được 3,287 đồng doanh thu thuần. Từ đó ta thấy số vòng quay của VCSH tăng giảm không theo quy luật, vào năm 1999 có số vòng quay lớn nhất, nhưng sang năm 2000 thì vòng quay lại giảm xuống, đây là tín hiệu không tốt cần phải có biện pháp khắc phục kịp thời. Hệ số doanh lợi doanh thu thuần năm 1998 với tổng mức doanh thu đạt được là 384724,15 triệu đồng Tổng Công ty có hệ số doanh lợi doanh thu thuần là 0,0346 đồng trên một đồng doanh thu, tức là nếu Tổng Công ty cứ bán thêm một đồng doanh thu thì lợi nhuận của Tổng Công ty sẽ tăng thêm được là 0,034 đồng, đây là một tỷ số không tốt vì nó quá nhỏ và chỉ có nghĩa khi Tổng Công ty bán được rất nhiều sản phẩm, hàng hoá với mức doanh thu cực lớn thì lượng tuyệt đối về lợi nhuận mới khả quan, ở đây Tổng Công ty mới đạt được mức doanh thu mức hạn chế, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu còn thấp. Trong năm 1999 doanh thu của Tổng Công ty đã đạt được ở mức cao nhất là 467332,66 triệu đồng nhưng bên cạnh đó thì lợi nhuận của Tổng Công ty giảm xuống chỉ còn là 7739,54 triệu đồng do vậy mà hệ số doanh lợi của Tổng Công ty đã giảm xuống còn 0,016 đồng nghĩa là khi đầu tư một đồng vốn vào hoạt động sản suất kinh doanh thì tạo ra được 0,016 đồng lợi nhuận, vào năm 2000 thì mức doanh thu đạt được có giảm hơn so với năm 1999 và lợi nhuận trên doanh thu là âm và có giá trị là(-0,027) đồng, tức là mỗi một đồng doanh lợi được thực hiện thì Tổng Công ty phải bù lỗ một khoản cho đồng vốn bỏ ra là 0,02 đồng. Qua biểu 18 ta thấy được hệ số doanh lợi của Tổng Công ty đang bị giảm mạnh về các năm sau. Năm 1999 giảm so với năm 1998 là 0,018 đồng năm 2000 giảm so với năm1999 là 0,011 đồng. Từ việc phân tích trên cho ta thấy mối quan hệ giữa lợi nhuận và doanh thu là rất chặt chẽ, doanh thu sẽ quyết định tổng lợi nhuận và được quy định bởi hàm lượng lợi nhuận có trong doanh thu từ đó Tổng Công ty cần tiến hành đồng thời tỷ lệ lợi nhuận trong doanh thu và tăng tổng doanh thu để tổng mức lợi nhuận cao hơn. Hệ số vòng quay tổng vốn năm 1998 là 0,875 lần năm 1999 là 0,64 lần giảm so với năm 1998 là 0,144 lần, năm 2000 giảm so với năm 1999 là 0,243 lần, qua đây ta thấy hệ số vòng quay tổng vốn đang giảm mạnh vào những năm sau sự giảm xuống này là do Tổng Công ty tăng vốn đầu tư lên nhiều trong khi đó thì doanh thu thu được là rất ít và giảm xuống, điều này chứng tỏ Tổng Công ty hoạt động kém hiệu quả. Qua nghiên cứu ta thấy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hệ số doanh lợi tổng vốn, tỷ suất lợi nhuận tổng vốn. Ta có thể dùng sơ đồ sau để hiểu nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh lợi vốn của Tổng Công ty qua 3 năm. Ta có Sơ đồ nguyên nhân ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận tổng vốn (ROI) qua 3 năm( Xem sơ đồ trang bên ) 4.1.5. Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty qua 3 năm. Kết quả kinh doanh chính là một yếu tố cuối cùng mà Tổng Công ty đạt được trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với bất cứ một đơn vị nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh thì mục tiêu đầu tiên họ quan tâm là kết quả hoạt động đó như thế nào? Lợi nhuận ra sao? Phần lợi nhuận này có ý nghĩa rất quan trọng đối với Tổng Công ty và các đơn vị khác có liên quan. Vì nó phản ánh kết quả của một quá trình sản xuất kinh doanh và đây cũng là một trong những cơ sở chính để đi đến kết luận về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty trong kỳ, là đầu mối để tìm ra nguyên nhân tác động làm tăng giảm lợi nhuận. Như vậy để phân tích ta có thể lập bảng phân tích kết quả sản xuất kinh doanh dựa vào báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh( Phần lỗ-lãi) của Tổng Công ty qua 3 năm. Qua biểu 19 ta thấy được kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty qua 3 năm và việc quan tâm đầu tiên của các nhà phân tích đó là lợi nhuận, qua đây ta thấy lợi nhuận trước thuế của năm 1998 là 19585,89 triệu đồng năm 1999 chỉ còn là 11381,68 triệu đồng, sự giảm sút lợi nhuận này quả là một điều đáng lo ngại song điều đáng lo ngại hơn là sang năm 2000 thì doanh nghiệp đã bị lỗ là 10899,89 triệu đồng, điều đó cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty đang đi xuống kết quả sản xuất giảm một cách nhanh chóng. Sự giảm xuống của lợi nhuận trước thuế do lợi nhuận của các hoạt động khác giảm xuống, mà lợi nhuận trước thuế bằng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh cộng với lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Nên ta có thể xét đến lợi nhuận của từng hoạt động, ta thấy lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh đạt 22257,42 triệu đồng năm 1998, sang năm 1999 còn có 3788,73 triệu đồng giảm đi 18468,69 triệu đồng nhưng điều đáng chú ý hơn cả vào năm 2000 thì lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh đã bị lỗ 15712,93 triệu đồng, trong khi đó thì thu nhập bất thường lại tăng hơn so với những năm trước, điều này cho thấy Tổng Công ty đã thiếu chú trọng trong sản xuất, chưa thực sự khắc phục những mặt còn hạn chế tài sản cố định thường xuyên được thanh lý, việc vi phạm kỷ luật trong đơn vị thường xuyên tăng lên. Do vậy thu nhập bất thường của Tổng Công ty chủ yếu thu từ việc thanh lý và nộp phạt là chủ yếu. Như chúng ta đã biết, lợi nhuận bằng doanh thu trừ đi chi phí, như vậy lợi nhuận đạt được đã chịu ảnh hưởng của không ít những nhân tố, nên để khai thác các tính tích cực đồng thời khắc phục những điểm còn hạn chế, ở các nhân tố này ta có thể phân tích đối với từng nhân tố. Doanh thu năm 1999 đã tăng hơn so với năm 1998 là 82608,51 triệu đồng. Nhưng sang năm 2000 thì doanh thu thuần lại giảm so với năm 1999 là 47017,65 triệu đồng, ở đây ta lấy số tăng năm trước bù cho năm sau mà vẫn không đủ, như vậy ta thấy năm nay tình hình làm ăn của Tổng Công ty đã nằm trong tình trạng khủng hoảng vì số doanh thu thuần thu được thì thấp và giảm đi so với năm trước, trong khi đó thì chi phí lại tăng lên và cao hơn so với doanh thu. Sở dĩ doanh thu thuần giảm như vậy là do yếu tố giá cả tác động đến và thêm vào đó là do số lượng sản phẩm tiêu thụ giảm so với năm 1999 là 465,9 tấn bánh và 198,4 tấn kẹo, và cồn cũng giảm đi 391 lít và một số sản phẩm khác. Tóm lại, nhìn một cách toàn diện về hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty, trong những năm qua ta có thể kết luận được rằng kết quả hoạt động của Tổng Công ty còn kém. Để có kết luận chính xác về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài việc phân tích đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh ta cần phải phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trước hết để phân tích ta có thể dựa vào biểu 19 để lập bảng phân tích một số chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh, căn cứ vào đây ta có thể đánh giá sự biến động của các chỉ tiêu. Qua biểu 20 ta thấy: *, Tỷ lệ giá vốn so doanh thu của Tổng Công ty đang tăng dần qua các năm, cụ thể là năm 1998 tỷ lệ đó là 0,839 đồng nghĩa là để tạo ra được 1 đồng doanh thu thì Tổng Công ty phải bỏ ra là 0,83 đồng vốn và sang năm 2000 thì để tạo ra được một đồng doanh thu thì Tổng Công ty đã phải bỏ ra là 0,85 đồng vốn tức là tăng hơn so với 2 năm trước là 0,01 đồng. Sự tăng lên này là một điều bất lợi cho Tổng Công ty, vì giá vốn tăng chính là giá thành tăng lên, đó là nguyên nhân làm cho số lãi của Tổng Công ty giảm xuống. Biểu 20 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty qua 3 năm CHỈ TIÊU 1998 1999 2000 1999 So1998 2000so 99 2000 so 98 1. Tỷ lệ giá vốn /DT 0,84 0,84 0,85 0 0,01 0,01 2. Tỷ lệ lợi nhuận gộp /DT 0,16 0,15 0,15 -0,01 0 -0,01 3. Tỷ lệ (CPBH+CPQL)/DT 0,1 0,15 0,19 0,05 0,04 0,09 *, Tỷ lệ lợi nhuận gộp của năm 1999 giảm so năm 1998 là 0,01 đồng, tỷ lệ này giảm là một điều dễ hiểu vì lợi nhuận gộp bằng doanh thu thuần trừ đi giá vốn hàng bán, trong khi đó tỷ lệ giá vốn so doanh thu tăng lên do đó tỷ lệ lợi nhận gộp so doanh thu sẽ giảm. *, Tỷ lệ chi phí bán hàng và chi phí quản lý so doanh thu cũng ngày một tăng lên và để tạo ra một đồng doanh thu thì Tổng Công ty đã bỏ ra 0,1 đồng chi phí quản lý và chi phí bán hàng năm 2000 để tạo ra 1 đồng doanh thu thì Tổng Công ty đã phải bỏ ra 0,19 đồng chi phí quản lý và chi phí bán hàng trong đó thì chi phí quản lý là chiếm phần nhiều điều này cho thấy Tổng Công ty vẫn còn một bộ máy quản lý cồng kềnh và công tác quản lý còn kém hiệu quả. Tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và sau thuế của Tổng Công ty ở năm 2000 là một số âm. Qua đây ta thấy ở năm 1998 và năm 1999 Tổng Công ty hoạt động đã có hiệu quả tuy hiệu quả không cao, nhưng sang năm 2000 thì Tổng Công ty đã hoạt động không những không mang lại hiệu quả mà còn làm thua lỗ một khoản tương đối lớn. Vì vậy Tổng Công ty cần có ngay những biện pháp hữu hiệu để khắc phục ngay tình trạng làm ăn thua lỗ này. 4.2. một số biện phápchủ yếu nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường đều mong muốn có những biện pháp để nâng cao khả năng về tài chính của doanh nghiệp mình từ đó tự chủ hoàn toàn về sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên mong mỏi này không phải doanh nghiệp nào cũng làm được. Cho nên việc nghiên cứu các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như nâng cao khả năng tài chính là rất quan trọng và cần thiết. Nó sẽ tạo cho doanh nghiệp những hướng giải quyết nhất định, trên cơ sở lý luận, thực tiễn kinh doanh và kinh nghiệm của mình đơn vị nào nắm bắt và áp dụng tốt sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó để có những biện pháp thiêt thực ta cần phải biết được thực trạng sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Qua nghiên cứu và khảo sát tình hình tài chính cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty Mía Đường I ta thấy rằng: Mía Đường là một ngành sản xuất có mối liên quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giá trị đầu tư phát triển sản xuất lớn đòi hỏi sự giúp đỡ và hỗ trợ từ nhiều nghành, nhiều cấp chính quyền. Trong khi đó kết quả sản xuất lại chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố rủi ro. Thời tiết khắc nghiệt, mưa bão, lũ lụt, hạn hán,sương muối....điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông thuỷ lợi rất kém dẫn tới hạn chế nhiều tới hiệu quả sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy Tổng công Mía Đường còn gặp nhiều khó khăn vì việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ chưa đáp ứng với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, Tổng Công ty còn thiếu vốn. Vì vậy trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh còn bộc lộ một số vấn đề tồn tại cần khắc phục. Do đó xét thấy cần phải đưa ra một số biện pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những tồn tại còn hạn chế của Tổng Công ty. Qua phân tích và đánh giá tình hình tài chính tại Tổng Công ty tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty. 4.2.1. Biện pháp về huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì không thể thiếu vốn, muốn sản xuất kinh doanh thì phải có vốn và lượng vốn nhiều hay ít phụ thuộc vào doanh thu lớn hay nhỏ. Vì vậy giải pháp quan trọng hàng đầu là những giải pháp về huy động vốn bao gồm mở rộng và tìm thêm nguồn vốn như vay để đầu tư vào sản xuất, huy động từ lợi nhuận thu được qua quá trình sản xuất. Tuy nhiên, nguồn vốn bổ sung của Tổng Công ty không đáng kể vì lợi nhuận thu được thấp. Hiện tại vốn của Tổng Công ty chủ yếu là vốn đi vay, nguồn vốn chủ sở hữu rất thấp do vậy khả năng sinh lời của vốn không cao. Bên cạnh đó bằng mọi biện pháp phải hạn chế đến chấm dứt ngay các tình trạng sản xuất không có lãi thua lỗ kéo dài, công nợ dây dưa. Cần huy động các nguồn vốn phục vụ cho phát triển vùng nguyên liệu, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm sau đường để nâng cao hiệu quả sản xuất. 4.2.2. Biện pháp kế hoạch hoá công tác quản lý vốn. *, Kế hoạch hoá công tác quản lý vốn cố định Trong quá trình sản xuất kinh doanh sự vận động của vốn cố định gắn liền với hình thái biểu hiện vật chất của TSCĐ.Vì vậy để sử dụng vốn cố định ta cần phải có kế hoạch quản lý vốn về mặt hiện vật và về mặt giá trị. Các đơn vị thành viên trong Tổng Công ty đã lập bảng kế hoạch sử dụng TSCĐ qua từng năm nhưng chưa sử dụng hết các chỉ tiêu vì vậy Tổng Công ty cần có kế hoạch chỉ đạo các đơn vị mình có thêm chỉ tiêu sau: -Công suất: Chỉ tiêu về công suất sẽ cho ta biết được máy móc thiết bị Công ty đang sử dụng đã hết công suất chưa, máy móc sử dụng trong thời gian này thuộc loại nào so với trình độ tiên tiến của khoa học. -Thời gian sản xuất sản phẩm: Cho biết máy móc thiết bị đã sử dụng bao nhiêu thời gian vào sản xuất sản phẩm do vậy mà có thể dự kiến trước được thời gian cần sửa chữa. Sau khi có kế hoạch sử dụng các tài sản cố định của từng đơn vị thành viên trong thời gian tới thì Tổng Công ty phải tập hợp thành các nhóm tài sản cố định với: Công suất sử dụng so với công suất thiết kế, thời gian sử dụng số lượng bao nhiêu.... Do Tổng Công ty có nhiều đơn vị thành viên nằm rải rác ở các tỉnh nên việc quản lý và sử dụng tài sản cố định gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy Tổng Công ty cũng cần phải kiểm tra sát sao và phải có trách nhiệm với kế hoạch sử dụngTSCĐ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người lao động đảm bảo giữ gìn máy móc thiết bị và có hình thức thích đáng với những người gây thiệt hại tới TSCĐ của Tổng Công ty. Tổng Công ty cũng cần bố trí dây truyền hợp lý, phù hợp để có thể khai thác tối đa công suất TSCĐ, nâng cao năng suất lao động, tăng lợi nhuận cho Tổng Công ty. Ngoài ra phải có kế hoạch xem xét đánh giá lại TSCĐ khi có biến động về giá cả trên thị trường để tính đúng tính đủ khấu hao vào giá thành. Việc đánh giá lại TSCĐ nên tiến hành định kỳ 6 tháng hoặc một năm hay hơn nữa, tuỳ vào loại tài sản cố định để từ đó có thể phân tích việc đầu tư của Tổng Công ty có phù hợp với mức độ sử dụng hay không. *, Kế hoạch hoá công tác quản lý vốn lưu động. Tổng Công ty phải thường xuyên đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động qua hệ thống các chỉ tiêu, nhanh chóng thu hồi các khoản nợ tồn đọng, tăng cường tiêu thụ các sản phẩm tồn kho. Bên cạnh đó phải lập kế hoạch vốn lưu động hàng năm, cân đối giữa nhu cầu vốn, xác định nguồn vốn bị thiếu hụt. Hàng năm trên cơ sở số liệu thực hiện của năm trước cùng với kêt quả kiểm tra, phân tích dự báo thị trường, phòng kế hoạch cùng với các đơn vị kế hoạch luân chuyển thu mua hàng hoá. Dựa vào kế hoạch này từ đó lập kế hoạch vốn, đề ra định mức vốn hợp lý cho từng khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh để trên cơ sở đó tiết kiệm được số vốn lưu động. 4.2.3. Biện pháp về công tác thanh toán. Trong điều kiện hiện nay thì việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Qua nghiên cứu thực trạng tài chính ta thấy công tác thanh toán có vai trò rất quan trọng đối vơí tình hình huy động và sử dụng vốn của Tổng Công ty. Nếu Tổng Công ty không đôn đốc thu hồi nhanh các khoản nợ thì vốn sẽ do các đơn vị khác chiếm dụng do đó nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh. Để hạn chế bớt lượng vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông Tổng Công ty cần thực hiện những biện pháp sau : -Khi ký hợp đồng với khách hàng cần nắm rõ đối tượng về các mặt như khả năng tài chính của các bạn hàng, tình hình sản xuất kinh doanh....qua các thông tin đó Tổng Công ty mới lựa chọn ký kết với bạn hàng có khả năng thanh toán mạnh. -Khi ký hợp đồng bán hàng hoá Tổng Công ty với khách hàng cần phải thoả thuận trong hợp đồng phần phạt hành chính nếu khách hàng hoàn trả chậm, giảm giá cho những khách hàng trả tiền ngay, không lấy cước phí vận chuyển bốc xếp cho những khách hàng được phép thanh toán chậm trong một khoản thời gian ngắn. -Trong công tác quản lý tài chính trong thời gian tới Tổng Công ty nên sử dụng chỉ tiêu vòng quay các khoản phải thu và kỳ thu tiền .... để có thể đánh giá chính xác và nắm bắt được thực trạng khả năng thu hồi vốn trong công tác thanh toán. 4.2.4. Biện pháp về tổ chức sản xuất. Hiện nay trên thị trường trong nước và nước ngoài ngày càng đòi hỏi phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường luôn được Tổng Công ty coi là mục tiêu hàng đầu vì vậy các yếu tố đầu vào có vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra sản phẩm, giảm được chi phí nguyên vật liệu. Chi phí nguyên vật liệu chính là mía mà mía là cây nông nghiệp có tính tươi sống vì vậy cần phải có kế hoạch thu mua để tránh tình trạng mua ồ ạt về để qua nhiều ngày sẽ làm giảm hàm lượng đường dẫn đến giảm chất lượng sản phẩm. 4.2.5. Biện pháp tìm kiếm thị trường và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nói đến hoạt động sản xuất kinh doanh là phải nói đến thị trường tiêu thụ mới có mối quan hệ mật thiết đến các kế hoạch của doanh nghiệp, từ đầu tư mua nguyên liệu đầu vào cho đến việc tiêu thụ sản phẩm làm ra. Thực hiện tiêu thụ được sản phẩm đó doanh nghiệp mới hoàn thành quá trình hoạt động kinh doanh. Có tiêu thụ được sản phẩm thì doanh thu mới được thực hiện, từ đó mới xác định kết quả của từng hoạt động đây cũng là nguyên nhân quan trọng làm giảm tốc độ vòng quay của vốn kinh doanh. Tổng Công ty Mía Đường I sản phẩm sản xuất ra chủ yếu tiêu thụ trong nước chưa có sản phẩm xuất khẩu. Như vậy Tổng Công ty còn gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ, thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp. Do đó việc tìm kếm thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của Tổng Công ty là vô cùng cần thiết. Tìm kiếm thị trường đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm cũng là biện pháp hữu hiệu giúp Tổng Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình. Nhằm đẩy mạnh mở rộng thị trường và đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm, tôi thấy Tổng Công ty cần xem xét những ý kiến sau: Tổng Công ty có những biện pháp tổ chức sản xuất đáp ứng yêu cầu thị trường về chất lượng, mẫu mã, giá cả... củng cố mạng lưới đại lý tiêu thụ mở rộng thị phần trong và ngoài nước, phấn đấu có mặt hàng xuất khẩu trong những năm tới kể cả đường kính và các sản phẩm sau đường: như bánh kẹo, bia rượu...Kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý Nhà nước về thị trường để chống hàng nhập lậu, hàng giả, hàng làm nhái. Để có được những thông tin chính xác và cần thiết giúp cho các đơn vị trực thuộc của mình mở rộng được thị phần. Tổng Công ty nên lập ra bộ phận marketing bộ phận này sẽ trực thuộc quản lý trực tiếp của phòng kế hoạch. Với mục đích nhu cầu thị trường, từ đó đề ra các chiến lược Marketing phù hợp với từng điều kiện kinh doanh cụ thể. Do đó yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ của bộ phận này là những người có kiến thức, trình độ am hiểu về kinh tế thị trường và có kinh nghiệm lâu năm trong công tác kinh doanh. Mặt khác là nhân viên Marketing cần là người trẻ tuổi, năng động có khả năng giao tiếp đáp ứng mọi yêu cầu Marketing đề ra. Có được yêu cầu này đội ngũ cán bộ Marketing mới có thể đáp ứng được các yêu cầu về công tác Marketing của Tổng Công ty, giảm lượng thành phẩm tồn kho, tăng doanh thu, tăng tốc độ chu chuyển vốn lưu động. 4.2.6. Biện pháp về hoạt động của bộ máy quản lý trong Tổng Công ty Trong những năm gần đây hoạt động của bộ máy quản lý của Tổng Công ty chưa đem lại hiệu quả cao đặc biệt là bộ phận kế toán của Tổng Công ty hiện tại vẫn làm hoàn toàn bằng thủ công. Tổng Công ty cần phải căn cứ vào tình hình hoạt động của Tổng Công ty để có kế hoạch sắp xếp đội ngũ quản lý để hạn chế các khoản chi phí, vì Tổng Công ty có khoản chi phí quản lý là tương đối lớn. Tổng Công ty nên sử dụng máy tính phục vụ cho công tác quản lý cũng như công tác kế toán để giảm bớt lao động thủ công và tăng năng suất lao động. Phần thứ năm Kết luận và kiến nghị 5.1.Kết luận. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm trước toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Khi tham gia vào thị trường các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh, cùng chấp nhận sự cạnh tranh tự do và chịu sự điều tiết của thị trường thông qua giá cả. Chính vì vậy để đứng vững và thắng thế trên thương trường là vấn đề vô cùng khó khăn đối với các doanh nghiệp, nó đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải có những bịên pháp, chiến lược phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đảm bảo tốt cho hoạt động tài chính của mình. Là đơn vị hoạch toán kinh doanh độc lập hoạt động trong cơ chế thị trường, Tổng Công ty cùng tồn tại và cạnh tranh bình đẳng với các đợn vị khác. Do vậy đòi hỏi Tổng Công ty phải phân tích báo cáo tài chính để đánh giá đúng thực trạng tài chính của mình, trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu hoặc quyết định phương hướng trong thời gian tiếp theo . Qua phân tích tình hình tài chính ta thấy, nhìn chung tình hình tài chính của Tổng Công ty còn gặp nhiều khó khăn như: -Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán còn ở mức thấp chưa đạt được như quy định. Việc thu hồi nợ của Tổng Công ty không được tốt vì số ngày trung bình để thu các khoản phải thu là quá dài. Nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn nên ngoài vốn tự có và vốn ngân sách cấp Tổng Công ty còn phải vay thêm một khoản tiền lớn ở ngân hàng do đó hàng năm phải trả một khoản tiền lãi làm cho lợi nhuận giảm. Sau thời gian nghiên cứu tại Tổng Công ty Mía Đừơng I kết hợp với những lý luận đã học ở trường tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Phân tích báo cáo tài chính tại Tổng Công ty mía Đường I” trong chuyên đề này tôi đã tìm hiểu và trình bày những lý luận chung về phận tích tài chính của doanh nghiệp cũng như công việc phân tích thực tế tại Tổng Công ty mía Đường I. Qua đó giúp ích cho tôi củng cố trau dồi kiến thức chuyên môn về lý luận và thực tế. 5.2 Kiến nghị. Qua phân tích thực trạng tài chính tại Tổng Công ty tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau : *, Đối với Tổng Công ty : Cần phải huy động thêm nguồn vốn cố định bởi vì nguồn vốn tự có không đủ để trang trải cho tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Công tác phân tích tình hình tài chính chưa được chú trong một cách đúng mức mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá chung, chưa có những giải pháp xác đáng đối với tình hình tài chính của Tổng Công ty, vì vậy phải tiến hành phân tích tình hình tài chính. *, Đối với bộ chủ quản : Hiện nay các nhà máy mới đã đi vào hoạt động nhưng vốn lưu động chưa được cấp đủ như dự án được duyệt. Đề nghị chính phủ và các bộ nghành quan tâm giúp đỡ cấp đủ vốn lưu động cho các doanh nghiệp . *, Đối với Nhà nước. -Tạo điều kiện giúp đỡ Tổng Công ty tìm kiếm nguồn vốn, tăng sức mạnh của Tổng Công ty như xây dựng chính sách khuyến khích các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào nghành đường nói chung và Tổng Công ty Mía Đường I nói riêng . Đề nghị với Nhà nước cho các nhà máy đường vay ưu đãi đối với phần vốn vay trồng mía để doanh nghiệp đầu tư cho nông dân. Qua quá trình thực tập tại Tổng Công ty, em đã chon đề tài phân tích báo cáo tài chính tại Tổng Công ty mía đường I làm đề tài thực tập tốt nghệp. Qua việc phân tích kết quả Tổng Công ty đã đạt được và những tồn tại mà Tổng Công ty cần khắc phục, tôi mạnh dạn đóng góp một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh tại Tổng Công ty trong thời gian tới. Hy vọng rằng với khả năng còn hạn chế, tôi có thể đóng góp phần nào vào quá trình phát triển của Tổng Công ty. Do trình độ và thời gian có hạn, chắc chắn đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng tập thế cán bộ kế toán trong Công ty. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS.TS. Phạm Thị Mý Dung và các thầy cô giáo trong khoa cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên trong Tổng Công ty đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập này./. Contents ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT1230.doc
Tài liệu liên quan