mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta cần phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó là đòi hỏi tất yếu khách quan. Nhưng muốn có con người XHCN thì phải có một gia đình mẫu mực, bởi gia đình quyết định một phần rất lớn tới bản chất con người. Gia đình hiện nay còn được xem là tế bào của xã hội, do vậy
108 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
muốn có một xã hội phát triển và lành mạnh thì cần phải có các gia đình tốt - gia đình văn hóa mới. Gia đình là cái nôi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục con người cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn luôn quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật hôn nhân và gia đình có vai trò góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ HN và GĐ tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, bền vững. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ HN và GĐ theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những người công dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
Mặc dầu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập như vậy, song hiện nay các vụ án về HN và GĐ vẫn phát sinh và có chiều hướng gia tăng, đòi hỏi Tòa án phải ADPL để giải quyết các loại án này. Nghiên cứu về ADPL trong giải quyết án hôn nhân nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên trong gia đình. Thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, tránh tình trạng phân biệt đối xử, tình trạng bạo lực trong gia đình.
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Tòa án là trung tâm có vai trò quan trọng trong hệ thống cơ quan tư pháp và Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước tiến hành hoạt động xét xử các loại án nói chung và HN và GĐ nói riêng. Trong những năm qua, việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ đã giải quyết được những mâu thuẫn bất hòa trong gia đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình ADPL giải quyết án HN và GĐ vẫn còn những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải quyết còn để tồn đọng dây dưa kéo dài, có vụ còn bị sửa, hủy gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua, số lượng án về HN và GĐ có phần tăng. Đối với loại án này mỗi vụ án có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác nhau, nên việc ADPL để giải quyết loại án này gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình giải quyết án HN và GĐ ở Thái Nguyên trong những năm qua đã đạt được những kết quả nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hòa trong hôn nhân, bảo vệ các quyền lợi các quyền lợi hợp pháp của đương sự. Thông qua việc ADPL trong việc giải quyết án HN và GĐ đã góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật, giữ ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế XHCN trên toàn tỉnh Thái Nguyên. Đồng thời, hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nẩy sinh trong lĩnh vực về hôn nhân, còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật, nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn APPL trong giải quyết án HN và GĐ sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các điều khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và xét xử phúc thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện có những thiếu sót của việc ADPL trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa, hủy; một số ít vụ án còn bị dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi các đương sự. Trong hoạt động xét xử, TAND tỉnh Thái Nguyên cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như xét xử oan sai, án tồn đọng còn nhiều, còn có vụ án vi phạm thời hạn tố tụng. Đặc biệt, một số vụ án do ADPL không chuẩn xác, nên còn bị sửa, hủy nhiều lần, kéo dài nhiều năm, gây ảnh hưởng đến đời sống, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhân dân khiếu kiện vượt cấp lên đến các cơ quan Trung ương. Tồn tại trên là những lực cản cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: "áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Qua đề tài này, tôi mong muốn góp phần nâng cao chất lượng ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ của ngành Tòa án nói chung và TAND tỉnh Thái Nguyên nói riêng, góp phần đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách nền tư pháp ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và ADPL trong giải quyết án HN và GĐ nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài như: TS Đặng Quang Phương (1999), "Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án", Tạp chí TAND số: 7, 8; Th.s Nguyễn Văn Cừ (2000), “Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Luật học số: 4; Trần Thị Quốc Khánh (2004), “Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc đến hòa giải ở sơ sở ngày nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11; Bùi Văn Thuấn (2002), “Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng và chung”, Nhà xuất bản Phụ nữ; Trương Kim Oanh (1996), "Hòa giải trong tố tụng dân sự", Luận văn thạc sỹ Luật học; Th.s Nguyễn Phương Lan (2005) "Một số ý kiến về vợ chồng nhận nuôi con nuôi", Tạp chí Luật học số 2; Th.s Nguyễn Hồng Hải (2003), "Bàn về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam hiện nay"; Khoa Nhà nước và Pháp luật- Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2004), "Lý luận chung về nhà nước và pháp luật", Hà Nội…
Qua nghiên cứu những công trình nêu trên cho thấy, các tác giả chỉ đề cập mặt này hay mặt khác của việc ADPL trong quá trình giải quyết án HN và GĐ, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ nói chung, cũng như ở Thái Nguyên nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Là việc ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình ADPL để giải quyết án HN và GĐ của các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2004.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích luận văn:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ.
+ Đánh giá thực tiễn của việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái Nguyên.
+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Xây dựng khái niệm, ADPL trong giải quyết án HN và GĐ và phân tích các đặc điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của việc ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ.
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên và rút ra các nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của hạn chế.
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Tòa án; hoàn thiện các QPPL nhằm đảm bảo ADPL trong giải quyết án HN và GĐ; kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của Thẩm phán, cán bộ Tòa án và HTND… nhằm đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề ADPL giải quyết án HN và GĐ.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, làm rõ những đặc thù của loại án này ở tỉnh Thái Nguyên.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL giải quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái Nguyên và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ tỉnh Thái Nguyên có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên. Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận trong lĩnh vực này.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh luật HN và GĐ.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật và không chuyên luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng, cho những người đang trực tiếp làm công tác giải quyết án HN và GĐ tại TAND nói chung và TAND tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của tòa án nhân dân
1.1. khái niệm đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của cơ quan quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp luật được ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vậy thực hiện pháp luật là gì? Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hành động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các QPPL rất phong phú cho nên hình thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế, không tiến hành những hoạt động hay hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực chủ động thực hiện các quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định.
- áp dụng pháp luật (hiểu một cách khái quát) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước dựa vào pháp luật để trao quyền cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân để căn cứ vào các quy định pháp luật ban hành các quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
Quan niệm ADPL như vừa nêu trên được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội: Chẳng hạn để ADPL hình sự nhằm buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp luật hình sự thì nhà nước đã trao quyền cho Toà án và Toà án căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật hình sự để xét xử ra một bản án (văn bản ADPL hình sự) buộc kẻ phạm tội phải chịu một hình phạt nhất định. Hoặc để bảo vệ an toàn giao thông, Nhà nước bằng pháp luật đã quy định cho các chiến sỹ cảnh sát giao thông có quyền áp dụng các quy phạm pháp luật giao thông ra các quyết định xử phạt hành chính đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật giao thông như vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược chiều... Ngoài ra, trong một số trường hợp, Nhà nước cũng cho phép một số tổ chức xã hội được ADPL, như pháp luật về Hội cho phép một số tổ chức xã hội được ADPL ra các quyết định tuyển nhân viên vào làm việc trong tổ chức của mình.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể nắm quyền lực Nhà nước. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì ADPL là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước. ADPL là hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp luật tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy định của nó đều được thực hiện triệt để, bởi vì ADPL luôn có sự can thiệp của nhà nước.
Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có lúc không được thực hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước.
Nghiên cứu ADPL cho thấy có các đặc điểm sau:
Một là, ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định cho mỗi loại cơ quan nhà nước được quyền áp dụng một số loại văn bản pháp luật nhất định trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, chỉ có các cơ quan Công an, Viện kiểm sát và Toà án mới được ADPL hình sự để điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm tội. Còn UBND các cấp không được ADPL hình sự.
Hai là, ADPL là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện: Cơ quan ADPL áp dụng theo ý chí đơn phương mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bị áp dụng. Việc thực hiện các quy định trong văn bản ADPL được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Ba là, ADPL là một hoạt động được tiến hành theo một thủ tục tố tụng rất chặt chẽ. Chẳng hạn, muốn ADPL hình sự phải thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự.
Bốn là, ADPL là một hoạt động sáng tạo. Nghĩa là, khuôn khổ của pháp luật cho phép người ADPL phải vận dụng tri thức khoa học của mình để ADPL sáng tạo mà không rập khuôn, máy móc.
áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế bằng một chế tài thích hợp đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, khi cần cưỡng chế một hình phạt tù đối với kẻ thực hiện hành vi phạm tội thì các cơ quan bảo vệ pháp luật như Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp luật hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, ra bản án, ấn định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ phải chấp hành hình phạt đã nêu trong bản án đó.
- Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn, Điều 55 của Hiến pháp năm 1992 quy định: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân", nhưng quyền và nghĩa vụ đó chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền tuyển dụng công dân đó vào làm việc.
- Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia QHPL mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn, khi phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng dân sự mà hai bên không bàn bạc giải quyết được nên phải nhờ đến Tòa án và Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật ra một bản án xác định các quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
- Thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp, chứng nhận đăng ký kết hôn...
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm: ADPL là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, các cá nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật để đề ra một văn bản ADPL làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Trước khi nguyên cứu khái niệm ADPL trong giải quyết HN và GĐ, ta cần làm rõ khái niệm HN và GĐ.
1.1.2.1. Khái niệm hôn nhân và gia đình
* Khái niệm hôn nhân: Trước hết hôn nhân là hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà. Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân mang tính giai cấp. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân là sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Quan hệ này là quan hệ giới tính, thực chất và ý nghĩa của nó biểu hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng, giáo dục con cái, đáp ứng cho nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phù hợp với lợi ích giai cấp mình, xã hội nào thì có hình thái hôn nhân đó và tương ứng với chế độ hôn nhân nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có hình thức hôn nhân phong kiến, mang bản chất của hôn nhân phong kiến. Trong xã hội tư bản có hình thức hôn nhân tư sản mang bản chất của xã hội tư sản. Xã hội XHCN có hình thức của hôn nhân xã hội chủ nghĩa.
ở nước ta hiện nay, hôn nhân theo Luật HN và GĐ Việt Nam là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng theo quy định của pháp luật để chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hoà thuận và bền vững. Khoản 6, Điều 8 Luật HN và GĐ năm 2000 giải thích: "Hôn nhân là quan hệ giữa người vợ và chồng sau khi đã kết hôn".
* Khái niệm gia đình: Rộng hơn khái niệm hôn nhân, hôn nhân là mối quan hệ giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, là tiền đề xây dựng gia đình. Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau, gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau mang tính chất và kết cấu của gia đình cũng khác nhau. Gia đình XHCN là hình thái cao nhất trong lịch sử, chế độ XHCN quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia đình XHCN. Quan hệ bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình XHCN phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
ở Việt Nam Khoản 10, Điều 8 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định: "Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau" [36, tr.13].
Như vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ, ông bà… cùng chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Trong quá trình chung sống phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. HN và GĐ là những hiện tượng xã hội mà luôn luôn được các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học... nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa lợi ích của mỗi công dân, nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN và GĐ là phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước" (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng: Chế độ gia đình trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã hội đó và bước chuyển từ hình thái gia đình này lên hình thái gia đình khác cao hơn suy cho cùng được quyết định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Bằng tác phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan điểm trước đây về hình thái HN và GĐ trong lịch sử.
Tại các Điều 9, 10, 11, chương X, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc kết hôn, để được công nhận hôn nhân hợp pháp; việc đăng ký kết hôn phải tuân theo các quy định của pháp luật và việc ly hôn cũng như giải quyết các quan hệ liên quan đến hôn nhân cũng được tiến hành theo trình tự pháp luật nhất định, các bước phải được tuân thủ theo Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì được áp dụng theo Luật Hôn nhân và gia đình.
1.1.2.2. áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình - Khái niệm và đặc điểm
* Về khái niệm ADPL trong giải quyết án HN và GĐ:
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Tòa án là cơ quan xét xử, nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể hiểu Tòa án là cơ quan xét xử. Các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của Tòa án, Điều 127, Hiến pháp 1992 đã quy định: "Tòa án NDTC, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN" [29, tr.171]. Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 1, Luật Tổ chức TAND quy định về chức năng xét xử của Tòa án: "Tòa án xét xử những vụ án về hình sự, dân sự, HN và GĐ, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật" [29, tr.7].
Trong quá trình xét xử tòa án phải ADPL để giải quyết các vụ án. Đối với các vụ án HN và GĐ, Tòa án phải ADPL để giải quyết kể từ khâu phân loại đơn, thụ lý đơn, điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh, định giá tài sản… cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tùy từng vụ án cụ thể mà phân loại giải quyết khác nhau như: Quyết định di lý, vụ án tạm đình chỉ, đình chỉ, công nhận hòa giải thành, công nhận thuận tình ly hôn hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Hoạt động giải quyết án HN và GĐ cụ thể được giao cho một Thẩm phán chịu trách nhiệm từ khi nhận đơn thụ lý. Trình tự các bước giải quyết án HN và GĐ trước đây phải tuân theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1986, nay được áp dụng theo Bộ luật Tố tụng dân sự nước CHXHCNVN năm 2004. Theo quy định khi đương sự gửi đơn đề nghị giải quyết vụ án HN và GĐ đến TAND cấp có thẩm quyền giải quyết, sau khi nhận đơn Tòa án tiến hành phân loại và thụ lý giải quyết theo trình tự tố tụng, như điều tra thu thập chứng cứ vụ án, lựa chọn QPPL, ra các quyết định hoặc ra bản án buộc các đương sự thi hành bằng nhiều hình thức như, tự nguyện thi hành hoặc có sự cưỡng chế thi hành của cơ quan thi hành án dân sự.
Ngoài cơ quan Tòa án ADPL, giải quyết án HN và GĐ còn có sự tham gia của Viện Kiểm sát nhân dân (cùng cấp) trong giai đoạn điều tra. Kiểm soát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, như tham gia định giá tài sản, yêu cầu điều tra bổ sung... tham gia phiên tòa xét xử và được phát biểu về việc giải quyết vụ án, thực hiện quyền công tố tại phiên tòa. Tuy nhiên, TAND là cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong việc giải quyết vụ án HN và GĐ. Nếu Viện kiểm sát từ chối không tham gia giai đoạn điều tra và xét xử, thì vụ án vẫn được Toà án tiến hành giải quyết theo quy định của pháp luật. Hầu hết trong các giai đoạn ADPL, hoạt động giải quyết án HN và GĐ do Tòa án trực tiếp giải quyết mà không phụ thuộc vào các chủ thể khác.
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ của TAND:
áp dụng pháp luật của trong giải quyết án HN và GĐ có những đặc điểm như sau:
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ chỉ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, đó là hệ thống TAND. Toà án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền ADPL để giải quyết án HN và GĐ. Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ADPL để giải quyết các vụ án HN và GĐ.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự và các QPPL của Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Khi tiến hành giải quyết một vụ án HN và GĐ, các trình tự xây dựng hồ sơ từ khâu thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định hoặc vụ án đưa ra xét đều phải tuân theo các bước như đã quy định trong Luật Tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ là một hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước, Tòa án được nhà nước trao quyền để lựa chọn các QPPL và ADPL trong giải quyết án HN và GĐ.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ là một hoạt động mang tính khoa học và sáng tạo do Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện. Chỉ có Thẩm phán, Hội đồng xét xử trực tiếp giải quyết vụ án HN và GĐ mới được áp dụng các QPPL, sao cho phù hợp và khoa học để giải quyết án HN và GĐ. Trong khuôn khổ của pháp luật cho phép, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ADPL sáng tạo, nghĩa là dựa vào trí tuệ và niềm tin nội tâm của mình để ADPL.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều vụ án đa dạng, phức tạp. Tuy cùng một loại án về HN và GĐ nhưng tính chất từng vụ án cũng khác nhau, trong các vụ án các đương sự có thiện chí cùng nhau hướng đến giải quyết vụ việc đơn giản có thể thực hiện việc giải quyết vụ án trong một thời gian ngắn, nhưng nếu có sự tranh chấp thì vụ việc phải tuân thủ theo các bước của Luật Tố tụng dân sự.
Dựa trên cơ sở khái niệm ADPL và từ sự phân tích về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ nêu trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm: ADPL trong giải quyết án HN và GĐ là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước mà trong đó nhà nước thông qua các Thẩm phán, hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật hôn nhân, gia đình và các quy định khác của pháp luật để ra một quyết định cá biệt, hoặc một bản án làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật về HN và GĐ.
1.2. các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
áp dụng pháp luật giải quyết án HN và GĐ nói riêng của TAND, là sự biểu hiện cụ thể của ADPL nói chung. Do tính đa dạng của tranh chấp về HN và GĐ như một bên kiên quyết xin ly hôn, một bên kiên quyết xin đoàn tụ, tranh chấp con hoặc tranh chấp về tài sản trong hôn nhân… cùng những quy định về thủ tục tố tụng khi giải quyết các vụ án do pháp luật quy định, nên ADPL trong việc giải quyết án HN và GĐ có bốn giai đoạn sau:
Một là, phân tích những tình tiết khách quan của vụ án HN và GĐ làm rõ các đăng trưng pháp pháp lý của vụ án:
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn ADPL, giải quyết án HN và GĐ. Trong hoạt động này, Tòa án phải xác định loại việc, thẩm quyền thuộc Tòa án cấp nào giải quyết, hoặc thông báo cho các đương sự quyền được lựa chọn Tòa án. Do vậy, khi thụ lý vụ án cần thu thập các thông tin liên quan đến vụ án như đơn phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú, sao nộp đăng ký kết hôn, xác định nơi có hộ khẩu cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của đương sự, nguyện vọng của các đương sự lựa chọn Toà án nào giải quyết và các giấy tờ khác có liên quan để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Để phân tích các tình tiết khách quan của vụ án HN và GĐ thì phải tiến hành điều tra xác minh, làm rõ nội dung vụ án. Tuy nhiên, có những trường hợp không nhất thiết phải tiến hành điều tra, mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt và nghĩa vụ chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng cứ, các đương sự tự thỏa thuận được các tranh chấp trong quan hệ HN và GĐ, thì vụ án cũng không phải tiến hành tất cả các hoạt động điều tra, đây cũng là đặc điểm riêng của vụ án HN và GĐ. Ví dụ: Khi thụ lý giải quyết một vụ kiện xin ly hôn, Tòa án yêu cầu nguyên đơn và bị đơn cung cấp các loại giấy tờ có liên quan đến quan hệ hôn nhân, các đương sự tự viết vào bản tự khai. Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự tự thỏa thuận, định đoạt được các mối quan hệ trong hôn nhân thì Tòa án ra quyết định công nhận việc thỏa thuận của họ.
Trên cơ sở kết quả điều tra xác minh vụ án chủ thể ADPL phân tích những tình tiết khách quan của vụ án HN và GĐ, làm rõ các đặc trưng pháp lý của vụ án để tiến hành các bước tiếp theo giải quyết vụ án đó.
Hai là, lựa chọn các QPPL về HN và GĐ, về dân sự, về tố tụng dân sự tương ứng để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.
Nói chung việc lựa chọn QPPL để ADPL được tiến hành theo ý chí đơn phương của Toà án có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng, điều này được thể hiện rất rõ đối với việc ADPL trong giải quyết án hình sự và giải quyết vi phạm hành chính, nhưng đối với việc giải quyết án HN và GĐ về cơ bản cũng như vậy, song có một số trường hợp có thể trong khi giải quyết vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của mình theo pháp luật quy định sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án không phải tiếp tục điều tra, xét xử mà có thể ra một trong các quyết định theo hướng khác phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể bị ADPL, nhưng lựa chọn các QPPL vẫn là do cơ quan toà án.
Ba là, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của QPPL hôn nhân gia đình và các QPPL khác khi đưa ra áp dụng đối với vụ án HN và GĐ.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là các tri thức pháp lý. Để làm sáng tỏ tư tưởng nội dung các quy phạm liên quan đến lĩnh vực HN và GĐ. Giai đoạn này của quá trình ADPL nhằm nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của QPPL đưa ra áp dụng, để giải quyết án HN và GĐ. Việc ADPL phải thông qua người có thẩm quyền khi ADPL.
Bốn là, ra quyết định áp dụng pháp luật hoặc ra một bản án để giải quyết vụ án HN và GĐ.
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của ba giai đoạn trên,._. ở giai đoạn này Tòa án có thẩm quyền ra quyết định hoặc bản án để quy định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự đang có tranh chấp trong quan hệ hôn nhân. Văn bản ADPL này thể hiện rất rõ năng lực, trình độ của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi ADPL. Bởi vì, trong giai đoạn này các phán quyết cuối cùng mang tính pháp lý, phán quyết này chính là việc vận dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực HN và GĐ để giải quyết án HN và GĐ.
Quyết định ADPL phải phù hợp với QPPL đưa ra áp dụng chứ không thể xuất phát từ ý chí chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của người có thẩm quyền, nội dung quyết định bản án phải rõ ràng, chính xác.
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ cũng rất đa dạng và phong phú, nhưng quy về những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động ADPL trong thụ lý, điều tra, đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án:
ã Thụ lý vụ án:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định có quyền khởi kiện về việc HN và GĐ, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Điều 27, 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định những loại việc mà Tòa án thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện thuộc lĩnh vực HN và GĐ gồm:
- Ly hôn, tranh chấp về con nuôi, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Yêu cầu hủy việc kết hôn trái phép.
- Yêu cầu công nhân thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
- Các tranh chấp khác và những yêu cầu khác về HN và GĐ mà pháp luật có quy định.
Trong thực tế các loại việc tranh chấp về HN và GĐ khi các đương sự gửi đơn đến Tòa án viết rất đơn giản ít các thông tin để xem xét, thuộc loại tranh chấp nào, thuộc thẩm quyền Tòa án nào giải quyết.
- Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, những chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
- Tòa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai tạm thu tiền án phí. Nếu trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án phải thụ lý khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có.
Khác với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Điều 37 quy định: "Nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tạm ứng án phí, trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nộp đơn... Tòa án thụ lý vụ án kể từ ngày nguyên đơn nộp tiền", nhưng đối với Bộ luật Tố tụng dân sự tại Điều 167 quy định: "Tòa án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
- Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu thuộc thẩm quyền của mình.
- Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
- Trả lại đơn cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Việc trả lại đơn thì được phân ra trong các trường hợp:
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của chính quyền nhà nước có thẩm quyền trừ trường hợp Tòa án bác đơn xin ly hôn, bác đơn xin thay đổi nuôi con thay đổi mức cấp dưỡng...
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án...
Như vậy, khi thụ lý đơn để giải quyết vụ án, Tòa án trước khi thụ lý cần phải xem xét nhiều vấn đề liên quan như các chứng từ liên quan đến vụ kiện, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, thẩm quyền của Tòa án cấp nào được giải quyết, người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không, có đủ năng lực dân sự không... đồng thời Tòa án phải thụ lý theo đúng thời hạn của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
ã Điều tra vụ án:
Đối với vụ án HN và GĐ, quá trình điều tra vụ án thuộc trách nhiệm của Tòa án, Chánh án phân công cho một Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án, điều tra thu thập chứng cứ, đây là giai đoạn rất quan trọng, khó khăn nhất trong quá trình giải quyết vụ án. Thu thập được chứng cứ đầy đủ, khách quan thì Tòa án mới có thể phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán phải thận trọng khi thu thập chứng cứ như các bước chủ yếu sau:
- Thẩm phán tiến hành lấy lời khai đương sự theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự, chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng, đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những nội dung đương sự chưa khai.
Việc lấy lời khai của đương sự cũng có thể được thực hiện tại trụ sở Tòa án, trong những trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án. Sau khi ghi xong, biên bản ghi lời khai phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai, ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận và có dấu của Tòa án, nếu nhiều bản thì phải có dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai ở ngoài trụ sở Tòa án phải có người làm chứng hoặc xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Ngoài việc lấy lời khai của đương sự, khi xét thấy cần thiết Thẩm phán tiến hành lấy lời khai, nếu người làm chứng chưa đủ 18 tuổi hoặc năng lực hành vi dân sự của họ bị hạn chế thì phải được tiến hành lấy lời khai với sự có mặt người đại diện hoặc người đang quản lý trông nom.
Đối với vụ án ly hôn, khi có tranh chấp về con, nếu con từ 9 tuổi trở lên, khi giải quyết cần phải xem xét nguyện vọng của con.
Từ kết quả lấy lời khai nếu thấy có mâu thuẫn thì tiến hành cho đối chất giữa các đương sự với nhau nhằm làm sáng tỏ những vấn đề mâu thuẫn, việc đối chất phải được ghi lại thành biên bản có chữ ký của những người tham gia đối chất.
- Tiến hành điều tra xác minh, trong những trường hợp và xét thấy cần thiết Tòa án tiến hành đến tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, cơ quan công tác hoặc nơi cư trú của đương sự để xác minh nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án.
Cùng với việc lấy lời khai như trên thì cũng tiến hành thu thập các tài liệu khác như:
- Đăng ký kết hôn.
- Bản sao giấy khai sinh các con.
- Các giấy tờ có ý nghĩa chứng minh về tài sản.
- Các giấy vay nợ, giấy cho vay.
- Các giấy tờ về nhà đất và các giấy tờ khác có liên quan đến vụ án.
Bên cạnh đó, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà Toà án quyết định trưng cầu giám định theo sự đề nghị của các bên đương sự hoặc theo đề nghị của một bên đương sự. Nếu trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
- Định giá tài sản: Tài sản của các bên đương sự có tranh chấp về giá, Tòa án quyết định thành lập hội đồng định giá và tùy thuộc vào loại tài sản cần định giá mà tiến hành mời các thành viên hội đồng định giá cho phù hợp.
Ví dụ: Định giá về nhà đất, ngoài thành phần đại diện cơ quan tài chính thì phải có cơ quan địa chính, cơ quan xây dựng và có đại diện Uỷ ban nhân dân cấp phường, xã, tổ dân phố nơi có tài sản định giá chứng kiến việc định giá. Hoặc nếu định giá tài sản là ô tô thì phải có thành viên của Sở giao thông cùng tiến hành định giá, đồng thời phải có mặt các bên đương sự trong buổi định giá.
- Đối với những chứng cứ thu thập ở nơi xa, Tòa án có thể ra quyết định ủy thác để Tòa án nơi khác hoặc cơ quan có thẩm quyền lấy lời khai của đương sự, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản hoặc có các biện pháp khác để thu thập chứng cứ. Trong những trường hợp cần thiết pháp luật quy định cho áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc đảm bảo việc thi hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời như:
- Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
- Buộc thực hiện trước một phần cấp dưỡng.
- Kê biên tài sản đang tranh chấp.
- Cấm chuyển dịch về quyền về tài sản đang tranh chấp.
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước ở nơi gửi.
- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
Quá trình điều tra cần tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì mới đảm bảo tính khách quan, làm rõ bản chất sự thật khách quan của vụ việc.
ã Đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án.
- Trong trường hợp đình chỉ vụ án áp dụng Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự trong các trường hợp sau:
+ Nguyên đơn hoặc bị đơn chết, quyền và nghĩa vụ của họ không ai thừa kế.
+ Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện.
+ Các đương sự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết tiếp vụ án.
+ Nguyên đơn triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt.
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Nếu vụ án thuộc một trong các trường hợp nêu trên, Toà án tiến hành phân tích, đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành, lựa chọn QPPL để áp dụng ra quyết định đình chỉ đối với vụ án đó.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ, nếu đình chỉ theo các trường hợp như nêu trên, tiền tạm ứng án phí đương sự đã nộp được sung và công quỹ nhà nước. Nếu trả lại đơn theo Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã nộp.
- Trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án áp dụng Đ189 Bộ luật Tố tụng dân sự trong các trường hợp sau:
+ Một bên đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định người đại diện theo pháp luật.
+ Nguyên đơn đề nghị tạm đình chỉ có lý do chính đáng.
+ Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc chờ kết quả ủy thác điều tra, chờ kết quả giám định.
+ Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Sau đó phân tích đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đối chiếu với pháp luật hiện hành, lựa chọn QPPL để áp dụng ra quyết định tạm đình chỉ đối với vụ án đó.
Hậu quả của việc tạm đình chỉ, tiền tạm ứng án phí, lệ phí của đương sự được gửi vào kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Thứ hai, hoạt động ADPL trong trường hợp hòa giải thành.
Trong trường hợp hòa giải thành, sau khi tiến hành thụ lý vụ án HN và GĐ, Tòa án tiến hành điều tra vụ án cũng tuân theo các bước như trường hợp vụ án đình chỉ và tạm đình chỉ, nhưng việc thu thập các tài liệu chứng từ có liên quan đến vụ án phải tùy thuộc vào tính chất của từng vụ việc đang giải quyết, những vụ án đơn giản thì nội dung điều tra dễ dàng hơn những vụ phức tạp, khi đã điều tra đầy đủ làm rõ các tình tiết khách quan trong vụ án, thì Tòa án mới tiến hành hòa giải.
Việc hòa giải phải tuân quy định tại Điều 180, 181, 185, 186 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án triệu tập các bên đương sự đến hòa giải, giúp các bên đi đến thỏa thuận với nhau về các vấn đề đang tranh chấp. Trước khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải nắm vững các tình tiết nội dung của vụ án, cần chủ động chuẩn bị nội dung hòa giải. Đồng thời phải thông báo cho các đương sự có liên quan, người đại diện của đương sự biết về địa điểm, thời gian, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Thành phần hòa giải cũng được pháp luật quy định gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, thư ký ghi nội dung biên bản hòa giải. Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải, nhưng các đương sự khác đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt, nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý nếu vụ án phải xét xử, để họ tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Sau đó phân tích đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đồng thời nắm được tâm tư nguyện vọng của các bên đương sự rồi tiến hành hòa giải. ở đây việc hòa giải đòi hỏi Thẩm phán phải nắm vững kiến thức pháp luật, có sự hiểu biết sâu rộng và có kinh nghiệm, cần phải kiên trì phân tích, động viên các bên hướng đến giải quyết những tranh chấp thì việc hòa giải mới đạt được kết quả. Khi các bên đương sự đã thỏa thuận được với nhau về các vấn đề tranh chấp, nội dung hòa giải phải được ghi lại thành biên bản và có chữ ký của các bên đương sự, của thư ký và chủ tọa phiên hòa giải theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự, hết 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án đối chiếu với pháp luật hiện hành lựa chọn QPPL áp dụng Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự để ra quyết định công nhận việc hòa giải thành.
Hiệu lực của quyết định công nhận hòa giải thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, hoạt động ADPL trong trường hợp thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn, khi tiến hành thụ lý vụ án HN và GĐ, tiến hành điều tra vụ án cũng phải tuân thủ các bước như trên, nhưng trong trường hợp này, vụ án ly hôn nên cần phải điều tra thêm về con cái như độ tuổi các con, nguyện vọng của con khi bố mẹ ly hôn, về tài sản, nợ chung, nợ riêng cũng phải được điều tra đầy đủ, rõ ràng. Trong trường hợp này, vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn mà việc hòa giải không thành, các đương sự thực sự thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ, họ tự nguyện ly hôn và thỏa thuận được với nhau các mối quan hệ trong hôn nhân, như thỏa thuận về chia tài sản, nợ chung, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, thì Tòa án lập biên bản ghi nhận lại nội dung của sự thỏa thuận đó, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành để lựa chọn QPPL và ADPL để ra quyết định công nhận việc thuận tình ly hôn của các bên đương sự.
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ rằng sự thỏa thuận đó là nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ tư, hoạt động ADPL trong trường hợp đưa vụ án ra xét xử bằng một bản án:
Điều 28 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, quy định thẩm quyền của TAND các cấp như sau:
- Phiên tòa sơ thẩm của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là TAND cấp huyện).
- Phiên tòa sơ thẩm của TAND cấp tỉnh.
- Phiên tòa phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của TAND cấp huyện bị kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật về phân cấp, phân từng loại vụ việc cho các cấp Tòa án giải quyết. Trong việc giải quyết các vụ án HN và GĐ, TAND cấp huyện được giải quyết theo trình tự sơ thẩm và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ án HN và GĐ theo trình tự từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật.
Thông thường những vụ án phải đưa ra xét xử thì tính chất của vụ việc cũng phức tạp hơn, mặt khác các đương sự cũng không có thiện trí hướng đến giải quyết các tranh chấp bằng con đường thương lượng, hòa giải. Sau khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án HN và GĐ, điều tra, xác minh, thu thập các tài liệu chứng từ có liên quan đến vụ án, yêu cầu các bên chứng minh những vấn đề liên quan đến tranh chấp tuân theo các bước như đã nêu ở trên. Khi đã điều tra đầy đủ, làm rõ các tình tiết khách quan vụ án, nếu vụ án có tài sản phải định giá tài sản. Sau đó tiến hành hòa giải, phân tích để các đương sự tự thỏa thuận với nhau, nhưng việc hòa giải không đi đến kết quả. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của nội dung vụ án, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành để lựa chọn QPPL để áp dụng quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp này, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử đây là quá trình chuẩn bị xét xử, ADPL để tiến hành xét xử vụ án HN và và GĐ phải tuân theo bước sau đây:
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa gồm có:
+ Khai mạc phiên tòa.
+ Giải thích yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
+ Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.
- Thủ tục hỏi tại phiên tòa
+ Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu.
+ Nghe lời trình bày của đương sự
+ Thứ tự hỏi tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.
+ Công bố các tài liệu của vụ án, xem xét vật chứng, hỏi người giám định.
+ Kết thúc việc hỏi tại tòa.
- Tranh luận tại phiên tòa.
+ Trình tự phát biểu tranh luận.
+ Phát biểu sau khi tranh luận và đối chất.
+ Phát biểu của Viện kiểm sát.
+ Trở lại việc hỏi (nếu xét thấy cần thiết).
- Nghị án và tuyên án
+ Nghị án.
+ Trở lại xét hỏi và tranh luận.
+ Tuyên án, cấp trích lục cho đương sự và cơ quan có liên quan.
Hoạt động ADPL của Hội đồng xét xử đối với vụ án HN và GĐ được hiện theo các trình tự như sau:
ã Hoạt động ADPL theo trình tự sơ thẩm của TAND cấp huyện.
Đây là lần xét xử đầu tiên đối với án HN và GĐ và hầu hết tất cả các loại án này đều được xét xử ở cấp huyện. Trước đây, việc ADPL giải quyết án HN và GĐ ở cấp sơ thẩm của TAND cấp huyện, theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, từ ngày 01- 01- 2005 trình tự giải quyết án HN và GĐ được áp dụng theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Xét xử án HN và GĐ của TAND cấp huyện có số lượng vụ án nhiều, chiếm đa số trong toàn tỉnh và là cấp xét xử từ khâu chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa. Nếu việc ADPL được chính xác thì kết quả vụ án không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm và trình tự giám đốc hoặc vụ án không bị dây dưa kéo dài, hạn chế tình trạng quá tải cho Tòa án cấp trên cũng như việc khiếu kiện vượt cấp.
Đối với vụ án HN và GĐ, việc tranh chấp sau khi hòa giải không thành mà phải đưa ra tòa xét xử chủ yếu là tranh chấp về tài sản sau ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con, truy nhận cha cho con. Giai đoạn hòa giải làm tốt thì sẽ hạn chế số lượng án và thời gian ở giai đoạn xét xử, tránh tốn kém tiền của nhà nước chi phí cho việc xét xử và công tác thi hành án sau này.
Khi vụ án tiến hành đưa ra xét xử, phải tuân thủ theo các bước như đã nêu ở trên. Về nội dung vụ án cần được Hội đồng chuẩn bị chu đáo như nội dung cần hỏi, cách hỏi như thế nào, nội dung nào cần hỏi trước... Trong quá trình hỏi phải đảm bảo khách quan, đồng thời tuân theo trật tự pháp luật quy định về thủ tục hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án.
Như vậy, ở trình tự phiên tòa sơ thẩm cấp huyện, vụ án được xét xử lần đầu tiên, vụ án trước khi đưa ra xét xử phải được điều tra một cách đầy đủ. Tại phiên toà phải được thẩm vấn các đương sự một cách khách quan, các chứng cứ đều được đưa ra xem xét, các bước tiến hành tố tụng được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc và tuân thủ theo các bước mà pháp luật quy định. Việc ADPL phải chính xác thì mới đạt được kết quả xét xử cao nhất, hạn chế tới mức tối đa việc kháng cáo, kháng nghị lên Tòa án cấp trên và trách được án bị sửa, hủy.
ã Hoạt động ADPL theo trình tự sơ thẩm của TAND cấp tỉnh:
Một số vụ án HN và GĐ thuộc thẩm quyền TAND cấp tỉnh giải quyết được quy định tại Khoản 3, Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự: "Những tranh chấp... có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, cần ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, ủy thác cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện". Khoản 2, Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự: "TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh lấy lên để giải quyết”. Đây cũng là cấp sơ thẩm xét xử về án HN và GĐ đầu tiên nhưng thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp tỉnh, do tính chất vụ án có tính phức tạp hơn, cần phải điều tra xác minh rộng hơn như ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài. Tại Công văn số 128/NCPL ngày 14/12/1991 của TANDTC thì TAND tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ án trong đó có án HN và GĐ như sau:
+ Khi có đương sự là người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài.
+ Người Việt Nam ở nước ngoài bao gồm những người mang quốc tịch Việt Nam đang sinh sống học tập và lao động ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Tại Công văn số 82/TANDTC ngày 07/11/1982 của TANDTC, những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện mà TAND cấp tỉnh lấy lên để giải quyết đó là các vụ án trong đó có án HN và GĐ như:
+ Những vụ án vận dụng pháp luật, chính sách có nhiều khó khăn phức tạp.
+ Những vụ án điều tra thu thập chứng cứ có nhiều khó khăn hoặc phải giám định kỹ thuật phức tạp.
+ Những vụ án việc xử lý có nhiều khó khăn, có ý kiến khác nhau về chủ trương xử lý giữa các cơ quan hữu quan ở địa phương.
+ Những vụ án mà đương sự là cán bộ chủ chốt ở địa phương, những người có uy tín tôn giáo mà xét thấy việc xét xử ở TAND cấp huyện không có lợi về chính trị.
+ Ngoài ra, TAND cấp tỉnh còn có thể theo yêu cầu của đương sự lấy những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện lên để xét xử nếu xét thấy có lý do chính đáng.
Những loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của TAND tỉnh hoặc những vụ việc thuộc Tòa án cấp sơ thẩm, mà TAND tỉnh lấy lên để giải quyết theo trình tự sơ thẩm của tỉnh không nhiều và chỉ tập trung ở một số thành phố lớn. Khi giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm của TAND tỉnh cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, từ khi thụ lý đơn đến đến khi ra quyết định bằng bản án.
ã Hoạt động ADPL theo trình tự phúc thẩm của TAND tỉnh:
Sau khi TAND cấp huyện xét xử, quyết định bản án về HN và GĐ bị kháng cáo, bị kháng nghị, cần lưu ý việc kháng cáo, kháng nghị đảm bảo thời hạn luật định, như thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, đối với quyết định tạm đình chỉ là 7 ngày. Đồng thời người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật, trừ những trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án.
Phúc thẩm là một thủ tục ADPL để xét xử do TAND tỉnh trực tiếp tiến hành xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của quyết định, bản án HN và GĐ của TAND cấp huyện chưa có hiệu lực pháp luật vì có kháng cáo, kháng nghị. Đây là lần xét xử thứ hai đối với vụ án, do vậy cấp xét xử thứ hai phải xem xét bản án một cách thận trọng, đối tượng của phúc thẩm là bản án, là quyết định sơ thẩm. Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải là TAND cấp tỉnh.
Giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm trong thực tế chủ yếu là các vụ án do các đương sự thực hiện quyền kháng cáo, bởi kết quả bản án sơ thẩm không thể đáp ứng nguyện vọng của một trong các đương sự, cá biệt một số ít đương sự cố tình gây khó khăn cho bên kia nên thực hiện quyền kháng cáo của mình để bản án bị dây dưa kéo dài. Khi tiến hành giải quyết vụ án HN và GĐ ở cấp phúc thẩm, hoạt động ADPL xét xử phải tuân theo bốn giai đoạn như hoạt động ADPL ở cấp sơ thẩm, trong từng giai đoạn ADPL phải hết sức thận trọng, ngoài việc kiểm tra lại việc ADPL của TAND cấp huyện xem có được chính xác hay không, kết quả của bản án đã thấu tình đạt lý chưa… Quyết định của bản án phúc thẩm phải có sức thuyết phục cao hơn đối với TAND cấp huyện và các đương sự.
Khi tiến hành ADPL xét xử phúc thẩm đối với vụ án HN và GĐ có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền:
+ Giữ nguyên án sơ thẩm.
+ Sửa bản án sơ thẩm, nếu thấy việc điều tra đã đầy đủ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không đúng pháp luật.
+ Hủy bản án sơ thẩm về HN và GĐ để xét xử sơ thẩm lại trong những trường hợp sau:
. Việc điều tra của Tòa án cấp sơ thẩm không đầy đủ mà Tòa án cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
. Thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định pháp luật.
. Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
+ Khi đương sự đề nghị.
+ Khi có lý do chính đáng của đương sự.
+ Người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị và trong các trường hợp theo Điều 189; Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do vậy, khi xét xử theo trình tự phúc thẩm, TAND cấp phúc thẩm không chỉ đơn thuần ADPL để giải quyết vụ án, mà còn kiểm tra lại việc ADPL của TAND cấp huyện, do đó cấp phúc thẩm khi ADPL cần phải xem xét kỹ lưỡng, thận trọng, khi xét xử sơ thẩm Hội đồng xét xử chỉ có một Thẩm phán, nhưng Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và quyết định của phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
ã Hoạt động ADPL theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm:
- Hoạt động ADPL theo thủ tục giám đốc thẩm đối với những quyết định, bản án HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật: Căn cứ vào pháp luật và ADPL để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Những trường hợp xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm đó là quyết định, bản án về HN và GĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có căn cứ sau:
+ Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án.
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc ADPL.
Xét xử giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba, nên trình tự xét xử giám đốc thẩm cơ bản khác với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Trình tự kháng nghị cho đến việc xét xử giám đốc thẩm, bản án chỉ trải qua một cấp xét xử và không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Khi phát hiện bản án, quyết định về HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm như: Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị gồm Chánh án TAND tỉnh, Viện trưởng VKSND tỉnh, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC. Khi xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án HN và GĐ. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền sau:
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định về HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật.
+ Giữ nguyên bản án, quyết định về HN và GĐ đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới.
+ Hủy bản án, quyết định về HN và GĐ có hiệu lực pháp luật để điều tra xét xử lại từ giai đoạn đầu.
+ Hủy bản án, quyết định về HN và GĐ của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ vụ án.
Như vậy, hoạt động ADPL theo thủ tục giám đốc thẩm đối với án HN và GĐ có ý nghĩa rất lớn, đó là trình tự để tháo gỡ giải quyết những sai lầm của quyết định, bản án về HN và GĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhằm góp phần bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, đồng thời thông qua thủ tục giám đốc thẩm, giúp cho Tòa án cấp trên thấy được những sai sót của Tòa án cấp dưới trong hoạt động ADPL giải quyết án HN và GĐ. Từ đó có những tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và có sự chỉ đạo hướng dẫn công tác nghiệp vụ trong việc vận dụng pháp luật đối với Tòa án cấp dưới để giải quyết án HN và GĐ.
- Hoạt động ADPL theo thủ tục tái thẩm là xét lại quyết định, bản án về HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định, bản án, mà Tòa án và các đương sự không biết được khi ra bản án, quyết định đó.
Những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm những quyết định, bản án về HN và GĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật như sau:
+ Phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án, mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án HN và GĐ.
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ.
+ Thẩm phán, HTND, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật.
+ Bản án của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Hoạt động ADPL của Hội đồng tái thẩm có các quyền đối với vụ án HN và GĐ như sau:
+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên quyết định, bản án HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật.
+ Hủy bản án, quyết định về HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
+ Hủy bản án, quyết định về HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.
Khi phát hiện có tình tiết mới của vụ án, đương sự hoặc cá nhân cơ quan, tổ chức khác._. những chỉ thị, nghị quyết chỉ đạo nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này. Quốc hội ngoài các chức năng, nhiệm vụ chính là ban hành luật và giám sát phải tăng cường giải thích pháp luật bởi vì chỉ có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội mới được Hiến pháp trao cho quyền hạn và nhiệm vụ “giải thích Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh”.
Đối với công tác hướng dẫn ADPL của TANDTC, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII đã chỉ rõ: “TAND tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các Tòa án ADPL thống nhất …”. Trong những năm qua, việc hướng dẫn ADPL của TANDTC được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: Qua báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm; bằng các văn bản hướng dẫn đơn hành đối với từng vấn đề. Nhưng phải kể đến hình thức hướng dẫn ADPL quan trọng nhất và có hiệu lực cao nhất trong phạm vi toàn quốc là các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, đây là hình thức văn bản QPPL có tính bắt buộc thực hiện đối với các chủ thể ADPL.
Tuy nhiên, do đặc thù ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng phức tạp và đa dạng, mỗi vụ án đều có những đặc điểm riêng như vụ án xin ly hôn khác vụ án truy nhận cha cho con, do đó việc ADPL là tương đối khó khăn. Trong khi đó những văn bản hướng dẫn xét xử của TANDTC chỉ khái quát được những tình tiết và đặc điểm chung nhất trong từng loại vấn đề. Trong thực tiễn xét xử và ADPL, TAND các cấp thường vận dụng một cách linh hoạt những hướng dẫn của TANDTC để áp dụng cho từng vụ việc cụ thể, nhưng ở mỗi nơi địa phương, các vụ án cách hiểu và vận dụng những hướng dẫn xét xử của TANDTC đôi khi còn chưa thống nhất, có những vụ án còn có nhiều quan điểm khác nhau về ADPL giữa các cấp TAND ở trong tỉnh còn khác nhau, thậm chí là ngay trong các thành viên của Hội đồng xét xử còn có quan điểm khác nhau, do vậy hiệu quả của công tác hướng dẫn pháp luật còn chưa đạt được như mong muốn. Bên cạnh đó, vấn đề cần phải quan tâm là công tác hướng dẫn ADPL của TANDTC còn chậm chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, điều này làm ảnh hưởng tới tính thống nhất về ADPL trong hoạt động giải quyết án nói chung và án HN và GĐ nói riêng, đây cũng chính là nguyên nhân của tình trạng các vụ án bị cấp trên sửa, hủy có chiều hướng tăng ở các TAND địa phương cũng như ở Thái Nguyên.
Qua hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ ở Thái Nguyên cho thấy, giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật là rất quan trọng và cần thiết, đây cũng là công tác khó khăn và phức tạp, đòi hỏi có khả năng trí tuệ cao. Để thực hiện có hiệu quả, các cơ quan có thẩm quyền cần phải có những khảo sát, nghiên cứu và từng bước đổi mới để góp phần nâng cao hiệu quả của việc ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ nhằm đảm bảo ADPL được thống nhất.
3.2.4. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán và cán bộ trong áp dụng pháp luật giải quyết án hôn nhân và gia đình Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên
Để nâng cao hiệu quả của ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên, yếu tố con người cũng đóng vai trò quyết định, đó là những Thẩm phán, chủ thể trực tiếp ADPL trong quá trình giải quyết án HN và GĐ. Các chủ thể ADPL muốn thực hiện tốt vai trò của mình và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì họ phải được làm việc trong một cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học và hợp lý.
TAND cấp huyện để có kế hoạch đề nghị bổ sung thêm số lượng Thẩm phán trực tiếp giải quyết án HN và GĐ để đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới. Ngoài ra, các TAND cấp huyện cũng phải chuẩn bị nhân sự để thay thế những Thẩm phán đến tuổi nghỉ hưu, thường là những Thẩm phán giữ chức vụ quản lý là Chánh án, Phó chánh án và phải làm tốt công tác luân chuyển cán bộ giữa các TAND để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Bên cạnh việc kiện toàn cơ cấu tổ chức cho các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tính thống nhất về ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ, thì phải thường xuyên nâng cao trình độ, năng lực và bồi dưỡng phẩm chất chính trị cho Thẩm phán làm công tác giải quyết án HN và GĐ, cần quan tâm đến những vấn đề sau:
+ Phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán thường xuyên, chuyên sâu về nghiệp vụ đối với án HN và GĐ. tổng kết công tác thực tiễn và học tập nghị quyết, chủ trương chính sách của Đảng một cách thường xuyên. Cần tạo điều kiện cho Thẩm phán trong nhiệm kỳ, có thời gian thích hợp để bồi dưỡng nghiệp vụ cập nhật những thông tin mới về khoa học pháp lý để họ không lạc hậu về kiến thức lý luận.
+ Tăng cường bồi dưỡng cho Thẩm phán giải quyết án Hà Nội và GĐ những kiến thức pháp luật mới, kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, ngoại ngữ, tin học. Hàng năm tạo điều kiện cho các Thẩm phán, cán bộ thư ký đi thi học sau đại học để nâng cao trình độ.
+ Thẩm phán trực tiếp giải quyết án HN và GĐ không chỉ mang tính khoa học pháp lý đơn thuần mà phải thể hiện tính Đảng, tính nghệ thuật. Do vậy phải thường xuyên nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán trực tiếp giải quyết án HN và GĐ, đồng thời phải kiện toàn cơ cấu tổ chức của các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, sao cho hợp lý, ngọn nhẹ, đó cũng là phương thức cải cách hành chính, kiện toàn tốt bộ máy tổ chức và làm tốt công việc bồi dưỡng về nghiệp vụ, phẩm chất chính trị cho Thẩm phán, là giải pháp trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ.
3.2.5. Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn của Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân là chế định tiến bộ của pháp luật Việt Nam, lần đầu tiên được Hiến pháp 1946 ghi nhận với tên gọi là Phụ thẩm nhân dân “Phụ thẩm nhân dân được tham gia góp ý kiến nếu là việc tiểu hình và cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình” (Điều 65 Hiến pháp 1946). Với quy định này, hoạt động xét xử vụ án của Tòa án, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, được đảm bảo dân chủ, nhân dân được cử đại diện tham gia. Hiến pháp 1959 trao cho HTND có quyền năng lớn hơn đó là “Khi xét xử, Thẩm phán và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 130). Việc tham gia của HTND vào hoạt động xét xử của Tòa án là biểu hiện tính ưu việt của một nền tư pháp ở Việt Nam. Đa số các HTND tham gia hoạt động xét xử đã phát huy được vai trò là “Người đại diện của nhân dân” và là người chủ thể ADPL trực tiếp cùng với Thẩm phán. Tuy nhiên trong thời gian qua việc tham gia ADPL xét xử nói chung của HTND trên các lĩnh vực cũng như trong HN và GĐ còn rất nhiều hạn chế nhất là trình độ kiến thức pháp luật, HTND do kiêm nhiệm nên thời gian dành cho nghiên cứu hồ sơ còn ít, khi tham gia xét xử việc thẩm vấn chủ yếu là do Thẩm phán thực hiện. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả ADPL trong hoạt động xét xử án Hà Nội và GĐ của TAND, HTND phải là những người có kiến thức nghiệp vụ vững vàng thì mới thực hiện được quyền mà pháp luật giao cho, đó là HTND ngang quyền với Thẩm phán do vậy trình độ năng lực của Hội thẩm cũng phải tương đương với Thẩm phán.
Thực hiện yêu cầu của cải cách tư pháp. Nghị quyết 08/NQ/'TW ngày 02/01/2004 chỉ rõ: Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn bầu cử, bồi dưỡng, quản lý HTND nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của HTND trong công tác xét xử.
Hiện nay cả hai cấp TAND ở Thái Nguyên có 208 HTND được Hội đồng nhân dân địa phương bầu, chất lượng HTND tốt hơn so với nhiệm kỳ trước. HTND là chủ thể ADPL trong hoạt động xét xử của TAND. Do đó việc nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ xét xử của HTND ở Thái Nguyên là vấn đề cần quan tâm, cần phải nâng cao năng lực và trình độ của Hội thẩm tương đương với Thẩm phán trong TAND đây là một trong những việc quan trọng góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án HN và GĐ.
3.2.6. Tăng cường phương tiện và điều kiện cơ sở vật chất cho các Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên và hoàn thiện chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ tòa án
Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động xét xử và ADPL trong việc giải quyết án của TAND ở tỉnh Thái Nguyên thì cần quan tâm đến việc tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một yêu cầu cấp thiết. Mặc dù đã được Nhà nước quan tâm và đổi mới, nhưng đến nay kinh phí hoạt động của ngành TAND nói chung và của TAND ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng vẫn còn hạn hẹp, điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác của Thẩm phán trong giải quyết án HN và GĐ còn hạn chế. Hoạt động xét xử của các TAND do vậy cũng bị ảnh hưởng nhất định, như những phiên tòa đáng ra phải được xét xử trong nhiều ngày nhưng do thiếu kinh phí nên thường phải rút ngắn thời gian xét xử, ảnh hưởng tới việc xem xét và đánh giá chứng cứ, hoặc khi tiến hành định giá và các phiên tòa xét xử xét lưu động, nhất là ở cấp huyện, kinh phí hạn hẹp, không có ô tô vận chuyển các phương tiện phục vụ cho công tác nghiệp vụ của Thẩm phán và cán bộ còn thiếu, các Thẩm phán thường gặp nhiều khó khăn trong việc tìm tài liệu, văn bản pháp luật. Văn bản Pháp luật mới được ban hành chưa đầy đủ và thường xuyên. Công tác theo dõi hồ sơ, số liệu, thụ lý vụ án và lưu trữ được thực hiện theo phương pháp thủ công, do đó không đáp ứng được yêu cầu của công việc ngày càng đa dạng và phức tạp. Do vậy, cần tăng cường điều kiện về phương tiện cơ sở vật chất cho các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, cụ thể như sau:
- Hiện đại hóa các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác xét xử. Nhà nước nên có quy định rõ về việc cấp phát tài liệu và văn bản pháp luật cho Thẩm phán TAND hoặc trang bị cho mỗi Thẩm phán một máy tính cá nhân và phần mềm lưu trữ văn bản pháp luật được cập nhật định kỳ, để các Thẩm phán có điều kiện thuận lợi trong việc đối chiếu quy phạm và ADPL. ứng dụng công nghệ thông tin và công tác thụ lý, theo dõi triệu tập những người tham gia tố tụng, công tác lưu trữ và cấp phát trích lục bản án sau khi xét xử.
- Tăng cường việc cấp tài liệu, sách báo về khoa học pháp lý cho các Thẩm phán và cán bộ, nhất là các tạp chí lý luận chuyên ngành để họ có thể kịp thời nắm bắt được những thành tựu và sự phát triển của khoa học pháp lý trong tình hình mới.
- Trang bị cơ sở vật chất và hiện đại hóa phòng xét xử của các TAND, đảm bảo cho hoạt động xét xử tại phiên tòa được thuận lợi, an toàn, phòng xét xử phải thể hiện được tính nghiêm trang, tạo ra ý thức tin tưởng vào công lý cho những người tham dự phiên tòa. Công tác bảo vệ cho Tòa án và các phiên tòa cũng cần phải được chú trọng, tránh các hiện tượng gây rối tại phiên tòa ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm ở nơi công đường.
Bên cạnh việc tăng cường điều kiện, phương tiện cơ sở vật chất, Nhà nước phải chú trọng đến việc hoàn thiện các chế độ chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ ngành Tòa án. Trong thời gian qua, chính sách đối với Thẩm phán và cán bộ TAND đã được quan tâm, Thẩm phán có thang bậc lương riêng, được hưởng phụ cấp trách nhiệm, để họ yên tâm công tác và đầu tư nhiều thời gian vào công tác chuyên môn.
Nghề Thẩm phán là một nghề có tính đặc thù riêng, vất vả, khó khăn, phức tạp, chịu nhiều áp lực, có khi còn gặp những nguy hiểm cho bản thân và gia đình. Do vậy, cần xây dựng cơ chế bảo vệ đối với Thẩm phán và gia đình họ, xây dựng quy định về chế độ bảo hiểm để họ được hưởng bồi thường khi gặp rủi ro trong cuộc sống và trong nghề nghiệp.
Như vậy, hoàn thiện chế độ, chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ và tăng cường điều kiện, phương tiện cơ sở vật chất cho các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, nhất là đối với TAND huyện cần sớm được quan tâm, nhằm nâng cao hiệu quả ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ.
3.2.7. Tăng cường hoạt động kiểm tra giám đốc đối Tòa án nhân dân cấp huyện, đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 29, Luật Tổ chức Tòa án hiện hành, UBTP TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn:
a. Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp dưới bị kháng nghị.
b. Bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật tại TAND cấp mình và các Toà án cấp dưới.
c. Tổng kết kinh nghiệm xét xử [35].
Với quy định này, nhiệm vụ của UBTP TAND tỉnh Thái Nguyên là quan trọng và tương đối nặng nề. Để giúp việc cho UBTP, phòng kiểm tra giám đốc TAND tỉnh Thái Nguyên có 06 người trong đó một trưởng phòng và những thẩm tra viên, chuyên viên pháp lý có trình độ chuyên môn vững vàng. Hàng năm, phòng kiểm tra giám đốc đã kiểm tra toàn bộ các hồ sơ vụ án của 09 TAND cấp huyện, thị xã, thành phố, giúp UBTP TAND tỉnh phát hiện những sai sót về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, kịp thời rút kinh nghiệm, uốn nắn sửa chữa những sai sót đó. Khi phát hiện có sai sót, thẩm tra viên đã tham mưu cho Chánh án kháng nghị những quyết định, bản án HN và GĐ đã có hiệu lực pháp luật để UBTP xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm.
Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, thì nhiệm vụ của UBTP và phòng kiểm tra giám đốc TAND tỉnh Thái Nguyên ngày càng nặng nề hơn. Số lượng thẩm tra viên chuyên trách về án HN và GĐ thường chỉ có 2 người, trong khi đó hàng năm phải đảm nhiệm nghiên cứu, kiểm tra một lượng án lớn của TAND cấp huyện. Việc phát hiện những sai sót về ADPL trong án HN và GĐ còn hạn chế. Như vậy, việc tăng cường cho hoạt động kiểm tra giám đốc án của TAND ở tỉnh Thái Nguyên về biên chế và trang thiết bị phục vụ cho công tác là yêu cầu đòi hỏi khách quan.
Tăng cường hoạt động kiểm tra giám đốc án của TAND tỉnh Thái Nguyên đối với việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ cần phải được thực hiện như sau:
- Kiện toàn tổ chức UBTP của TAND tỉnh Thái Nguyên, ngoài các chức danh bắt buộc theo quy định của pháp luật là Chánh án, Phó chánh án, UBTP cần phải có thêm những Thẩm phán giỏi về trình độ, nghiệp vụ xét xử và có bề dày kinh nghiệm để hướng dẫn đường lối giải quyết án HN và GĐ được chính xác.
- Kiện toàn về tổ chức, tăng số lượng thẩm tra viên và chuyên viên cho phòng kiểm tra giám đốc án của TAND tỉnh Thái Nguyên. Các thẩm tra viên, chuyên viên pháp lý phải là những người có trình độ lý luận và có kinh nghiệm nghiệp vụ, để có thể giúp việc tốt cho UBTP trong công tác giám đốc án và hướng dẫn việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ cho các TAND ở tỉnh Thái Nguyên.
- Công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án trong hoạt động giám đốc án theo hướng khoa học, hiệu quả cao, thường xuyên tổ chức các hội thảo, đẩy mạnh công tác nghiên cứu các đề tài khoa học ở cấp cơ sở về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, tạo cơ sở lý luận cho công tác thực tiễn.
Tóm lại, công tác kiểm tra giám đốc án là hoạt động thường xuyên, muốn làm tốt công tác này, cần phải làm tốt các giải pháp nêu trên. Qua công tác kiểm tra giám đốc án có tác dụng uốn nắn, khắc phục những sai sót về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ. Do vậy, cần coi trọng và quan tâm công tác kiểm tra giám đốc án, đây chính là một trong các biện pháp để nâng cao hiệu quả ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên ngày một tốt hơn.
3.2.8. Tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử của ngành Tòa án làm cơ sở cho hoạt động áp dụng pháp luật giải quyết án Hôn nhân và gia đình được thực hiện thống nhất
Muốn nâng cao chất lượng ADPL giải quyết án HN và GĐ trong cả nước cũng như ở Thái Nguyên và hạn chế những thiếu sót, thì hàng năm phải thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm trong hoạt động ADPL là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của TANDTC và TAND cấp tỉnh đã được pháp luật quy định cụ thể là HĐTP TANDTC và UBTP TAND cấp tỉnh phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong việc ADPL để rút ra những mặt đã đạt được và những thiếu sót, những tồn tại về nhận thức pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ. Với những vụ án có tính mẫu mực cho toàn ngành học tập và những bản án, quyết định đã ban hành chưa chính xác, chưa thỏa đáng, còn có những sai lầm trong xem xét, đánh giá chứng cứ, trong việc lựa chọn quy phạm pháp luật và ban hành các bản án, quyết định để rút kinh nghiệm cho toàn ngành. Tổng kết kinh nghiệm trong ADPL giải quyết án HN và GĐ bao gồm cả việc xem xét, đánh giá kỹ năng xây dựng hồ sơ, chất lượng hồ sơ, cách sắp xếp hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ vụ án của Thẩm phán và HTND; kỹ năng tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết những yêu cầu của vụ án và cả kỹ năng thực hiện các thao tác bắt buộc của quy trình tố tụng khi xét xử như xét hỏi, điều khiển phiên toà, tranh luận, nghị án, ban hành bản án và quyết định của Tòa án. Công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử giúp cho ngành TAND có điều kiện tìm ra những nguyên nhân xét xử đúng pháp luật và cả nguyên nhân sai lầm khi áp dụng các QPPL. Qua công tác tổng kết, từ đó có cơ sở đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, giải thích, hướng dẫn những QPPL điều chỉnh về lĩnh vực HN và GĐ nhằm nâng cao tính khả thi pháp luật khi ban hành.
Thông qua công tác tổng kết kinh nghiệm ADPL trong giải quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái Nguyên, giúp cho Thẩm phán, Hội thẩm và cán bộ Tòa án có những bài học bổ ích rút ra từ thực tiễn để nâng cao kỹ năng trong quá trình ADPL, giải quyết án HN và GĐ, những nhận định và lập luận sắc sảo, chính xác sẽ cho những bản án, quyết định đúng có sức thuyết phục; những phương pháp xử lý tình huống thông minh, đúng pháp luật khi tiến hành điều tra, tiến hành xét xử tại phiên tòa… sẽ giúp cho người Thẩm phán có những bài học đúc kết từ thực tiễn. Những sai lầm của việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ; những khiếm khuyết trong việc tổ chức và điều khiển phiên tòa; những bản án và quyết định chưa đúng pháp luật; chưa hợp tình, hợp lý… cũng là những bài học quý giá, bổ ích cho công tác của người Thẩm phán.
Như vậy, việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, đặc biệt là việc tổng kết kinh nghiệm trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng ADPL giải quyết án HN và GĐ. Do vậy, TANDTC và Tòa án tỉnh Thái Nguyên cần tập trung vào công tác kiểm tra, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử trong hoạt động giải quyết các loại án nói chung và án HN và GĐ nói riêng. Qua công tác tổng kết kinh nghiệm giải quyết án HN và GĐ của TAND cần được coi là một nguồn để sửa đổi, bổ sung, xây dựng các QPPL để điều chỉnh tốt các quan hệ về HN và GĐ phù hợp với thực tế hiện nay.
3.2.9. Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành các mẫu bản án quyết định thống nhất trong toàn ngành Tòa án
Bản án là một văn bản tố tụng rất quan trọng, là sự kết tinh của toàn bộ quá trình hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phản ánh nội dung vụ án, diễn biến phiên tòa, nhận định của Hội đồng xét xử và cuối cùng quyết định giải quyết một vụ án. Trong tố tụng dân sự, việc ra bản án đánh dấu sự kết thúc quá trình ADPL của TAND và là tài liệu tố tụng cần thiết phục vụ các bước tố tụng tiếp theo như: Bản án là căn cứ để cơ quan thi hành án thi hành, là tài liệu để thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý.
Hiện nay, tình trạng phổ biến ở các Tòa án địa phương, trong đó có các Toà án ở Thái Nguyên là các bản án được viết tùy tiện, muôn hình muôn vẻ, không thống nhất từ hình thức trình bày đến nội dung, như số, ký hiệu của bản án, thời gian thụ lý, xét xử, cấu trúc bản án không hợp lý ngôn ngữ được sử dụng trong nhiều bản án mang phong cách đời thường, không mang tính chất pháp lý, lập luận thiếu chặt chẽ… Tất cả những điều đó làm cho ý nghĩa, mục đích của bản án không được đảm bảo.
Kết quả cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự là bằng một bản án. Để khắc phục những tồn tại của tình trạng ra bản án như hiện nay, thiết nghĩ TANDTC cần ban hành mẫu bản án thống nhất. Đây có thể coi là văn bản hướng dẫn chi tiết các Điều 238 và 279 Bộ luật Tố tụng dân sự về bản án sơ thẩm, phúc thẩm. Khi xây dựng về mẫu bản án đảm bảo cơ cấu bản án gồm ba phần như sau:
- Phần mở đầu ghi rõ: Quốc hiệu, tên cơ quan Tòa án ban hành bản án; số ký hiệu bản án; thời gian thụ lý, thời gian xét xử; thành phần Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác; họ tên, tuổi, trú quán của các đương sự và của người tham gia tố tụng cũng như tư cách của họ trong vụ án.
- Phần nội dung: Với tính đa dạng và phức tạp của vụ án, nội dung các bản án không thể giống nhau như hình thức của chúng. Vì vậy, TAND không thể đưa ra một bản án mẫu để áp dụng chung. Tuy nhiên, phải đặt ra các nội dung yêu cầu bắt buộc chung như: Tóm tắt diễn biến của vụ án; xác định sự việc; nhận định của Hội đồng xét xử; căn cứ pháp luật để giải quyết vụ án.
- Phần quyết định: Phải ngắn ngọn dễ hiểu, đồng thời xác định quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án. Mọi vấn đề của quyết định phải được ghi rõ ràng, cụ thể, dứt khoát không gây hiểu lầm và khó khăn cho công tác thi hành án.
Kết luận chương 3
Để ngày một nâng cao hiệu quả của việc ADPL trong quá trình giải quyết án HN và GĐ, các chủ thể ADPL cần thực hiện theo những quan điểm cơ bản về ADPL. Bên cạnh đó, thực hiện đầy đủ, đồng bộ những giải pháp cụ thể như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác của ngành Tòa án nói chung và công tác giải quyết án HN và GĐ nói riêng. Thực hiện thường xuyên những giải pháp nêu trên trong thời gian nhất định, mới tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giải quyết án nói chung của ngành Tòa án và hoạt động giải quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng. Khi thực hiện tốt các giải pháp đã nêu ở chương 3, thì sẽ nâng cao được hiệu quả ADPL trong giải quyết án ngày một tốt hơn.
Kết Luận
áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ là một hình thức thực hiện pháp luật nhưng là hình thức đặc thù vì các chủ thể ADPL là cá nhân, được nhà nước giao quyền như Thẩm phán, HTND và những người tiến hành tố tụng trong hoạt động ADPL giải quyết án HN và GĐ. Nhưng trong quá trình giải quyết họ thực hiện những quyền mà nhà nước giao cho nhưng phải theo nguyên tắc của Luật Tố tụng dân sự, nhằm lựa chọn áp dụng các QPPL đúng đắn nhất để phân xử bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự. Từ cơ sở lý luận đến thực tiễn của việc APPL trong việc giải quyết án HN và GĐ thì Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trong các giai đoạn tố tụng, thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ, định giá, hòa giải vụ án… đến khi ra quyết định, ra bản án để quy kết trách nhiệm cho các bên đương sự nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân có tranh chấp.
Do tính đặc thù riêng của việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, TAND luôn giữ một vai trò rất quan trọng ở các giai đoạn tố tụng. Đồng thời, Tòa án cũng là cơ quan duy nhất thực hiện quyền giải quyết, xét xử các loại án theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và là cơ quan đưa ra phán quyết cuối cùng buộc các bên có tranh chấp phải thi hành.
Từ cơ sở lý luận, qua nguyên cứu thực trạng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế, những nguyên nhân và các quan điểm cũng như các giải pháp. Nếu thực hiện tốt các giải pháp nêu trên sẽ ngày càng nâng cao hiệu quả ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên, góp phần không nhỏ làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo vệ chế độ, bảo vệ nền pháp chế XHCN và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận văn mà tác giả thực hiện xuất phát từ công tác thực tiễn. Tuy bản thân có nhiều nỗ lực và được thầy hướng dẫn tận tình giúp đỡ, được các đồng nghiệp hỗ trợ nhưng do nhận thức và phương pháp nghiên cứu còn hạn chế, nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được các thầy cô, các nhà khoa học và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Danh mục các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan đến luận văn
1. Hoàng Văn Hạnh (2006), "Vì sao bản án, quyết định bị huỷ", Tạp chí Dân chủ pháp luật, (11).
Danh mục tài liệu tham khảo
Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995).
Bộ luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000).
Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004).
Chính phủ (1994), Nghị quyết số 184/CP ngày 30/11/1994.
Chính phủ (1998), Nghị quyết số 83/1998 NĐ - CP ngày 10/10/11998.
Chính phủ (2000), Nghị quyết số 35/2000/ QH 10 ngày 9/6/2000.
Chính phủ (2001), Nghị quyết số 70/2001/NĐ - CP ngày 30/10/2001.
Chính phủ (2001), Nghị quyết số 77/2001/ NĐ - CP ngày 22/10/2001.
Chính phủ (2001), Nghị quyết số 87/2001/NĐ - CP ngày 21/11/2001.
Chính phủ (2001), Nghị định số 175/2001/ NĐ - CP ngày 08/12/2001 về công chứng, chứng thực.
Chính phủ (2002), Nghị quyết số 32/2002/ NĐ- CP ngày 27/3/2002.
Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002.
Phạm Thị Dần (2000), Điều tra trong tố tụng dân sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
Ngô Anh Dũng (2002), "Sự cần thiết phải quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự", Tạp chí tòa án nhân dân, (4), tr. 9-11.
Ngô Vĩnh Bạc Dương (2001), "Vấn đề áp dụng hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), tr.53-60.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Trung ương III khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Nghị quyết Trung ương VII khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Trung ương VIII của Bộ Chính trị Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, tháng 01 năm 2001.
Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, tháng 01 năm 2006.
Đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Minh Đoan (1996), "Những yêu cầu đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật", Tạp chí Luật học, (1), tr. 2 - 11.
Nguyễn Minh Đoan (1996), "áp dụng pháp luật - Một số vấn đề cần quan tâm", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (3), tr. 14-18.
Lê Thu Hà (1997), "án dân sự bị kéo dài - nguyên nhân và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (10), tr. 41-46.
Lê Thu Hà (1999), "Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự của tòa án nhân dân", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), tr. 41-50.
Lê Thu Hà (2003), Một số suy nghĩ về cơ chế xét xử vụ án dân sự, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi bổ sung một số điều luật Hiến pháp 1992) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Hiện (2001), "Tiêu chuẩn thẩm phán - Thực trạng và những yêu cầu đặt ra trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí tòa án nhân dân, (4), tr. 2- 6.
Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2005), Nghị quyết về việc phê chuẩn báo cáo hoạt động công tác năm 2005 và nhiệm vụ công tác 2006 của ngành Toà án tỉnh Thái Nguyên.
Tiến Long (2001), "Một số sai sót hoặc thiếu thống nhất trong việc áp dụng thủ tục thẩm phán dân sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, (2), tr. 20- 23.
Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1989).
Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999).
Luật hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000).
Luật tổ chức Toà án nhân dân (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trương Kim Oanh (1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
Ngô Tự Nam (1998), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án Nhân dân ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
Ngô Minh Ngọc (2000), Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1990), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Đặng Quang Phương (1999), "Thực trạng của các bản án hiện nay và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án", Tạp chí tòa án nhân dân (7 - 8).
Đặng Quang Phương (2004), "Giải thích hiến pháp, Luật, Pháp lệnh là đòi hỏi tất yếu trong thi hành pháp luật", Tạp chí tòa án nhân dân, (7) tr. 2-5.
Lê Xuân Thân (2002), "Nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người thẩm phán", Tạp chí tòa án nhân dân, (1), tr.6-7.
Lê Xuân Thân (2003), "Các yếu tố cơ bản tạo thành tư cách của người thẩm phán", Tạp chí tòa án nhân dân, (12), tr.2-4.
Đỗ Gia Thư (2004), "Thực trạng đội ngũ thẩm phán nước ta - những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm", Tạp chí Tòa án nhân dân, (13), tr. 2-8.
Phan Hữu Thư (chủ biên) (2002), Sổ tay thẩm phán, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Phan Hữu Thư (2004), Tiến tới xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự của thời kỳ đổi mới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Đào Xuân Tiến (1997), Xét xử phúc thẩm dân sự, Luận văn thạc sỹ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
Hoàng Trung Tiếu (1996), Tìm hiểu việc áp dụng luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 3/1/2001.
Toà án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003.
Toà án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 03/2003/NQ/HĐTP ngày 18/4/2003.
Toà án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 02/2001/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004.
Toà án nhân dân tối cao (2002), Nghị quyết số 02/2002/NĐ- HĐTP ngày 23/12/2002 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, Báo cáo tổng kết công tác năm 2002-2005.
Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Kết quả kiểm tra công tác xét xử và giải quyết án các loại án đối với Toà án nhân dân các huyện, thị, thành phố trong tỉnh năm 2000 - 2004.
Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2000), Báo cáo tổng kết công tác toà án năm 2000-2004.
Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2004), Bảng thông kê công tác tổ chức năm 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Đào Trí úc (chủ biên) (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2560.doc