ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HUỆ YÊN
ẨN DỤ TU TỪ
TRONG THƠ TỐ HỮU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HUỆ YÊN
ẨN DỤ TU TỪ
TRONG THƠ TỐ HỮU
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Quang Năng
THÁI NGUYÊN – 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4864 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
NỘI DUNG LUẬN VĂN
5
1.1. Khái niệm về ẩn dụ 5
1.2. Các kiểu ẩn dụ 9
1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ 17
1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu 23
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 29
2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu 29
2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu 51
Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU 60
3.1. Chức năng xây dựng hình tượng 60
3.2. Chức năng biểu cảm 69
3.3. Chức năng thẩm mỹ 75
3.4. Chức năng nhận thức 81
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 99
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện
đại, là người mở đầu và dẫn đầu tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng. Suốt
cuộc đời gắn bó với hoạt động cách mạng và sáng tạo thơ ca, ông đã thực sự
tạo nên được niềm yêu mến, nỗi đam mê bền chắc trong lòng nhiều thế hệ độc
giả. Ông là người đã đem đến cho công chúng và cũng nhận được từ họ sự
đồng cảm, đồng điệu, đồng tình tuyệt diệu. Tố Hữu là hình ảnh tiêu biểu của
một kiểu nhà thơ mới - nhà thơ trữ tình chính trị. Con đường thơ của Tố Hữu
song hành cùng quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
1.2. Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Tố Hữu là một bộ phận không thể
thiếu trong vốn văn hóa tinh thần của quần chúng Cách mạng. Trong hơn nửa
thế kỉ qua, thơ Tố Hữu luôn có mặt trong chương trình sách giáo khoa Ngữ
văn ở các cấp học. Thơ ông đã "đốt lửa" và "truyền lửa" tới muôn triệu trái
tim bạn đọc. Đồng thời, thơ Tố Hữu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
các nhà nghiên cứu, phê bình có tên tuổi trong nước cũng như nước ngoài.
Thơ Tố Hữu được nghiên cứu từ nhiều góc độ, bình diện khác nhau. Tố Hữu
được đánh giá là "nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện
đại" [26, tr. 407].
1.3. Thơ Tố Hữu "bắt rễ sâu và hấp thu sức mạnh trong nguồn mạch
dân tộc, thể hiện sự thống nhất cao độ giữa cách mạng và dân tộc trong hình
thức tươi đẹp của nghệ thuật. Ông tiếp thu được cả hai nguồn thơ ca dân gian
và bác học, đã kế tục sáng tạo nhiều thể thơ dân tộc, thực hiện sự thống nhất
dân tộc - hiện đại trong nghệ thuật" [26, tr. 407]. Không cố công đi tìm hình
thức biểu hiện trong sự gọt giũa cầu kì hay những kỹ xảo thơ ca mà ông có ý
thức về sự kết hợp giữa dân tộc, truyền thống và hiện đại. Cái hiện đại trong
thơ ông được thể hiện nhuần nhuyễn trên nền truyền thống và dân tộc. Ông rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
dân tộc khi trở về với thơ ca dân gian, với thơ ca yêu nước. Ông quan tâm đến
hình ảnh, ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ.
1.4. Chọn đề tài "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu", luận văn mong muốn
làm rõ thế giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Tố Hữu, đồng thời góp phần nhìn
nhận và đánh giá đầy đủ hơn về những đóng góp của nhà thơ ở phương diện
nghệ thuật. Nghiên cứu "Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu" cũng để làm rõ những
giá trị, những kinh nghiệm và truyền thống của phương thức tu từ mà người
thi sĩ cách mạng này đã từng khai phá và sáng tạo.
1.5. Đã có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá,
nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật của thơ Tố
Hữu: phong cách nghệ thuật, tính dân tộc, ngôn ngữ, nhạc điệu... Tuy vậy, ẩn
dụ tu từ trong thơ Tố Hữu cho đến nay chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống và đầy đủ. Do vậy, đề tài mà luận văn lựa chọn sẽ cố gắng tập trung vào
hướng khảo sát còn để ngỏ này.
2. Lịch sử vấn đề
Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, ẩn
dụ tu từ đã góp phần tạo nên những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng
ngôn từ. Phải kể tới sự đóng góp của nghệ sĩ dân gian trong ca dao - dân ca,
Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính, Xuân Diệu
hay Chế Lan trong thơ, đặc biệt là Tố Hữu.
Hơn nửa thế kỉ qua, thơ Tố Hữu trở thành một hiện tượng, một đối
tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các nhà nghiên cứu,
phê bình có tên tuổi như: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh
Đức, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử,
các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi, Hoàng Trung Thông…Từ những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà
nghiên cứu đều thống nhất đánh giá: Tố Hữu là một phong cách lớn, thơ Tố
Hữu có giá trị đặc sắc trong sự phát triển của nền văn học dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Ngoài những nghiên cứu ở góc độ phê bình văn học, thơ Tố Hữu được
nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu thi
pháp thơ Tố Hữu, tính dân tộc trong nghệ thuật biểu hiện, cách sử dụng ngôn
ngữ, xây dựng hình ảnh...
Trong "Phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu", Nguyễn Văn Hạnh
có viết "Đọc thơ anh thoáng qua dễ không thấy hết được những phát hiện mới
mẻ, độc đáo. Ít thấy kỹ thuật. Thậm chí có những cái quen thuộc, "chung
chung", gần "mòn", "cũ" (…). Nó có chỗ mạnh của nó. Đó cũng là một trong
những chỗ mạnh của văn học dân gian" [23, tr. 843].
Lê Đình Kỵ đã khẳng định tính dân tộc đậm đà trong thơ Tố Hữu qua
cách sử dụng ẩn dụ trong thơ: "Tố Hữu cũng sử dụng rộng rãi lối ví von rất
quen thuộc của ca dao (…). Thông thường thì là ví von gián tiếp hơn, theo lối
mà ngày nay chúng ta gọi là ẩn dụ, nhưng ý vị và cấu trúc thì vẫn rất gần với
ca dao" [38, tr. 801].
Trong cuốn "Những thế giới nghệ thuật thơ", Trần Đình Sử có nhận
xét về thế giới ngôn từ trong thơ Tố Hữu: "Xét về ngôn từ thơ Tố Hữu là cả
một thế giới bùng cháy, tỏa sáng, nẩy nở tột cùng, dâng hiến tột độ (…). Hệ
thống hình ảnh ngôn từ ấy làm cho thơ Tố Hữu thực sự là tiếng thơ nóng bỏng,
sáng ngời, bay bổng, nhiệt huyết" [51, tr. 187]. Cũng trong bài viết này, tác giả
khẳng định "Ngôn từ thơ Tố Hữu mang tính chất hiện thực và cổ điển" [51, tr. 188].
Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu là hướng đi tiếp nối những
công trình đi trước nhằm tìm ra những nét mới mẻ và độc đáo trong thế giới
nghệ thuật của người nghệ sĩ cách mạng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tập Thơ Tố Hữu (NXB Văn hóa - thông tin, HN - 2002) gồm các tập
thơ: Từ ấy (1946); Việt Bắc (1954); Gió lộng (1961); Ra trận (1962-1971);
Máu và Hoa (1977); Một tiếng đờn (1992); Ta với Ta (1999). Tất cả tập sách
gồm 7 tập thơ với 284 bài thơ.
Nghiên cứu hiện tượng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Thi pháp học thể loại: vận dụng thi pháp thể loại (thơ trữ tình)
4.2. Phương pháp thống kê: Thống kê số lượng ẩn dụ tu từ được sử dụng
trong các tập thơ của Tố Hữu. Kết quả thống kê sẽ được phân loại phục vụ cho việc
nghiên cứu định lượng, miêu tả và bàn luận cụ thể về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích đặc điểm từng kiểu
loại ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đánh giá
khái quát những nét độc đáo về nghệ thuật sử dụng ngôn từ của nhà thơ trong
việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật.
4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu: Luận văn so sánh cách sử dụng
ẩn dụ tu từ qua các tập thơ của Tố Hữu để làm nổi bật nét mới của các ẩn dụ
tu từ trong quá trình sáng tác của Tố Hữu.
5. Đóng góp của luận văn
5.1. Về lý luận: Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu góp phần
làm sáng tỏ những nét độc đáo trong phong cách thơ Tố Hữu nhằm khẳng
định tài năng "lá cờ đầu của thơ ca cách mạng". Đồng thời, xác định giá trị
của phương tiện tu từ này trong sự phát triển của thơ ca đương đại.
5.2. Về thực tiễn: Từ việc khẳng định những đặc sắc của ẩn dụ tu từ
trong thơ Tố Hữu, thấy được những kinh nghiệm nghệ thuật của nhà thơ như
một truyền thống hòa nhập vào thơ ca đương đại. Nó còn góp phần thúc đẩy
việc tìm hiểu tác phẩm văn học dựa trên mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức, nhất là con đường tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm ở cấp độ từ ngữ.
6. Cấu trúc của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết: Những vấn đề liên quan đến nội dung luận văn.
Chương 2: Đặc điểm ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
Chương 3: Chức năng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG LUẬN VĂN
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ẨN DỤ
1.1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu ẩn dụ
Vấn đề ẩn dụ luôn được đặt ra và nghiên cứu từ nhiều cấp độ khác
nhau của truyền thống học thuật riêng biệt như các học thuyết của triết học,
tâm lý học, phong cách học, ngôn ngữ học và gần đây là dụng học và ngôn
ngữ học tri nhận. Trong các công trình nghiên cứu thuộc về ngôn ngữ học
truyền thống, ẩn dụ thường chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn trong phần từ vựng
học và tu từ học với qun điểm coi nó là một phương thức phát triển nghĩa mới
của từ (ẩn dụ từ vựng) hoặc là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ).
Lý thuyết về ẩn dụ có một lịch sử lâu dài và đầy sóng gió, bắt đầu từ
triết học thời Hi Lạp cổ đại với tên tuổi của triết gia Aristotle - một trong
những người thầy triết học. Ông đã xem ẩn dụ là hình thức trang trí trong
ngôn ngữ nghệ thuật và hùng biện bằng phương thức chuyển nghĩa từ giống
đến loài, từ loài sang giống hoặc dựa trên cơ sở tương tự.
Ở Trung Hoa cổ đại, trong các công trình nghiên cứu của các học giả,
ẩn dụ thể hiện qua khái niệm tỉ (chỉ cách ví von, bóng gió) và ẩn chứa trong
lời diễn khởi đầu của các bài dân ca sau này được ghi lại trong tác phẩm Kinh
Thi nổi tiếng.
Thời hiện đại, ẩn dụ cũng xuất hiện trong nhiều công trình nghiên cứu
của các nhà ngôn ngữ trên thế giới như R. Jakobon, J.Cohen, P. Ricoeur,
Samuel Levin và sau này là G. Lakoff và Mark Tumer,... ở những góc độ
nghiên cứu khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng chú ý về ẩn dụ
của các nhà Việt ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học. Đáng chú ý là các
công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn
Tu, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa, Nguyễn Đức Tồn, …
1.1.2. Các quan niệm về ẩn dụ
1.1.2.1. Ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa của từ
Ẩn dụ là nét độc đáo của ngôn ngữ tự nhiên. Ẩn dụ được nghiên cứu
trong rất nhiều lĩnh vực theo những góc độ và những cách thức khác nhau.
Trên thế giới, người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về ẩn dụ là
Aristotle trong cuốn Thi học. Trong tác phẩm này, Aristotle đã nói rằng ẩn dụ
là sự áp dụng cho một sự vật nào đó một cái tên mà cái tên này vốn thuộc về
một sự vật khác hoặc là từ loại cho đến chủng hoặc từ chủng cho đến loại, từ
loại nhỏ sang loại nhỏ khác dựa vào sự đồng dạng. Aristotle đã phát biểu lý
thuyết về phép so sánh rút gọn, lý thuyết về bản chất so sánh rút gọn của ẩn
dụ. Theo đó, ẩn dụ được xem như một phần so sánh được rút gọn bằng cách
loại bỏ từ so sánh "như là", "là" v.v...Chẳng hạn, theo Aristotle, ẩn dụ người
là chó sói là một phép rút gọn từ một phép so sánh người giống như là một
con chó sói (so sánh trong tiếng Việt: mặt hoa là rút gọn từ phép so sánh: Mặt
(người) tươi như hoa).
Trong các sách nghiên cứu ẩn dụ trong và ngoài nước, cho đến nay, ẩn
dụ thường được coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm
giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau. Theo A.A.Refor-matxkij thì
"ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là "sự chuyển đổi", là trường hợp chuyển nghĩa
điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ dựa trên sự giống nhau của các sự
vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động v.v..." [Dẫn theo 59, tr. 1]. Theo
Ju. X. Xtepanov thì "Bản thân từ Meta phora từ tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là
"sự chuyển nghĩa" và " khi một từ, tuy vẫn còn liên hệ với biểu vật mới, thì
hiện tượng ngôn ngữ đó là ẩn dụ" [Dẫn theo 60, tr. 1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Các nhà ngôn ngữ học trong nước cũng có quan điểm tương tự. Nguyễn
Văn Tu cho rằng:
Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên gọi của một sự vật
khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan hệ đó
chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, theo tưởng
tượng của ta mà gọi một sự vật chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật
mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián
tiếp ấy mà ta thấy mối quan hệ giữa các vật khác nhau [63, tr. 159].
Đỗ Hữu Châu cũng quan niệm: "Ẩn dụ là cách gọi tên sự vật hiện
tượng này bằng tên gọi của một sự vật hiện tượng khác, giữa chúng có mối
quan hệ tương đồng". [7, tr. 54]. Sau này, trong công trình Từ vựng - ngữ
nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu giải thích một cách cụ thể hơn: "Cho A là một
hình thức ngữ âm, X và Y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn là tên gọi của X
(tức X là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là phương thức
lấy tên gọi A của X để gọi tên Y (để biểu thị Y), nếu như X và Y có nét nào
đó giống nhau" [8, tr. 145].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: "Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa vào sự
giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau" [21, tr. 162].
Đào Thản đã giải thích khá rõ ràng, cụ thể khái niệm ẩn dụ trong mối
quan hệ với sự so sánh: "Ẩn dụ cũng là một lối so sánh dựa trên sự giống
nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất, hoặc chức năng của hai đối
tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song song hai phần đối tượng và
phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại phần để so sánh" [53, tr. 143].
Theo quan điểm của Nguyễn Đức Tồn thì bản chất của ẩn dụ là: "phép
thay thế tên gọi hoặc chuyển đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng này
sang sự vật, hiện tượng khác loại dựa trên cơ sở sự liên tưởng đồng nhất hóa
chúng theo đặc điểm, thuộc tính nào đó cùng có ở chúng" [61, tr. 8].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Lần đầu tiên, trong sự phân tích ẩn dụ trong quan hệ với so sánh,
Nguyễn Đức Tồn đã chỉ ra một cách cụ thể, rõ ràng cái mà lâu nay người ta
vẫn nói ẩn dụ là so sánh ngầm. Và thực chất "về lôgic, chỉ có sự đồng nhất
hoặc tương đồng hoàn toàn giữa các sự vật thì mới cho phép có thể dùng cái
này để thay thế cái kia được (cũng giống như nguyên tắc thay thế phụ tùng,
máy móc trong khoa học kỹ thuật" [60, tr. 5].
1.1.2.2. Ẩn dụ là một biện pháp tu từ (ẩn dụ tu từ)
Cù Đình Tú cho rằng: "Ẩn dụ tu từ là cách cá nhân lâm thời lấy tên
gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở mối
quan hệ liên tưởng về nét tươnghs hiểu của đồng giữa hai đối tượng" [65, tr. 179].
Đinh Trọng Lạc quan niệm:
Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa
trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiện thực hoặc
tưởng tượng ra) giữa khách thể (hiện tượng, hoạt động, tính chất) A
được định danh với khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động tính
chất) B có tên gọi được dùng chuyển sang cho A [34, tr. 52].
Theo Nguyễn Thái Hòa: "Phép ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa
của một đối tượng này thay cho đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét
nghĩa tương đồng" [36, tr. 194].
Hữu Đạt cũng quan niệm:
Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận
văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải dùng năng lực liên tưởng
để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật,
hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy, thực chất của phép ẩn
dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên
cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc[13, tr. 302].
Theo Nguyễn Đức Tồn, ẩn dụ tu từ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Được sử dụng như một biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi
cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt. Cho nên có thể
gọi nó là ẩn dụ lâm thời hay ẩn dụ tu từ. (…) Ẩn dụ lâm thời hay ẩn
dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng, do vậy mới có khả năng cùng chỉ
một đối tượng nhưng mỗi người lại có thể có cách diễn đạt bằng
hình ảnh ẩn dụ khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau [61, tr. 4].
Như vậy, qua những cách hiểu và định nghĩa nêu trên, có thể thấy
rằng, trong Việt ngữ học, ẩn dụ ẩn dụ được xem xét theo hai góc độ. Thứ
nhất, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của đơn vị
từ vựng dựa vào mối tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Theo góc độ này, ẩn
dụ là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học. Thứ hai, ẩn dụ là một biện pháp
tu từ nhằm tạo nên những biểu tượng trong nhận thức của con người. Ở góc
độ này, ẩn dụ là đối tượng nghiên cứu của phong cách học, được coi là biện
pháp tu từ (ẩn dụ tu từ). Với tư cách là biện pháp tu từ, ẩn dụ tu từ được khảo
sát trong những ngữ cảnh cụ thể, gắn liền với văn bản. Nếu tách khỏi văn
cảnh thì giá trị ngữ nghĩa của nó sẽ không còn tồn tại.
1.2. CÁC KIỂU ẨN DỤ
1.2.1. Quan niệm của Đỗ Hữu Châu
Theo Đỗ Hữu Châu, ẩn dụ có các kiểu sau đây:
+ Ẩn dụ hình thức là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức
giữa các sự vật. Ví dụ, những ẩn dụ trong các từ chân trong chân bàn, chân
núi, chân tường, từ mũi trong mũi thuyền, mũi đất, mũi dao; từ cánh trong
cánh buồm, cánh đồng, cánh quạt...là những ẩn dụ chỉ hình thức.
+ Ẩn dụ chỉ cách thức là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về cách
thức thực hiện giữa hai hoạt động, hiện tượng.Ví dụ, nắm tư tưởng, cắt hộ
khẩu chỉ rõ cách thức nhận thức tư tưởng, cách thức chuyển hộ khẩu cũng
giống như cách chúng ta cắt, nắm một sự vật vật lí cụ thể nào đó.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
+ Ẩn dụ chức năng là những ẩn dụ dựa dựa vào sự giống nhau về chức
năng giữa các sự vật. Ví dụ, các ẩn dụ chức năng như chốt trong giữ chốt, cửa
trong cửa sông, cửa rừng.
+ Ẩn dụ kết quả là những ẩn dụ dựa vào sự giống nhau về tác động
của các sự vật đối với con người.Ví dụ, ấn tượng nặng nề là muốn nói tới tác
động của ấn tượng đối với lí trí, tình cảm của chúng ta cũng giống như một
vật nào đó có trọng lượng lớn mà chúng ta phải mang, phải gánh, làm chúng
ta cử động khó khăn, đi đứng chậm chạp, không nhẹ nhàng, thanh thoát.
Trong những ẩn dụ kết quả, có một loại đáng được chú ý đặc biệt,
đó là những ẩn dụ dùng tên gọi của những cảm giác thuộc giác quan này để
gọi tên những cảm giác của giác quan khác hay những "cảm giác"của trí
tuệ, tình cảm. Ví dụ, chua, ngọt, mặn, cay, chát... là những cảm giác vị giác
được dùng để gọi các cảm giác thính giác nói chua loét, lời nói ngọt ngào,
nói cay quá...
Sự phân loại các ẩn dụ theo cơ chế nét nghĩa đồng nhất không phải
bao giờ cũng tách bạch, dứt khoát. Trong rất nhiều ẩn dụ không chỉ một mà
thường là một số nét nghĩa cùng tác động. Ví dụ, trong những từ như: mũi,
chân cả hai nét nghĩa hình dáng và vị trí phối hợp với nhau tạo nên các nét
nghĩa ẩn dụ của chúng (trong chân bàn thì có nét nghĩa hình dáng nhưng
trong chân núi thì chủ yếu là nét nghĩa vị trí).
1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Thiện Giáp
Theo Nguyễn Thiện Giáp, ẩn dụ có các kiểu sau:
+ Ẩn dụ hình thức. Ví dụ, Bướm, loài côn trùng có cánh bay. Cái mắc
áo có hình con bướm cũng được gọi là bướm. Mũi là bộ phận có đặc điểm
nhọn, nhô ra. Phần đất nhô ra cũng được gọi là mũi đất.
+ Ẩn dụ chuyển tính chất của sự vật này sang sự vật hoặc hiện tượng
khác. Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
(Vũ Đình Liên)
+ Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó.
Ví dụ, tình cảm khô khan; lời nói ngọt ngào.
+ Ẩn dụ chức năng. Ví dụ, bến trong bến xe, bến tàu điện… không
giống nhau về hình dạng, không giống nhau về vị trí … với bến sông, bến đò.
Nó chỉ giống bến sông, bến đò ở chức năng đầu mối giao thông.
+ Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài.Ví dụ, người phụ nữ
hay ghen gọi là Hoạn Thư; người đàn bà đẹp gọi là Tây Thi.
+ Ẩn dụ màu sắc.Ví dụ, màu da trời - màu xanh như da trời; màu cánh
sen - màu hồng như màu của cánh sen; màu cốm - màu xanh như màu của cốm.
+ Ẩn dụ chuyển tên con vật thành con người. Ví dụ, cún con của mẹ;
bồ câu của anh.
+ Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ, hạt nhãn là cái cụ thể chỉ phần
bên trong của quả được dùng để chỉ trung tâm quan trọng nhất của một vấn đề.
1.2.3. Quan niệm của Cù Đình Tú
Theo Cù Đình Tú, trên lý thuyết, nếu như có bao nhiêu khả năng
tương đồng thì có bấy nhiêu khả năng cấu tạo ẩn dụ tu từ. Có thể nêu một số
khả năng tương đồng được dùng làm cơ sở để tạo ra các ẩn dụ tu từ:
+ Tương đồng về màu sắc. Ví dụ:
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
(Nguyễn Du)
(Lửa và hoa lựu có màu sắc như nhau (màu đỏ), lửa biểu thị hoa).
+ Tương đồng về tính chất. Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ bỗng
bừng lên ánh bình minh của thời đại.
(Bóng đêm và chế độ thực dân phong kiến có tính chất như nhau (tăm
tối), bóng đêm biểu thị chế độ thực dân phong kiến).
+ Tương đồng về trạng thái. Ví dụ:
Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh
(Tố Hữu)
(Ngôi sao lặn và Bác Hồ qua đời có trạng thái như nhau (không còn),
sao lặn biểu thị Bác Hồ từ trần).
+Tương đồng về hành động. Ví dụ:
Thay mặt cho tất cả các tổ chức ấy chỉ có một mình anh ủy viên
thường trực trẻ tuổi. Con sông nhỏ hứng đủ trăm dòng suối trút xuống.
(Hứng đủ trăm dòng và nhận giải quyết mọi việc có hành động (tiếp
nhận) giống nhau, do đó dùng hành động hứng đủ trăm dòng biểu thị nội
dung: "nhận giải quyết mọi việc").
+ Tương đồng về cơ cấu. Ví dụ:
Thầy quen nhẫn nại như một người đan rổ: tay bắt từng nan một, uốn
nắn cho khéo, vào khuôn vào khổ. Nhiều nan bị gãy nhưng rổ vẫn thành rổ.
(Rổ có nhiều nan có cơ cấu tương tự lớp có nhiều trò, rổ biểu thị lớp
học trò).
1.2.4. Quan niệm của Đinh Trọng Lạc
Đinh Trọng Lạc chia ẩn dụ thành các kiểu nhóm sau: ẩn dụ, ẩn dụ bổ
sung và ẩn dụ tượng trưng. Ngoài ra, ông cũng coi nhân hóa và vật hóa là
những biến thể của ẩn dụ.
+ Ẩn dụ hình tượng là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa. Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Hoa thơm bán một đồng mười
Hoa tàn nhị rữa bán đôi lạng vàng
(Ca dao)
Giá đành trong nguyệt trên mây
Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa
(Nguyễn Du)
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
(Nguyễn Du)
Phượng những tiếc cao, diều hay liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi
(Nguyễn Trãi)
Ở nghĩa gốc, từ hoa là tên gọi cơ quan sinh sản hữu tính của một loại
thực vật thường có màu sắc đẹp và hương thơm. Từ hoa khi thì dùng để ví
người phụ nữ đẹp, khi thì được dùng để ví người tình nhân hào hoa phong
nhã, khi lại dùng để ví người có phẩm chất cao đẹp. Như vậy, hoa đồng nghĩa
với tốt đẹp, cao quý…
Có thể nói, ẩn dụ hình tượng là phương thức bình giá riêng của cá
nhân nhà văn, nhà thơ. Bằng những sắc thái ý nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng
tìm kiếm được, ẩn dụ hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và
đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo.
+ Ẩn dụ bổ sung (ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) là sự kết hợp của hai
hay nhiều từ chỉ những cảm giác sinh ra từ trung khu cảm giác khác nhau làm
cho cảm giác phong phú, đa chiều, đa vị, đa nghĩa. Ẩn dụ bổ sung được chia
ra một số loại như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
+ Thị giác + nhiệt: Cái màu xanh này mát quá
+ Thính giác + vị giác: Câu chuyện nhạt phèo
+ Thị giác + khứu giác: Thấy thơm rồi đó
+ Khứu giác + vị giác: Một mùi đăng đắng
+ Thính giác + xúc giác: Một tiếng sắc nhọn
Ví dụ:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của du dương….
(Xuân Diệu)
Khúc nhạc của nhà thơ không chỉ nghe bằng tai mà nghe bằng làn da,
bằng lưỡi… thấm vào tâm hồn. Lúc này mọi giác quan được huy động đến tột
cùng và dẫn tới sự giao thoa, xuyên thấm. Phải là nghệ sĩ mới có cái nghe kì
diệu đến vậy! Dường như ngôn ngữ đưa ta vào một thế giới mới, một thế giới
huyền diệu hơn, phong phú hơn và đánh thức trong ta những cảm quan nghệ
thuật hằng ấp ủ trong lòng mỗi người.
+ Ẩn dụ tượng trưng là sự kết hợp của một khái niệm trừu tượng với
một khái niệm về cảm giác. Ví dụ:
Cỏ cây một màu khổ não/ Xanh ve mãi lên một niềm hoài vọng/ Màu
đỏ giận dữ
(Nguyễn Tuân)
Ở đây có sự kết hợp của các từ ngữ: màu với khổ não, màu đỏ với
giận dữ. Sự kết hợp đó được thực hiện trên cơ sở khác loại, bởi vì một khái
niệm thì trừu tượng, một khái niệm thì cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Ẩn dụ tượng trưng là đặc điểm của ngôn ngữ thơ. Nó trở thành một
phương tiện tu từ đắc lực trong việc bộc lộ tâm hồn sâu kín qua cái cảm quan
kì diệu của con người.
Ví dụ:
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
(Huy Cận)
+ Nhóm biến thể ẩn dụ
- Nhân hóa
Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ
ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu
hiệu của đối tượng không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu
tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày
tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình.Ví dụ:
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Đêm bâng khuâng đôi miếng lẫn trong cành
(Xuân Diệu)
Về mặt hình thức, nhân hóa được cấu tạo theo 2 cách. Thứ nhất là,
dùng từ ngữ chỉ tính chất hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt
động của đối tượng không phải là con người.Ví dụ:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
(Vũ Đình Liên)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Thứ hai là, coi đối tượng không phải là người như con người để trao
gửi, trò chuyện, tâm sự. Ví dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi ?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
(Ca dao)
- Vật hóa
Vật hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình
thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa, tức là lấy
những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người nhằm mục đích
châm biếm, đùa vui, nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín
của mình. Ví dụ:
Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Đến khi quanh đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng
(Ca dao)
Bài ca dao trên đem tới cho người đọc tiếng cười vui vẻ và sảng khoái.
Ở đó, hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược chiều lại với nhân hóa
được thể hiện nhằm mục đích châm biếm, đùa vui hóm hỉnh mà thâm thúy.
Qua đó, người viết thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước hiện thực một
cách sâu sắc và thấm thía.
Tóm lại, theo Đinh Trọng Lạc, nhóm ẩn dụ thực chất là phương thức
chuyển nghĩa theo mối liên tưởng tương đồng giữa hai sự vật, trong đó cái
được so sánh gọi tên thay cho cái so sánh. Đó là cơ chế chuyển từ trường
nghĩa này sang một trường nghĩa khác. Cụ thể là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
(1). Từ trường thể chất sang trường tinh thần, ta có ẩn dụ và
ẩn dụ tượng trưng.
(2). Từ trường sự vật sang trường con người, ta có nhân hóa,
ngược lại ta có vật hóa.
(3). Từ trường cảm giác này sang trường cảm giác khác, ta
có ẩn dụ bổ sung [34, tr. 215].
Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn
ngữ như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Cù Đình Tú và Đinh Trọng
Lạc. Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ được trình bày theo
những cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ
sung cho nhau nhằm đem đến một cách hiểu đầy đủ và thống nhất về ẩn
dụ tu từ. Cách phân loại trên dựa vào cơ sở quan hệ liên tưởng tương
đồng, làm rõ tính chất mở và khả năng sinh sản lớn lao của ẩn dụ tu từ.
Mặt khác, cách phân loại này cũng thống nhất với cách phân loại hoán dụ tu
từ (dựa trên liên tưởng lô gích khách quan).
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA ẨN DỤ TU TỪ
1.3.1. Phân biệt ẩn dụ tu từ với ẩn dụ từ vựng
Ẩn dụ từ vựng là ẩn dụ nghĩa chuyển đã được cố định hóa trong hệ
thống ngôn ngữ, được đưa vào trong từ điển và được toàn dân sử dụng.
Trong khi đó, ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng. Nó được dùng với
nghĩa ngữ cảnh, cách chuyển đổi tên gọi lâm thời hay những cách dùng tiếng
Việt có tính cách cá nhân. Ẩn dụ loại này được sử dụng như một biện pháp tu
từ nhằm tăng sức gợi cảm, gợi hình và giá trị thẩm mỹ cho sự diễn đạt.
Ví dụ:
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
(Ca dao)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời
(Nguyễn Du)
Ở câu trên, từ chân trong cụm từ kiềng ba chân, nét nghĩa vị trí dưới
cùng của chân (người) được giữ lại. Nét nghĩa này đã được cố định hóa trong
nghĩa của từ trên. Bởi thế, mọi người đều có thể sử dụng và sử dụng trong
mọi ngữ cảnh khi cần thiết.
Ở câu dưới, Kim Trọng gọi mình là kẻ chân mây cuối trời tức là kẻ đi
xa trong cuộc chia li này. Như vậy, chân trong cụm từ chân mây cuối trời
được dùng để chỉ Kim Trọng. Chỉ trong văn cảnh này mới cho phép ta hiểu
như vậy, nếu tách khỏi văn cảnh thì nghĩa đó không còn nữa.
1.3.2. Phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ
Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đinh Trọng
Lạc đã khẳng định: "So sánh tu từ là cách đối chiếu hai đối tượng khác loại
của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có cùng
một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới
về đối tượng" [34, tr. 154]. Về bản chất, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa
vào sự giống nhau giữa các sự vật hoặc hiện tượng được so sánh với nhau.
Tuy nhiên cần phân biệt ẩn dụ tu từ với so sánh tu từ.
Sự giống nhau giữa ẩn dụ tu từ và so sánh tu từ chính là cách liên
tưởng để rút ra được nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại. Nét tương
đồng này là cơ sở để hình thành nên ẩn dụ tu từ cũng n._.hư so sánh tu từ.
Ví dụ:
Thiếp như hoa đã lìa cành
Chàng như con bướm lượn vành mà chơi
(Nguyễn Du)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Hai đối tượng được so sánh ở đây (hoa và người con gái, con bướm và
chàng trai) có sự tương đồng là sự tinh túy, xinh đẹp; sự kiếm tìm cái đẹp và
tình yêu. Hoa gắn liền với hương thơm, màu sắc. Hoa đẹp nhưng chóng tàn,
giống như người con gái đẹp nhưng tuổi xuân mau phai nhạt. Mối quan hệ
của bướm với hoa (bướm say hoa, bướm gần hoa, bướm lượn vành bén
hoa…) là mối quan hệ để duy trì nòi giống nếu xét trên quan điểm sinh học.
Thiếu sự cộng sinh ấy thì cả cây và bướm đều bị đe dọa tuyệt diệt. Từ sự
tương đồng ấy, người con gái trong ca dao muốn nói tới cảnh ngộ của mình
và lời oán thán đối với chàng trai nọ trong tình yêu đôi lứa.
Ẩn dụ cũng được xây dựng trên liên tưởng tương đồng như thế. Ví dụ,
nói về đứa con yêu bé bỏng của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có liên
tưởng thú vị và ý nghĩa: Mặt trời của bắp thì mọc trên đồi/ Mặt trời của mẹ
em nằm trên lưng. Điểm gặp gỡ ở hình ảnh thơ là ánh sáng, là sự cần thiết của
ánh sáng đối với con người và vạn vật.
Tuy nhiên giữa chúng lại có những điểm khác nhau rõ rệt. So sánh tu
từ có cấu tạo gồm hai vế là đối tượng được so sánh và đối tượng được dùng
để so sánh. Ẩn dụ là so sánh ngầm ẩn. Suy nghĩ, tình cảm trong ẩn dụ được
thể hiện gián tiếp. Nếu như so sánh là cụ thể hóa nhận thức và tình cảm đối
với đối tượng thỉ ở ẩn dụ, phương pháp chuyển nghĩa thông qua những sự vật
cụ thể lại khái quát hóa, trừu tượng hóa một vấn đề nào đó, đồng thời đưa ra
một thể thống nhất mới của hình tượng nghệ thuật, tạo nên những trường
nghĩa mới.
Ví dụ:
Đôi ta là bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chưng thày mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc mâm vàng xa nhau.
(Ca dao)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Bài ca dao trên gồm 2 vế: vế trước biểu đạt sự so sánh đồng nhất giữa
sự vật đôi ta (anh và em) với đũa ngọc và mâm vàng đẹp và quý. Đôi đũa
ngọc ấy được đặt trong mâm vàng vừa hòa hợp lại vừa cao sang và đáng trân
trọng. Trong vế đầu của bài ca dao này thì đũa ngọc và mâm vàng là những sự
vật vật chất cụ thể. So sánh trên gồm có 2 vế theo kiểu cấu tạo: A như B rất
quen thuộc trong lối ví von của ca dao. Như vậy, so sánh giúp cho câu thơ
thêm sinh động và đem đến cho người đọc những rung cảm thẩm mỹ.
Vẫn là đũa ngọc - mâm vàng nhưng ở vế sau của bài ca lại là cách nói
ẩn dụ tu từ. Ở đây, đũa ngọc, mâm vàng không còn là những sự vật cụ thể mà
là hình ảnh tượng trưng biểu thị chàng trai và cô gái trong quan hệ tình cảm
với nhau. Hình ảnh này chỉ có một vế - đối tượng được dùng để biểu thị đũa
ngọc, mâm vàng. Đối tượng được biểu thị là đôi ta (cặp uyên ương trời sinh
đang sống trong những phút giây ngọt ngào hạnh phúc) thì ẩn đi. Cái điều gắn
kết tưởng chừng không thể khác được trong suy nghĩ và trong cuộc sống đã bị
cắt chia, bị xé lẻ và bị đẩy về hai phương trời, hai dòng đời khác nhau.
1.3.3. Phân biệt ẩn dụ tu từ với hoán dụ
"Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm
hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng
đó" [36, tr. 203].
Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ đều có những tính chất giống nhau: rút
gọn lời nói và tạo hình, vay mượn ngôn ngữ để làm giàu ngôn ngữ, mang vào
ngôn ngữ những yếu tố lạ, tạo bất ngờ, gây cảm xúc.
Ẩn dụ tu từ và hoán dụ tu từ có điểm khác nhau: ẩn dụ được xây
dựng trên liên tưởng tương đồng còn hoán dụ lại dùng cái quan hệ tất yếu
để kết hợp những yếu tố có cùng với nhau một mẫu số chung, thành một hệ
thống lôgic.
Ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông dường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
(Xuân Quỳnh)
Hình ảnh con thuyền di động khắp nơi trên biển cả mênh mông sóng
vỗ, mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển cũng chính là hình ảnh, tâm
trạng của đôi bạn tình đang yêu nhau tha thiết. Như vậy, ẩn dụ trên được xây
dựng trên trường liên tưởng. Còn hoán dụ áo chàm trong câu thơ của Tố Hữu
được xây dựng trong mối quan hệ gần gũi khách quan:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
(Tố Hữu)
Áo chàm - chiếc áo người dân miền núi Việt Bắc thường mặc (mang
đậm màu sắc dân tộc) để chỉ người dân Việt Bắc trong cuộc tiễn đưa cán bộ
cụ Hồ.
Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các
đơn vị ngôn ngữ. Trong một từ nhiều nghĩa, có thể nghĩa này được chuyển
theo phương thức ẩn dụ, nghĩa kia lại theo hoán dụ. Ví dụ:
Từ chân trong từ điển được giải thích với một số nét nghĩa như sau:
(1). Bộ phận cuối cùng của cơ thể người (hay động vật), dùng để đi,
đứng, thường được coi là biểu tượng của hoạt động đi lại của con người (hay
động vật). Nước đến chân mới nhảy.
(2). Chân con người, coi là biểu tượng của cương vị, phận sự của một
người với tư cách là một thành viên một tổ chức. Có chân trong hội đồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
(3). Phần dưới cùng của một số vật, tiếp giáp và bám chặt vào mặt
nền. Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Trong ba nét nghĩa trên, nét nghĩa (1) được dùng với nghĩa gốc của từ
chân. Nét nghĩa (2) được dùng theo cách nói hoán dụ và nét nghĩa (3) dùng
theo lối ẩn dụ.
Thực ra, ranh giới giữa ẩn dụ và hoán dụ không phải là tuyệt đối khi ta
thấy một đơn vị ngôn ngữ được dùng mang dấu hiệu của hiện tượng nào
nhiều hơn thì xếp vào hiện tượng đó. Mọi ẩn dụ đều phảng phất tính hoán dụ
và mọi hoán dụ đều có ít nhiều tính cách ẩn dụ.
Trên cơ sở những quan điểm về ẩn dụ nêu trên, chúng tôi rút ra kết
luận về khái niệm ẩn dụ làm cơ sở cho sự nghiên cứu, khảo sát của đề tài luận
văn như sau:
Ẩn dụ là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa
hai sự vật có nét tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay
thế tên gọi dựa trên sự đồng nhất hóa cá sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư
duy liên tưởng của con người phát hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét
hay một đặc điểm nào đó.
Ẩn dụ là một trong hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản của ngôn
ngữ đã tuân thủ quy luật tiết kiệm kì diệu của ngôn ngữ. Theo đó, người ta đã
dùng cái hữu hạn để biểu hiện cái vô hạn và nó có mặt ở tất cả các cấp độ của
ngôn ngữ. Về mặt từ vựng, quy luật tiết kiệm của ngôn ngữ được thể hiện ở
chỗ: cùng một hình thức âm thanh có thể diễn đạt được nhiều nội dung khác
nhau. Đồng thời, cùng một đối tượng cũng có nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Khi một từ hoặc một ngữ nào đó được dùng làm ẩn dụ thì nghĩa gốc
ban đầu của nó không còn nữa mà nó sẽ được hiểu theo nghĩa bóng. Các
nghĩa được tạo ra theo phép ẩn dụ tu từ không được cố định hóa trong hình
thức ngôn ngữ thành ý nghĩa của từ trong từ điển. Ẩn dụ tu từ mang tính sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
tạo riêng của cá nhân nghệ sĩ. Người đọc muốn tiếp nhận được nghĩa đó phải
dựa vào một số yếu tố như: ngữ cảnh, tính lô gích và thói quen thẩm mỹ.
Ẩn dụ không chỉ là một phương thức diễn đạt ý nghĩ bằng ngôn ngữ mà
còn là một phương thức để tư duy về sự vật. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho
rằng ẩn dụ còn là một công cụ tri nhận hữu hiệu để con người ý niệm hóa các
loại trừu tượng. Trong bài Ẩn dụ ý niệm, tác giả Phan Thế Hưng đã viết: "Ẩn dụ
không chỉ thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc phạm trù tri nhận, giải thích
được ý nghĩ và hành động của chúng ta qua ngôn ngữ hàng ngày" [31, tr. 18].
Ẩn dụ tu từ không chỉ xuất hiện ở cấp độ từ vựng mà còn xuất hiện ở
cấp độ cao hơn (cú pháp, văn bản). Trong cuốn Phân tích phong cách ngôn
ngữ trong tác phẩm văn học, các tác giả Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân
Hoa có viết: "Hoán dụ hay ẩn dụ không phải chỉ là thủ pháp chuyển nghĩa các
tín hiệu thẩm mỹ ở cấp độ từ vựng mà có thể chi phối toàn bộ cấu trúc văn
bản" [29, tr. 69]. Đặc biệt gần đây, tác giả Phan Thế Hưng đã trình bày quan
niệm của mình về ẩn dụ: "Chúng ta không hiểu ẩn dụ bằng chuyển ẩn dụ
thành phép so sánh. Thay vì vậy, câu ẩn dụ là câu bao hàm xếp loại và do vậy
hiểu ẩn dụ qua câu bao hàm xếp loại"[31, tr. 12]. Như vậy, ẩn dụ không đơn
giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu trúc bề
sâu của tư duy.
Trong phạm vi luận văn này, người viết chỉ tìm hiểu hiện tượng ẩn dụ
tu từ ở cấp độ từ vựng (bao gồm từ và cụm từ) còn các đơn vị khác lớn hơn
thuộc cấp độ ngữ pháp không thuộc đối tượng nghiên cứu của hiện tượng
chuyển nghĩa của từ.
1.4. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ NHÀ THƠ TỐ HỮU
1.4.1. Cuộc đời
Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh tại
Hội An, tỉnh Quảng Nam, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên - Huế. Tuy là một vùng đất nghèo nhưng phong cảnh thiên nhiên, núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
sông lại rất nên thơ, xứ Huế còn nổi tiếng là một vùng văn hóa phong phú,
độc đáo, đậm bản sắc văn hóa dân tộc, bao gồm cả văn hóa cung đình và văn
hóa dân gian mà nổi tiếng nhất là những điệu ca, hò như Nam ai, Nam bình,
mái nhì, mái đẩy. Tố Hữu đã từng được sống trong bầu không khí của văn hóa
của quê hương mình. Từ nhỏ, ông đã được cha dạy làm thơ theo lối cổ; được
mẹ "ấp ủ và ru bằng tiếng hát ngọt êm của người đàn bà xứ Huế" [32, tr. 60].
Truyền thống gia đình cùng với quê hương xứ Huế đã góp phần quan trọng
vào sự hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Tố Hữu bước vào tuổi thanh niên đúng vào những năm phong trào
Mặt trận Dân chủ do Đảng cộng sản lãnh đạo đang dấy lên sôi nổi trong cả
nước, mà Huế là một trong những trung tâm sôi động nhất. Tuổi trẻ của Tố
Hữu có sự gặp gỡ may mắn và đẹp đẽ với lý tưởng cách mạng. Ngay từ
những ngày đầu tiên ấy, chất men say lý tưởng đã giúp cho Tố Hữu say mê
trên mọi nẻo đường cách mạng. Ngay cả những lúc bị bắt giam trong lao
ngục, ông vẫn một lòng hi sinh cho lý tưởng. Tố Hữu từng trải qua những
giây phút cam go, khốc liệt nhất của dân tộc và cả những lúc trên đỉnh cao của
chiến thắng, vinh quang. Dù ở thời điểm nào cũng vậy, Tố Hữu vẫn là con
người của Đảng, của nhân dân. Ông chưa bao giờ xa rời hay nhạt phai lý
tưởng cách mạng. Ông làm thơ vì cách mạng và nhờ cách mạng, những vần
thơ của Tố Hữu bay cao và vang xa. Cả cuộc đời mình, ông đã hiến dâng trọn
vẹn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ở Tố Hữu có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng, nhà chính trị
và nhà thơ. Thơ và cách mạng - hai trong một ở con người Tố Hữu và đó như
một mối tình duyên đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất và cao cả nhất trong cuộc
đời, sự nghiệp thi ca của ông. Quá trình sáng tác của Tố Hữu gắn bó làm một
với quá trình hoạt động cách mạng của ông và các nhiệm vụ của Đảng qua
các giai đoạn lịch sử. Vì thế mà Tố Hữu được mệnh danh là người viết sử Việt
Nam hiện đại bằng thơ. Tố Hữu được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
1.4.2. Con đƣờng thơ của Tố Hữu
Trong lịch sử văn học nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có
những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đi
vào lòng người như thơ Tố Hữu trong thế kỉ 20 này. Tình yêu lý tưởng, yêu
quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ
tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Nội dung ấy
được biểu lộ vừa thầm kín và tinh tế, vừa sâu sắc và đậm đà qua 7 tập thơ nổi
tiếng của Tố Hữu. Tố Hữu sôi nổi, say sưa tự hát trong Từ ấy; hát về nhân dân
anh hùng và dựng xây với tiếng hát ân tình thủy chung trong kháng chiến
trong Việt Bắc và Gió lộng; kêu gọi, cổ vũ cuộc kháng chiến hào hùng trong
Ra trận, Máu và Hoa; suy tư, trầm lắng trong Một tiếng đờn, Ta với Ta. Tố
Hữu đã từng bộc bạch: "Thơ là kết quả của sự "nhập tâm" đời sống, trí tuệ,
tài năng của nhân dân (…). Nhập tâm từ tâm hồn, tình cảm, đến dáng đi,
giọng nói, tiếng khóc, tiếng cười. Nhập tâm đến một mức độ nào đó thì thơ
hình thành. Có thể nói thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật
đầy" [38, tr. 54]. Đúng vậy, cả đời thơ của ông đều là những lời gan ruột
với lý tưởng, với nhân dân, đất nước và chính mình. Điều đáng trân trọng
hơn cả là trước sau thơ Tố Hữu vẫn kiên định niềm tin vào lý tưởng và con
đường cách mạng.
1.4.3. Phong cách thơ Tố Hữu
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, thơ Tố Hữu tiêu biểu cho
khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Tố Hữu là một chiến sĩ - thi sĩ. Với ông,
làm thơ trước hết là để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng, cho lí tưởng của
Đảng. Ông có khả năng thơ hóa các vấn đề chính trị. Tố Hữu đã đưa thơ chính
trị lên trình độ là thơ rất đỗi trữ tình. Ông là người đầu tiên mang vào thơ Việt
Nam một phẩm chất mới: chất trữ tình riêng tư của người cộng sản. Trong thơ
ông, dù đề tài và nội dung cảm hứng có đa dạng đến đâu thì vẫn nhất quán ở
chỗ lấy lý tưởng cách mạng, quan điểm chính trị làm hệ quy chiếu cách nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
nhận và xúc cảm về mọi phương diện, mọi hiện tượng của đời sống, kể cả đời
sống riêng tư của chính nhà thơ: "Tả cảnh hay tả tình, kể chuyện mình hay kể
chuyện người, viết về câc vấn đề lớn hay về một sự việc nhỏ, đối với anh là
để nói cho được cái lý tưởng cộng sản ấy thôi" [66, tr. 193].
Nội dung trữ tình trong thơ Tố Hữu thường tìm đến và gắn với
khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu
ngay từ đầu đã là cái tôi chiến sĩ, về sau trở thành cái tôi nhân danh cộng
đồng, nhân danh Đảng và dân tộc. Nhân vật trữ tình là con người thể hiện tập
trung những phẩm chất của giai cấp, dân tộc, mang tầm vóc thời đại và lịch
sử, nhiều khi được thể hiện bằng bút pháp thần thoại hóa. Cảm hứng chủ đạo
trong thơ ông là cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu hướng vào tương lai, khơi
dậy niềm vui, lòng tin tưởng và niềm say mê với con đường cách mạng, ngợi
ca nghĩa tình cách mạng và con người cách mạng.
Một nét đặc sắc của thơ Tố Hữu là giọng điệu riêng rất dễ nhận ra. Đó
là giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết, giọng của tình thương mến. Cái giọng
"hờn dịu ngọt" của người Huế, cái giọng hò man mác thiết tha trên sông
Hương và cái giọng thầm thì của chính con sông rất đỗi thơ mộng và trữ tình.
Có được giọng điệu ngọt ngào ấy là bởi nhà thơ được thừa hưởng từ điệu tâm
hồn con người xứ Huế. Đồng thời, nó còn xuất phát từ quan niệm của Tố Hữu
về thơ: "Thơ là tiếng nói đồng ý và đồng tình, tiếng nói đồng chí"[38, tr.51].
Nhà thơ đặc biệt dễ rung động với nghĩa tình cách mạng, luôn hướng đến
đồng bào, đồng chí mà giãi bày tâm sự, trò chuyện, kêu gọi, nhắn nhủ.
Kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ
cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu
hiện. Hiện thực đời sống cách mạng, những tình cảm chính trị, đạo lí cách
mạng qua sự cảm nhận và thể hiện của Tố Hữu đã gắn bó, hòa nhập với
truyền thống tinh thần tình cảm và đạo lí của dân tộc, làm phong phú thêm
cho truyền thống ấy. Tố Hữu "tắm đẫm các ý tình cách mạng hiện đại trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
những hình thức tư duy cổ truyền thấm thía, đậm đà" [51, tr. 194]. Ông sử
dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, bốn chữ,
năm chữ, bảy chữ) và có những sáng tạo làm phong phú thêm cho các hình
thức thơ ca này. Những lối ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ và cách diễn đạt trong
thơ ca dân gian đã trở nên quen thuộc với tâm hồn người Việt được nhà thơ
vận dụng một cách sáng tạo.
Trong số các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được Tố Hữu sử dụng, có
thể nói, biện pháp ẩn dụ là một trong những biện pháp chủ đạo. Điều đó được
khẳng định ngay từ nhan đề của mỗi tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra
trận, Máu và Hoa, Một tiếng đờn, Ta với Ta. Mỗi cái tên là một ẩn dụ gợi
những ý tưởng sâu xa để người đọc hướng đến nội dung tư tưởng của toàn
tập. Và trên mỗi trang thơ ông, ta luôn bắt gặp những hình ảnh ẩn dụ biến ảo.
Do đó, việc tìm hiểu ẩn dụ trong thơ Tố Hữu cũng là một cánh cửa để mở ra
thế giới nghệ thuật rộng lớn của thơ ông.
TIỂU KẾT
Ở chương này, người viết đã trình bày một số vấn đề lý thuyết cơ bản
về ẩn dụ như: khái niệm về ẩn dụ, phân loại ẩn dụ, đặc điểm của ẩn dụ tu từ
(so sánh ẩn dụ với một số biện pháp tu từ khác). Ẩn dụ là cách thức chuyển
đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có nét tương đồng hay
giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi dựa trên sự đồng nhất
hóa cá sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên tưởng của con người phát
hiện ra ở chúng ít nhất cùng có một nét hay một đặc điểm nào đó.
Ẩn dụ tu từ không chỉ có giá trị gợi hình, là phương tiện xây dựng
hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm. Bởi vậy, nó được sử dụng
rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ, đặc biệt là thơ ca nghệ thuật.
Ẩn dụ tu từ thể hiện rõ nét phong cách tác giả, phong cách thời đại và
phong cách dân tộc. Ẩn dụ của ca dao khác ẩn dụ của Truyện Kiều, của thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
Hồ Xuân Hương, của Lục Vân Tiên… ẩn dụ của Huy Cận khác Chế Lan Viên,
Chế Lan Viên khác Tố Hữu… Mỗi nhà thơ có một phong cách riêng cũng
như mỗi thời đại có cách cảm nhận và phản ánh thế giới theo cách riêng. Thơ
trữ tình thực sự là vương quốc của các ẩn dụ. Đây có thể là địa hạt khai phá
nghệ thuật không bao giờ cũ mòn của người nghệ sĩ. Bởi mỗi bài thơ là một
tâm trạng và có những mã riêng của nó. Nghiên cứu ẩn dụ tu từ trong tác
phẩm văn học, ta sẽ có những trường phong cách khác nhau và có thể bao
quát được thế giới nghệ thuật của họ. Vì lẽ đó, người viết đã chọn khảo sát ẩn
dụ trong thơ Tố Hữu, cây đại thụ của thơ ca cách mạng Việt Nam để từ đó có
thể tìm một trong những điểm cốt lõi của phong cách một nhà thơ lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU
2.1. THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU
2.1.1. Số lƣợng ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu
Trên cơ sở thống kê qua 6 tập thơ với 284 bài trên 744 trang sách (từ
trang 21 đến trang 764), chúng tôi đã xác định được 612 lần xuất hiện ẩn dụ
tu từ.
2.1.2. Các kiểu ẩn dụ tu từ thƣờng gặp trong thơ Tố Hữu
Ở chương I, chúng tôi đã trình bày cách phân loại ẩn dụ nói chung và
phân loại ẩn dụ tu từ. Khảo sát ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, chúng tôi sử
dụng chủ yếu các tiêu chí phân loại của Đinh Trọng Lạc. Kết quả khảo sát
như sau:
BẢNG THỐNG KÊ ẨN DỤ TRONG CÁC TẬP THƠ
Tên tập thơ
Ẩn dụ hình tượng
Ẩn dụ bổ
sung
Ẩn dụ
tượng
trưng
116
Biến thể của ẩn dụ
Tổng Ẩn dụ
hình
thức
Ẩn dụ
tính chất,
đặc điểm
Ẩn dụ
cách
thức
Nhân
hóa
Vật hóa
Từ ấy 3 39 4 18 8 36 8 116
Việt Bắc 2 16 1 5 1 35 3 63
Gió lộng 2 39 4 6 3 34 12 100
Ra trận 3 31 8 9 3 38 8 100
Máu và hoa 9 16 7 6 1 29 5 63
Một tiếng đờn 7 39 6 7 9 33 2 103
Ta với ta 4 35 9 2 3 9 5 67
Tổng 30 215 39 53 28 214 43 612
Nhận xét: Kết quả khảo sát trên cho thấy: Ẩn dụ tu từ xuất hiện nhiều
trong thơ Tố Hữu, tần số xuất hiện của nó không đồng đều và hiệu quả biểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
đạt của nó ở những mức độ khác nhau. Có thể nói, số lượng ẩn dụ và số lượng
của từng kiểu ẩn dụ trong mỗi tập thơ nhiều ít khác nhau. Kiểu ẩn dụ chỉ đặc
điểm, tính chất được sử dụng nhiều hơn cả trong tất cả các tập.
Nhiều ẩn dụ trở đi trở lại đã tạo thành những điểm nhấn nghệ thuật đặc
sắc. Chẳng hạn, các hình ảnh: mặt trời, mùa xuân, ngày mai, gió, vườn hoa lá,
thiên đường xuất hiện nhiều trong tập Từ ấy. Đó là một thế giới "đầy xuân",
"thắm sắc", "đậm hương", "rộn rã âm thanh". Thế giới của ánh sáng và niềm tin,
thế giới của yêu thương và tranh đấu. Các hình ảnh: vàng nhân phẩm, sen thơm
ngát, ngọn lửa, máu và hoa, trái tim, cây chông, kho mìn nổ trở đi trở lại trong
các tập Ra trận, Máu và Hoa. Hình ảnh nắng mưa, dòng đời, cỏ dại, bình minh,
hoàng hôn trong sự chiêm nghiệm cuộc sống thì xuất hiện nhiều ở các tập Một
tiếng đờn và Ta với ta. (Xem thêm bảng thống kê chi tiết ở phần phụ lục).
Những hình ảnh ẩn dụ trở đi trở lại đã lập thành hệ thống tín hiệu
thẩm mỹ để tập trung thể hiện vẻ đẹp của lý tưởng cộng sản ở những thời
điểm khác nhau trong chặng đường hoạt động cách mạng và sáng tác của Tố
Hữu. Nó đã phần nào phản ánh phong cách thơ Tố Hữu.
Sau đây là những phân tích cụ thể về các kiểu loại ẩn dụ trong thơ Tố Hữu.
2.1.2.1. Ẩn dụ hình tượng
Ẩn dụ hình tượng là ẩn dụ sử dụng hình ảnh để thay thế tên gọi của
đối tượng. Trong thơ Tố Hữu, ẩn dụ hình tượng xuất hiện 284 lần chiếm trên
50 % tổng số 598 ẩn dụ tu từ đã được sử dụng.
Dựa trên cơ sở mối quan hệ tương đồng giữa đối tượng được thay thế tên
gọi với đối tượng được sử dụng làm ẩn dụ, ẩn dụ hình tượng được phân thành ba
kiểu: ẩn dụ hình thức; ẩn dụ chỉ đặc điểm, tính chất và ẩn dụ cách thức.
* Ẩn dụ hình thức
Ẩn dụ hình thức được hình thành trên cơ sở nét tương đồng về hình
thức giữa các đối tượng. Con đường hình thành ẩn dụ hình thức có thể xuất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
phát từ nét tương đồng giữa hình thức của sự vật, hiện tượng và con người để
biểu thị hình thức con người. Ẩn dụ hình thức xuất hiện không nhiều trong
các tập thơ của Tố Hữu. Chỉ có 30 lần được nhà thơ sử dụng nhưng nó đã
đem lại cho thơ của ông sự độc đáo, bất ngờ và có giá trị tạo hình cao. Có thể
phân tích một số hình ảnh tiêu biểu của phương thức tu từ này:
Ta lại dấn chân vào trận mới
Mạch suối trẻ trong dòng người vô địch
(Vui bất tuyệt)
Sóng người dâng ngập lối, biểu tình
(Theo chân Bác)
Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên, như một thiên thần
(Việt Nam máu và hoa)
Sóng người, mạch suối trẻ và biển máu là những ẩn dụ hình thức được
xây dựng trên liên tưởng với sóng nước, mạch suối và biển cả. Tất cả nhằm
thể hiện sức mạnh vũ bão (xô tới, ào lên) của chiến tranh nhân dân. Những
con sóng gối nhau tràn bờ vô hạn vô hồi. Cứ hết đợt sóng này lại tiếp đợt khác
ào lên mạnh mẽ. Sóng người dâng lên ngập lối, nghẽn đường trong những
cuộc biểu tình được tác giả hình dung như sóng biển vậy. Mạch nguồn trẻ
trung, dồi dào và vô tận tạo nên dòng chảy của sông suối như đang chảy trong
dòng người mang sức mạnh vô địch. Sức mạnh của ngôn từ đã giúp Tố Hữu
nói được một cách hình ảnh và giầu sức gợi về chiến tranh nhân dân. Cùng
với sóng người, mạch suối trẻ, tác giả lại viết biển máu khi nói về hiện thực
khốc liệt của chiến tranh. Bao nhiêu máu đã đổ trên khắp nẻo đường chiến
tranh. Từ vài ba vết máu loang chiều mùa đông trong thơ Hoàng Cầm đến
những cánh đồng quê chảy máu trong thơ Nguyễn Đình Thi…đã nhập hòa
trong tiếng thơ Tố Hữu để tạo nên biển máu đau thương. Từ trong máu lửa ấy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
Việt Nam đã vươn lên trong tư thế của vẻ đẹp kỳ vĩ. Sức mạnh của biển cả
nhân dân được tạo nên từ trăm sông, ngàn suối. Sự hi sinh của chú bé liên lạc
là một trong những thiên anh hùng ca như thế:
Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi!
(Lượm)
Hình ảnh dòng máu tươi trong câu thơ cuối là cách nói ẩn ngầm chỉ sự
hi sinh anh dũng của chú bé Lượm. Dòng máu ấy là biểu hiện ngời sáng của
lòng yêu nước thương nòi, là đỉnh cao của sự dâng hiến cho quê hương. Đó
cũng là cội nguồn của sức mạnh giúp nhân dân ta chiến đấu và chiến thắng:
Trường Sơn mây núi lô nhô
Quân đi sóng lượn nhấp nhô, bụi hồng
(Nước non ngàn dặm)
Những đoàn quân ra trận hiện lên tuyệt đẹp trong hình ảnh ẩn dụ quân
đi sóng lượn. Liên tưởng tương đồng đưa người đọc trở về với mây núi
Trường Sơn. Hình dung đoàn quân chuyển động như những đợt sóng uốn
lượn hết lớp này đến lớp khác, trải dài vô tận. Sức mạnh của chiến tranh nhân
dân được khẳng định qua hình tượng thơ này.
Ngọn lửa sống không bao giờ tắt
(Trưa tháng tư, Sài Gòn)
Sức mạnh chiến đấu không phải là những tiếng trống, giọng kèn cổ
động mà là hơi thở nóng truyền vào máu vào tim. Hình ảnh ngọn lửa sống là
một biểu tượng đẹp của người cách mạng. Sức sống mãnh liệt của dân tộc
được nhà thơ liên tưởng tới ngọn lửa thiêng liêng, cháy sáng, tỏa nóng ấm và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
trường tồn vĩnh hằng. Ngọn lửa sống không chỉ gợi liên tưởng về việc "đốt
lửa" mà còn có ý nghĩa nhắc nhở "giữ lửa" và "truyền lửa" trong cuộc sống.
Đó là nhiệt huyết, là tình yêu cháy bỏng, là khao khát dâng hiến tột cùng của
mỗi người cho đất nước, quê hương. Tố Hữu đã truyền ngọn lửa sống ấy đến
muôn triệu tâm hồn. Có phải "ngọn lửa sống" ấy cứ cháy sáng mãi cùng dòng
máu hồng tươi:
Dòng máu hồng tươi mãi nghĩa nhân
(Ta vẫn là xuân)
Dòng máu hông tươi, dòng máu thơm là những cách nói đẹp chỉ vẻ
đẹp tâm hồn và nhân cách của người Việt Nam. Nó có sự kế thừa trong mạch
nguồn truyền thống của cha anh. Dòng máu ấy cứ hồng tươi mãi bởi nó được
kết tinh, chắt lọc và chưng cất từ lòng nhân nghĩa tự ngàn đời. Có thể nói,
những ẩn dụ trên đều nằm trong trường liên tưởng về mạch nguồn, dòng chảy,
sóng nước và biển cả…Ngoài ra, Tố Hữu còn mượn sức nóng và sự tỏa chiếu
của ngọn lửa để khẳng định ngọn lửa sống trong mỗi người và trong hồn dân
tộc. Vì thế, thơ ông đã khơi gợi ngọn lửa thiêng có sẵn trong mỗi con người
để nó luôn cháy sáng và tỏa rạng. Phải có được niềm tin ấy, Tố Hữu mới có
được cái nhìn và cách nói đầy bản lĩnh như thế:
Triều đang lên, nước đang chuyển dòng đời
(Cảm nghĩ đầu xuân 2002)
Nói về hiện thực cuộc sống đầy biến động, Tố Hữu mượn hình ảnh
dòng đời trong sự thay chuyển của nó. Một cách nói tế nhị nhờ ẩn dụ hình
thức chuyển dòng đời. Ông truyền cách nhìn và cách đánh giá hiện thực đến
với muôn người trong những thời điểm vô cùng nhạy cảm trong thời đại và
chính bản thân nhà thơ. Tố Hữu từng suy ngẫm, trăn trở và nói lên những điều
gan ruột trong thơ. Nói sao cho thấu lẽ đời, nói sao để mọi người cùng hiểu,
nói để cùng chia sẻ, cùng thắp lửa trong đời. Những nỗi niềm ấy, ông phải
nhờ đến cách nói kín đáo, ý nhị của ẩn dụ tu từ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
* Ẩn dụ đặc điểm, tính chất
Ẩn dụ đặc điểm, tính chất được hình thành trên cơ sở mối quan hệ
tương đồng về đặc điểm, tính chất giữa các đối tượng. Loại ẩn dụ này xuất
hiện nhiều nhất trong thơ Tố Hữu với 215 lần. Ẩn dụ đặc điểm, tính chất xuất
hiện nhiều nhất trong tập Từ ấy - Gió lộng và Ra trận. Mở đầu bài thơ Từ ấy,
Tố Hữu đã viết:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
(Từ ấy)
Hình ảnh ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí và chói qua tim khẳng định lý
tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Hơn
thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, "mặt trời chân lí"
- một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: nếu mặt trời của đời
thường tỏa ánh sáng, hơi ấm và sức sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu
tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho
cuộc sống. Đó là trạng thái bừng sáng, bừng thức, bừng ngộ của tâm hồn. Ánh
sáng rực rỡ, có sức xuyên thấu và thiêu đốt mạnh mẽ của lý tưởng cách mạng
được liên tưởng với nắng hạ rực rỡ, chói chang. Liên tưởng tương đồng ở trên đã
khẳng định sự bừng sáng từ bên trong, bừng sáng về trí tuệ, lý tưởng, làm cho thi
sĩ sáng mắt, sáng lòng. Có phải, ánh nắng mặt trời chói chang rực rỡ ấy sẽ theo
sát người chiến sĩ - thi sĩ trên mọi nẻo đường cách mạng ? Phải có trong lòng thứ
ánh sáng kì diệu ấy, Tố Hữu mới có được niềm tin trong bất kì hoàn cảnh nào:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
(Việt Bắc)
Trong hai câu thơ trên, tác giả đã sử dụng các ẩn dụ đêm, đèn pha và
ngày mai để biểu hiện vẻ đẹp và lòng tin vào sự thắng lợi tất yếu, huy hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta. Nghìn đêm để có ánh sáng, có
ngày mai huy hoàng. Không chỉ tả thực về những hoạt động của kháng chiến
chống Pháp nơi căn cứ địa Việt Bắc mà tác giả muốn gửi gắm niềm tin yêu
trong những hình ảnh thơ tràn đầy niềm vui lãng mạn. Niềm vui của người
chiến sĩ còn được nói tới qua những dòng thơ:
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa
(Chào xuân 67)
Người lính đi đầu, trái tim làm ngọn lửa là hình ảnh ẩn dụ lấy cái cụ
thể thay cho cái trừu tượng. Có lẽ, Tố Hữu xuất phát từ vai trò lịch sử của
Việt Nam trong thời đại đấu tranh chống Mĩ để xây dựng hình tượng thơ này.
Ngọn lửa của trái tim này chính là ngọn lửa trái tim Đan - Kô, ngọn lửa yêu
thương, ngọn lửa đấu tranh giải phóng dân tộc, ngọn lửa của lương tri thời đại
soi đường cho các dân tộc bị áp bức tiến lên. Một vấn đề chính trị xã hội được
nhà thơ diễn đạt bằng một hình ảnh cụ thể oai hùng, hiên ngang, đẹp và sáng
rực rỡ.
Ẩn dụ phẩm chất, hành động có thể được dùng theo lối chuyển
nghĩa lấy tên gọi chung thay tên riêng hoặc lấy tên riêng thay tên chung.
Trong câu thơ:
Những hồn Trần Phú vô danh
Sóng xanh biển cả, cây xanh núi ngàn
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
tác giả đã dùng tên riêng của đồng chí Trần Phú để chỉ những liệt sĩ cách
mạng đã hi sinh như đồng chí Trần Phú. Hiệu quả của tu từ trở nên rõ nét nhờ
sự xuất hiện của từ vô danh bên cạnh tên riêng Trần Phú. Các anh hùng liệt sĩ
vô danh đã hóa thân cho dáng hình xứ sở "Làm nên đất nước muôn đời"
(Nguyễn Khoa Điềm).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
Với tâm hồn cao đẹp và bình dị, Việt Nam đã trở thành lương tri của
thời đại:
Ngôi sao chân lí của đời
Việt Nam, vàng của lòng người hôm nay
(Nước non ngàn dặm)
Ngôi sao chân lí và vàng của lòng người là những ẩn dụ chỉ cái đẹp
quí giá của tâm hồn và nhân cách con người Việt Nam t._.
dòng
- con thuyền
144
145
146
Dập dồn gió bắc, gió tây
Sóng to biển cả một tay chống chèo
Vẫn là ta đó giữa đời
Long lanh một chiếc gương soi
nhân tình
Phút giây - Tr.536 - 537 - gió bắc, gió tây
- sóng to biển cả
- chiếc gương
147
148
149
- Nếu chậm mùa xuân ấy, em ơi!
- Ôi Tổ Quốc
Tự hào thay ngọn đuốc
Và trẻ mãi, mỗi người
Một nhành xuân, của Đảng
Một nhành xuân - tr.544- 45
- mùa xuân
- ngọn đuốc
- nhành xuân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
150
151
152
- Ôi ! Phải chi đâu những lá vàng
Còn rơi, mà nghẽn lối xuân sang ?
- Cho những mùa xuân sáng Lạc Hồng
Bài thơ đang viết - Tr.547
- lá vàng
- nghẽn lối xuân
- mùa xuân
153 - Dòng đời cứ chảy, tan bèo bọt
Thế trận lòng dân dậy tiếng kèn !
Đêm cuối năm - Tr.548 - bèo bọt
154
155
- Việc đời sóng lớn, gió to
Lái cho vững lái, chèo cho mạnh chèo
Ngày và đêm - Tr.553
- sóng lớn, gió to
156
157
-Một tấm lòng son quyết giữ gìn
-Độc lập, tự do vàng quý nhất
Ngẫu hứng - tr.557 - tấm lòng son
- vàng
158
Cùng nhau xây dựng mùa xuân
cuộc đời
Xtalingrat anh hùng - tr.560
- mùa xuân
159
- Ôi, sống làm sao nếu chẳng yêu
Hoa chưa nở sáng đã tàn chiều
Gửi theo anh Xuân Diệu -
Tr.561
- nở sáng
- tàn chiều
- Nhen nhóm lửa giữa trời mưa bão Nhớ về Anh - tr.577 - Lửa
- mưa bão
160 - Thuyền con vượt sóng không
nghiêng ngả
Đảng và thơ - Tr.586 thuyền con
161
162
- Dẫu còn đêm tối rừng gai góc
Đốt lửa lên cho sáng lối đời !
Lạc đường - Tr.589 - đêm tối
- rừng gai góc
- đốt lửa
163
Bánh đời của cháu còn to lắm
Nhớ để ăn chung bạn một bàn
Cái bánh đời - Tr.591 bánh đời
164
Mai sau, những cánh đồng thơ lớn
Chắc có tro Anh bón sắc hồng
Hôn anh - Tr.592 cánh đồng thơ lớn
165 Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm
Ta vẫn là ta, ta với ta !
Bảy mươi - Tr.594 - khúc khuỷu
- đường muôn dặm
166 Mừng thế kỉ hai mươi mốt đến
Cho sáng bừng mặt đất, ánh bình minh
Chào xuân 2000 - Tr.599 ánh bình minh
167
168
169
170
171
Mới bình minh đó, đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Một tiếng đờn -Tr.600
- bình minh
- hoàng hôn
- nụ cười
- lệ
172 - Em ơi, đời mấy gió mưa
Tình ta vẫn mới như vừa bén duyên
Mới - tr.614 gió mưa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
173
- Con tằm rút ruột, im hơi
Mà nên tấm lụa cho đời, đó em !
Tằm tơ Bảo Lộc - tr.622 tấm lụa
174
175
- Ôi cuộc đời vô giá
Gai lửa nở mùa hoa
Có một ngày như thế - tr.
626
- gai lửa
- mùa hoa
176
177
Sợi ngang và sợi dọc
Dệt sao nên chữ "đồng" !
Chị bí thư nhà máy - Tr. 628 - sợi ngang
- sợi dọc
178
179
Từ đất bùn và từ máu
lửa
Hiên ngang Cu Ba - tr.632 đất bùn
máu lửa
180 Thiên đường máu, từ tay bầy quỷ dữ Chân lí vẫn xanh tươi -
tr.634
thiên đường máu
181
182
Đợi gì xuân đến ? Ta cùng bạn
Nắng tự lòng ta, cứ ấm dần
Xuân đang ở đâu…- tr.637 - xuân
- nắng
183
184
185
186
- Biển đời sóng gió, mấy thân nổi chìm
- Ai thương một đóa hoa tàn
- Vượt bao ghềnh thác, đường xa
Xuân hành 92 - Tr.638 - biển đời sóng gió
- đóa hoa tàn
- ghềnh thác
187
188
189
190
-Giữa cuồng phong, nghiêng ngửa
nửa cơ đồ
- Cuộc sống đâu chỉ hương thơm
chim hót ?
- Bão giông qua, trời đất lại tươi màu
Ta lại đi - Tr.639 - cuồng phong
- hương thơm -
chim hót
- bão giông
191
Vẫn là Anh, người thợ Ba Son
Hồng ngọc của tâm hồn đất nước
Trưa tháng 4, Sài Gòn - Tr.
645
hồng ngọc
192
193
Tình nghĩa cũng theo thời lạnh ấm
Bạc vàng đo giá trị, sang hèn ?
Chân trời mới - tr.652 bạc vàng
194 Muôn đời trời đất tặng mùa xuân
Xin sáng lòng ta một chữ nhân
Duyên thầm - tr.655 mùa xuân
195
196
197
- Và dinh lũy hòa bình cũng chìm
trong máu lửa
- Bình minh dậy xóa hoàng hôn thế kỉ
Người đứng đó, Lê Nin -
tr.662 - 663
- máu lửa
- Bình minh
- hoàng hôn thế kỉ
198
Không làm nên núi thì nên đá
Lót dặm đường xa, đỡ bụi lầm
Huế lại huy hoàng - tr.665 lót dặm đường
xa
199
200
201
Bỗng nổi cuồng phong lộn đất trời
Chân lí, mặt trời soi sáng mãi
Lỗi lầm, âu cũng bóng mây qua
Thăm Bác, chiêu đông - tr.
669
- mặt trời
- bóng mây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
202 Gọi là chút lửa qua đêm Cùng miền trung và quê
hương - tr.723
lửa
203
204
Bạc vàng đâu dễ mua nhân nghĩa ?
Hạnh phúc, đây xuân của mọi người !
Mùa xuân mới -Tr.671 - bạc vàng
- xuân
205
206
Như huyền thoại, từ tro tàn, máu chảy
Phượng hoàng vươn cánh dậy, hồi
sinh
Cho xuân hạnh phúc đến
muôn người ! - Tr.674
- tro tàn, máu
chảy
- phượng hoàng
207 Lòng ta, lò lửa đỏ
Vẫn niềm tin sôi sục
Thăm trường nguyễn Thái
Bình -Tr.701
lò lửa đỏ
208
209
210
211
- Đã lên thuyền, hướng không lay chuyển
- Rác rưởi, thì cùng nhau quét dọn
Lẽ nào cỏ dại lại là hoa ?
Vạn Xuân -Tr.703 - thuyền
- rác rưởi
- cỏ dại
- hoa
212
213
214
215
Bình minh dậy với mặt trời chân lí
Nhưng sen thơm vẫn nở giữa bùn
đen
Chào mừng năm 2000 ! -
tr.724
- mặt trời chân lí
- sen thơm
- bùn đen
3. Ẩn dụ cách thức
STT Câu thơ Bài thơ - trang Từ ngữ
1
2
Em đi với chiếc thuyền không
Khi mô vô bến rời dòng dâm ô
Tiếng hát sông Hương
- tr.32
- chiếc thuyền
không
- vô bến
- rời dòng dâm ô
3
4
Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu
Cho ta bước tới cõi đời cao rộng
Hãy đứng dậy - tr.43 - nhịp cầu
- cõi đời cao
rộng
5 Tưởng là hoa lại liền cành
Hỡi ôi chăn gối tan tành mộng êm
Chị là người mẹ - tr.267 hoa lại liền cành
6 Sống làm quả bom nổ Phạm Hồng Thái - tr.274 quả bom nổ
7
8
Lê nin, ấy là lò thép chảy
Lê Nin, ấy là nguồn điện lực
Với Lê nin - Tr.288 - lò thép chảy
- nguồn điện lực
9
10
11
Cho ta được làm kho mìn nổ
Đèo Hải Vân, quật đổ quân thù
Cho ta được làm cây chông miệng hố
Đâm chết bầy giặc bố chiến khu
Có thể nào yên - tr.345 - kho mìn nổ
- cây chông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
12
Đường vui không đợi mùa trăng
Ta đi, làm ánh sao băng giữa trời
Đường vào - tr.386 ánh sao băng
13 Thuyền bơi có lái qua mưa gió
Không lái thuyền trôi, lạc bến bờ
Chuyện thơ - Tr.406 thuyền bơi có lái
14
15
16
17
Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa
Chào xuân 67 - tr.409
- hạt giống
- điểm tựa
- người lính
đi đầu
- ngọn lửa
18 Cả đất trời vào xuân cùng ta đồng khởi
Cho những mùa gặt lớn mai sau
Với Đảng, mùa xuân - tr.527 mùa gặt lớn
19
20
21
22
23
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá
phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình
Một khúc ca xuân - tr.532 - con chim phải
hót
- chiếc lá phải
xanh
- vay - trả
24
25
26
- 50 năm
Đêm hóa trăng rằm
tỏ mặt người, mặt đất
- Một lá rụng lại trăm mầm lộc mới
Một nhành xuân - tr.544 - đêm hóa trăng
rằm
- lá rụng
mầm lộc mới
27
Xôn xao máy động vang rừng núi
Rẽ sóng tàu ra nắng đại dương
Bài thơ đang viết - tr.547 rẽ sóng tàu ra
28
29
Dẫu còn sương giá đanh thêm mạ
Cho lúa xuân thêm sắc mượt mà
Xuân đấy - tr.556 - sương giá
- sắc mượt mà
30 Biên cương nổi gió Nhớ về Anh - tr.578 nổi gió
31
Đàn chim én báo mùa xuân tới
Vượt trùng dương sóng lớn, đường xa
Chân trời mới - tr.653 vượt trùng
dương
32
33
34
Được làm cây lúa vàng thơm hát
Làm tiếng chim thanh hót sớm chiều
Làm hàng gạch lát đường thơm mát
Tiếng còi xa - tr.667 - cây lúa vàng thơm
- tiếng chim
- hàng gạch lát đường
35
36
Đã nghe giống mới đầy sinh lực
Đang cựa mầm non dưới tuyết dày
Mùa xuân mới - tr.670 - giống mới
- cựa mầm non
37 Cho nhựa sống mùa xuân này nảy lộc Cho xuân hạnh phúc đến
muôn người - tr.676
nhựa sống mùa
xuân
38
39
Phượng rồng bay trừ ngay rắn độc
Hạnh phúc chung xã hội người hiền
Chào xuân 99 - tr.705 - phượng rồng
- rắn độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
4. Ẩn dụ tƣợng trƣng
STT Câu thơ Bài thơ - trang Từ ngữ
1 Mầm hận ấy trong lồng xương
ống máu
Đi đi em - tr.27 mầm hận
2 Và đây anh cả một khối căm hờn Hai cái chết - tr.41 khối căm hờn
3 Ý chết đã phơi vàng héo úa Dửng dưng - tr.45 ý chết
4 Hãy về đây trong đáy giếng hồn tôi Lao Bảo - tr.47 đáy giếng hồn tôi
5 Gân thêm săn và máu hận thêm hồng Ý xuân - tr.54 máu hận thêm hồng
6 Cả tương lai ngào ngạt vị thơm bùi Nhớ người - tr.76 tương lai ngào ngạt
7 Dậy lên, hỡi những linh hồn thép Dậy lên thanh niên - tr.95 linh hồn thép
8 Trong lòng anh hun lại khối căm hờn Châu Ro - tr.115 khối căm hờn
9 Trên đầu bay, thác lửa hờn căm ! Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - tr.229 thác lửa hờn căm
10 Nghìn mảnh tương lai về phấp phới Quê mẹ - tr.253 mảnh tương lai
11 Căm thù cháy mãi trong tim Chị là người mẹ - tr.268 - căm thù
- cháy
12 Hãy rèn luyện những tâm hồn
gang thép
Trước KRem- Lin - tr.284 tâm hồn gang thép
13 Phải đâu tim cứng thành khuôn dấu Chuyện thơ - tr.406 tim cứng
14 Hàng hóa lương tâm cũng thiếu thừa Tâm sự - tr.411 hàng hóa lương tâm
15 Tắm gội lòng ta chẳng bao giờ cạn Tuổi 25 - tr.464 tắm gội lòng ta
16 Tất cả đồi nho không làm nên
một cốc rượu vui
Ron, hoàng hôn - tr. 482 cốc rượu vui
17 Vui sâu thẳm từ nghìn xưa gốc rễ Ca vui - tr.554 vui sâu thẳm
18 Cây đời chung đang lớn lên nhanh Nhớ về Anh - tr.583 cây đời
19 Tương lai nảy mầm non từ hiện tại Nhớ về Anh - tr.583 tương lai nẩy mầm
20 Bánh đời của cháu còn to lắm Cái bánh đời - tr 591 bánh đời
21 Một đời thơ những vấn vương lẽ đời Nhớ Chế Lan Viên - tr.598 đời thơ
22 Bến vui đang đợi người đi tới Anh sáo mù - tr.602 bến vui
23 Đời mới giang tay mở cửa Chị và em - tr.606 đời mới
24 Chớ vội cười, chân lí vẫn xanh tươi Chân lí vẫn xanh tươi - tr.635 chân lí vẫn xanh tươi
25
26
- Đời đâu phải thị trường nhân phẩm
- Ta sẽ đến, những chân trời mới
Chân trời mới - tr.652 thị trường nhân phẩm
Biển mênh mông, ai đến trước ai ?
Đã lên thuyền, hướng không thay đổi
Vạn xuân - tr.703 - iển
- thuyền
27 Nhạt lương tâm, lạnh ngắt đồng tiền Chào xuân 99 - tr.704 nhạt lương tâm
28 Tự sức ta với trí tuệ và tinh thần
gang thép
Cùng miền Trung và quê
hương - tr..726
tinh thần gang thép
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
5. Ẩn dụ bổ sung
STT Câu thơ Bài thơ Ghi chú
1 Nghe tiếng lòng con vẳng đến đây Vú em - r 31 nghe tiếng lòng
2
3
Đường thơm tho như mật bộng trưa hè
- Không gian hồng như giấc mộng đê mê
Hy vọng - tr - đường thơm tho
- không gian hồng
4
5
6
- Say tương lai là tuổi của anh hùng
- Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một chút ngọt bù
Như những con tàu -
Tr52
- say tương lai
- mùi hương chân lí
- đời đắng cay
7
8
- Lệ đã chua cay ngấm nụ cười
- Tôi đã nghe ran nóng máu hăng say
Ý xuân - tr.54
- lệ đã chua cay
- nghe ran nóng
9
10
11
- Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
- Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài
- Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày
Tâm tư trong tù - tr. 71 - tiếng đời lăn náo nức
- nghe mênh mang
- hương tự do
12
13
- Để chi e ấp buồn thêm héo lòng
- Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa
Trăng trối - tr111
- héo lòng
- đời mặn nồng
14 -Tiếng rao sao ướt lạnh tê lòng Một tiếng rao đêm -
Tr.140
ướt lạnh
15
16
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn vẫn tươi vui thơm ngát tình đời
Hồ Chí Minh - tr.161 - lòng cay đắng
- tươi vui thơm ngát
17 Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi Huế tháng Tám -tr.165 máu thơm tươi
18 Hương tình nhân loại bay man mác Xuân nhân loại - Tr.171 hương tình
19
20
A! Tiếng hát
Ngọt như đường cát
- Lắng nghe tiếng hát
Thơm mát
của các em
Đêm xanh - tr.177
- ngọt
- thơm mát
21
- Khoai mãn mùa đi đến sắn về
Say màu hương mới, dậy hồn quê
Tình khoai sắn - tr. 180 màu hương mới
22 Nằm bên em nghe má ấm trong tay
Sợ tiếng gà gáy sáng hết đêm nay
Sợ - tr. 193
nghe má ấm
23
Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
5
màu quê hương
24 - Mẹ ơi, dưới đất còn chua xót Trên miền Bắc mùa
xuân - tr. 271
đất còn chua xót
25 Nhạc nhân gian cuồn cuộn bốc hồng trần! Vui bất tuyệt - Tr.173- cuồn cuộn bốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
26
27
- Đã nghe gió ngày mai thổi lại
Đã nghe hồn thời đại bay cao
Ba mươi năm đời ta
có Đảng - tr.317
nghe
28
29
30
- Ô tiếng hót vui say con chim chiền chiện
- Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng
- Đảng cho ta trái tim giàu
Bài ca mùa xuân 61 -
tr.329
- tiếng hót vui
say
- nghe hồn
- trái tim giàu
31 Ngọt tiếng hò đưa những chuyến đò xa Có thể nào yên - Tr.344 - ngọt tiếng hò
32 Ôm con nhỏ ru trong lòng mát rượi Giữa ngày xuân - Tr.351 lòng mát rượi
33 Phải chăng có những khúc đường
nóng lạnh
Trên đường thiên lí -
tr.359
khúc đường nóng
lạnh
34 Người vẫn ngọt ngào qua muôn nỗi
đắng cay
Chào xuân 67 - Tr.409 - ngọt ngào
- đắng cay
35 Tóc tang lòng vẫn không cay đắng Tâm sự - Tr.411 cay đắng
36 Ầm ầm biển lửa nhân dân
Đẹp như Huế dậy đầu xuân đỏ cờ
Chuyện em... tr. 425 ầm ầm biển lửa
37
38
- Lời di chúc gửi, êm bên gối
- Đời vui tiếng Bác ấm muôn nhà
Theo chân Bác -
Tr.433 - 452
- lời êm
- tiếng Bác ấm
39 Mát dạ ông cha nghìn thuở trước Theo chân Bác - Tr.444 mát dạ
40
Phải bao máu thấm trong lòng đất
Mới ánh hồng lên sắc tự hào
Xin gửi miền Nam - tr.478 sắc tự hào
41
42
Đã qua biên giới tới gần
Nghe lòng rạo rực, nghe chân bồn chồn
Nước non ngàn dặm -
tr. 499
- nghe lòng rạo rực
- nghe chân bồn chồn
43
44
Nặng lòng xưa giọt mưa đau
Mát lòng nay trận mưa mau quê nhà
Nước non ngàn dặm -
tr.507
- nặng lòng
- mát lòng
45 Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển
Xanh trời, xanh của những giấc mơ...
Vui thế hôm nay -
tr.521
xanh giấc mơ
46
47
- Chiều xanh bát ngát một vùng lúa xuân
- Việt Nam! Việt Nam, màu xanh hát ca
Màu tôi yêu - tr. 550 - chiều xanh
- màu xanh hát ca
48 Như tiếng hát từng băng qua lửa đạn
Rất diệu kì bỗng hóa những cành hoa
Ca vui - tr. 555 - cành hoa
49
50
Ai hay ngọt đất, quây quần dòng kênh
Nồm trưa, nghe mát tận cùng ruột gan
Đồng Thoại Sơn - tr.609 ngọt đất
nghe mát
51 Đắng cay mấy, vẫn ngọt ngào lòng ta Chợ Đồng Xuân - tr.613 ngọt ngào lòng
52
53
Tiếng thu man mác, nhạc trong ngần Lòng Anh - tr.631 - tiếng thu
- nhạc trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
6. Nhân hóa
STT Câu thơ Bài thơ Ghi chú (từ)
1
2
Gió vẫn vô tình lơ đãng bay
Những tàu cau yếu sẽ lung lay
Vú em - Tr.30 gió - vô tình
3
4
5
-Ven bờ sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đi về trong gió mai
Thành quách trăm năm sầm nét mặt
Dửng dưng - Tr.44 - mộng - lả lướt
- sầm nét mặt
6 Rêu hèn sống gửi nhánh khô gày Dửng dưng - Tr.45 - hèn
- sống gửi
7
8
9
- Đèo cao vút vươn mình trong lau xám
- Gió nói gì với rừng sâu u ám
- Đường sao run, tê tái cả hồn thơ
Lao Bảo - Tr.46 - vươn mình
- nói
- run
10 Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới Ý xuân -Tr.54 bước
11
12
13
Trăng khuya len xuống rừng dài
Sáo kêu réo rắt gần xa
Sáo kêu gục giã bước chân quân Hồng
Tiếng sáo ly quê -
Tr.66 -67
- len
- kêu
14
15
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Nhớ đồng - tr.84 - nhả
- che
- thở
16
17
Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ
Đây sàn lim manh ván ghép sầm u
Tâm tư trong tù -tr.71
- khắc khổ
- sầm u
18
19
20
- Cái bụng cứ nằn nì:
"Ăn đi thôi, ăn đi !"
- Rồi tha thiết van lơn:
"Đời mới hai mươi xuân"
- Rồi hắn thay chiến thuật:
"Ăn đi vài con cá…
Con cá, chột nưa -
Tr.103 - 10
cái bụng (nằn nì -
van lơn - thay
chiến thuật)
21 - Khi con tu hú gọi bầy Khi con tu hú -tr.83 gọi
22
23
24
- Kiểng tù khua gắt gỏng
- Máy điện giục gầm gừ
- Chuông đạo hát vô tư
Ba tiếng - Tr.130 - khua
- giục
- hát
25
26
27
- Xe ơi chậm chậm ngừng giây phút
- Thông reo bờ suối rì rào
- Núi hỡi ! Từ đây băng xuống đó…
Tiếng hát đi đày -
Tr.143-144
- ơi
- reo
- hỡi
28 Hôm nay xuân ốm dậy Xuân đến - Tr.158 ốm dậy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
29
30
31
- Huế xôn xao lo lắng những đêm mơ
- Trăng thì thầm chi với sóng lao xao
- Gió gió ơi ! Hãy làm giông làm tố
Huế tháng Tám -
Tr.163 -165
- lo lắng
- thì thầm
- ơi
32
33
Lâu rồi khao khát lắm xuân ơi
Đang nghe xuân tới nở môi cười
Xuân nhân loại -
Tr.172
- ơi
- tới
34
35
36
- Chiều chiến thắng phá tan quân quỷ sứ
- Hồn ta chạy sáng ngời trên ngọn đuốc
- Lòng ta múa lồng lên theo đám rước
Vui bất tuyệt - Tr.173
- 174
- phá tan
- chạy
- múa
37
38
39
40
- Ngày xưa khoai sắn sống lang bang
- Một bữa cờ son lên đổi ngôi
Sao thiêng nghiêng xuống những lưng đồi
- Sắn khoai hăm hở về dinh chiếm
Tình khoai sắn -
Tr.179
- sống lang bang
- lên
- nghiêng xuống
- hăm hở
41
42
43
44
45
-Trường tôi vui giữa luống cày
- Trường tôi vui giữa biển khơi
- Chữ reo mặt sóng, chữ ngời ghe câu
- Chữ theo đuốc lửa, đêm thâu tiếng cười
Trường tôi - Tr.181 - vui
- reo
- ngời
- theo
46
47
- Nước Hương giang hiền lành, thanh tịnh
- Con đò đủng đỉnh
Lạnh lạt - Tr183 - hiền lành
- đủng đỉnh
48
49
50
- Lửa vui từng mái nứa tươi xanh
- Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
- Núi kêu anh bộ đội lên đường
Lên Tây Bắc - Tr.205 - vui
- reo
- mừng
- kêu
51
52
53
54
55
- Con bồ câu trắng ngây thơ
- Lát rồi, chim nhé, chim ăn
- Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
- Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi
- Hồn biển lớn đón muôn lời thủ thỉ
Sáng tháng năm -
Tr.222- 224
- ngây thơ
- nhé, ăn
- cười
- đón
56
58
59
60
Ngựa bay lên dốc
Đuốc chạy sáng rừng
Chuông reo tin mừng
Loa kêu từng cửa
Hoan hô chiến sĩ Điện
Biên - tr. 226
- bay
- chạy
- reo
- kêu
61 Sông Thao nao nức sóng dồi Ta đi tới - Tr.232 nao nức
62
63
64
- Mình về rừng núi nhớ ai
- Núi giăng thành lũy sắt dày
- Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Việt Bắc - Tr.238 -242 - nhớ
- giăng
- che
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
65
66
67
- Người đi, rừng núi trông theo bóng Người
- Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
vây
- trông
68
69
70
71
- Hà Nội ơi, Hà Nội !
- Hà Nội ta không ngủ
- Hà Nội ta không khuất
- Thiền thu hồn nước mong chờ bấy nay
Lại về - Tr.246 - ơi
- không ngủ -
hông khuất
- mong chờ
72
73
74
75
76
77
- Huế ơi, quê mẹ của ta ơi !
- Huế không buồn nữa, Huế ta ơi
- Mắt ướt trăm năm đã hé cười
- Huế của ta không một bước lùi
- Huế của ta đây cầm vững súng
- Huế lại về vui giữa Cộng hòa
Quê mẹ - Tr.253 - ơi
- cười
- lùi
-cầm vững
- vui
78
79
- Những phố chợ gầy đen hấp hối
Bỗng tuôn trào nước mắt hoan hô
Vinh quang Tổ quốc
chúng ta - tr. 259
- gầy đen hấp hối
- tuôn trào
80
81
Hồn kêu trên mái muôn nhà
Hồn kêu trai gái trẻ già đứng lên
Chị là người mẹ -
Tr.268
kêu
81
82
Ga mới hồng đôi má
- Nghe hơi thở của đồng quê mập mạp
Trên miền Bắc mùa
xuân -Tr.269
- hồng đôi má
- hơi thở
83
Thơ ta ơi ! Hãy cất cao tiếng hót
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta
Mùa thu tới - Tr.296 ơi
84
85
86
87
88
89
- Trăng qua rào song
Trăng nghiêng mặt cười
- Trăng đi qua núi qua rừng
Hỏi anh T.S: " có ưng nhắn gì ?"
- Trăng tươi mặt ngọc
- trên trời
Ngẩn ngơ trăng ngó mặt người như trăng
Ba bài thơ trăng -
Tr.300 - 301
- qua
- nghiêng
- cười
- mặt ngọc
- ngẩn ngơ
- ngó
90 Hồn chúng tôi quẩn quanh cùng đất nước Thù muôn đời muôn
kiếp không tan - tr.303
quẩn quanh
91
92
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu Ba mươi năm đời ta có
Đảng - Tr.318
- kêu
- van
93
94
95
96
- Chào xuân đẹp ! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu mà má em đỏ dậy
- Xuân ơi xuân, vui tới mênh mông
Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh
Bài ca mùa xuân 1961
- Tr.328 - 329 - 331 -
333
- vui
- em yêu
- ơi
- tim ôi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
97
98
99
100
101
- Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
- Xuân ơi xuân, em mới đến dăm năm
- Ta biết em rất khỏe, tim ôi
Không khóc đấy. Nhưng mà sao nóng bỏng
- Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa
- khóc
- ơi
102
103
104
105
- Hòn Nẹ ta ơi, mảng về chưa đó
-Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù ?
- Hỡi rừng sa mộc, khóm dừa xanh
-Hỡi đồi cát trắng rung rinh nắng
Mẹ Tơm - Tr.336 -337
- ơi
- nhớ
- hỡi
107 Mây chiều xa bay giục cánh chim Miền Nam -Tr.354 bay - giục
108 Ghe máy từng đoàn săn đuổi cá Lá thư Bến Tre - Tr.349 săn đuổi
109
110
111
112
Có thể nào khuây ? Cỏ cây vẫn nhắc
Những con chim lười còn ngủ dưới
hàng me
Vừa tỉnh dậy, rật lên trời ríu rít
Có thể nào yên ?
Tr.344
- nhắc
- ngủ
- tỉnh
- dậy - rật
113
114
Máu kêu máu ở trên đời tha thiết
- Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa
Hãy nhớ lấy lời tôi -
tr.375
kêu
115
116
117
118
119
120
121
- Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời
- Mà con én đã gọi người sang xuân
- Biết là xuân đến cầm tay lên đường
-Xuân ơi xuân chọn hướng nào
Vui đây Miền Bắc hay vào Mền Nam
- Xuân vui chợt đến giữa đường hành quân
- Xuân vui ca múa mọi vùng
Tiếng hát sang xuân -
Tr.377 -378 -
- đến
- ơi
- chọn
- vui
- và
- chợt đến
- ca múa
122
123
Ôi những nàng xuân rất dịu dàng
- Xuân ở Miền Nam có nóng không ?
Xuân sớm - Tr.402 - nàng
- ở
124
125
126
127
- Xuân hãy xem ! cuộc diễu binh hùng vĩ
- Mặt trời đỏ dậy
Có vui không
- Hãy xung phong ! Hỡi mùa xuân 67
anh hùng
Chào xuân 1967 - Tr.410 - xem
- dậy
- vui
- anh hùng
128
129
130
131
- Ôi chiếc mũ vải mềm dễ thương như
một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Mà xông xáo, mà tung hoành ngang dọc
Bài ca xuân 68 - tr. 16 - đau
- xông xáo
-tung hoành
132 - Miền Nam mong Bác nỗi mong cha Bác ơi ! - Tr.30 mong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
- Hỏi dòng khe ấy, hỏi tre lau
Những ngày tháng xưa Bác ở đâu?
Núi vẫn nghiêng đầu nghe vách đá
Hát cùng cây lá gió ngàn sâu…
- Bụt mọc dầm chân đứng đợi ai
- Ngọn đèn kia thức bên ai đó
- Con cá rô ơi chớ có buồn
- Dừa ơi cứ nở hoa đơm trái
- Gió ơi gió, chim ơi có biết
- Yêu nụ mầm non, yêu tuổi trẻ
Biển thường yêu vậy sóng xôn xao
Theo chân Bác
- Tr.441
- tr.452
- tr.453
- tr. 454
- hỏi
- nghiêng đầu
- nghe
- hát
- đứng đợi
- thức
- ơi
- yêu
- xôn xao
144
145
146
147
148
149
150
- Con én về bên cửa sổ, nhìn sang
- Đất nước vào xuân gọi những cánh đồng
- Dâu hẹn vàng tơ, chè mơ thêm lứa
- Đàn bò mộng Cu-ba đủng đỉnh đi,
ngắm núi Ba Vì
-Và những mái gà Hung làm bạn với gà ri
- Cuộc sống mới có đôi mắt Đảng
- Hà Nôi đau, tim ở Huế, sài Gòn
- Miền Nam ơi, Miền Nam quê hương
Bài ca xuân 71 -
Tr.476 - 477 - 478 -
479
- về
- nhìn
- gọi
- hẹn
- ngắm
- đau
- ơi
151
152
153
154
- Ngọc Hà em ! Lộng lẫy hoa tươi
- Song mùa vui đã mang xuân đến
- Hãy trào lên, ơi sóng Cửu Long
- Sài Gòn ơi, Huế ơi ! Xin đợi
Việt Nam máu và hoa
- tr.491 - 492
- em
- mang
- ơi
- đợi
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
- Cây khô chết chẳng nghiêng đầu
- Bình Long, Nam Bộ ta ơi !
- Sóng Tiền Giang gọi Hậu Giang
- Sài Gòn ơi, lại phải đi bao ngày ?
- Sầu riêng bịn rịn nhớ Miền Nam xa
- Tây Nguyên ơi ! Bước truân chuyên
- Trà My đây, hỡi Trà Bồng
Có hay cây quế đợi trông tháng ngày
- Nghe sông gọi suối, nghe voi gọi bầy
- Ôi ! Làng Rô nhỏ của tôi
- Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi !
Nặng lòng xưa giọt mưa đau
Nước non ngàn dặm -
Tr. 503 - 505 - 506 -
507
- chết
- nghiêng đầu
- ơi
- bịn rịn nhớ
- ơi
- hỡi
- đợi trông
- gọi
- ơi
- đau
167
168
169
Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào
Thời đại cho Anh ánh sao trí tuệ
Lịch sử sang xuân. Anh vào trận cuối
Toàn thắng về ta -
tr.515
- cho
- sang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
170
171
172
- Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình
- Huế ơi, dẹp lắm quê nhà
Bài ca quê hương -
Tr.519 - 520
- ơi
- tự tình
ơi
173 Đắm say gió gọi trăng mời Đêm thu quan họ - tr.563 gọi - mời
174 Như tiếng hát từng băng qua lửa đạn
Rất diệu kì bỗng hóa những cành hoa
Ca vui - tr.555 băng
175
176
177
178
Phơi phới xuân vui với cuộc đời
- Thơ ơi, thơ muốn hát ca gì
Tôi muốn dắt thơ đi
- Việt Nam ơi
Xuân đấy - Tr.556
- xuân vui
- ơi
- hát ca
- ơi
179
180
Thông reo lúa chín vẫy chào người thân Hà Trung - tr.564 reo - vẫy
181
182
183
Nắng vờn núi gấm chênh chênh
Sóng dờn sông Mã lượn quanh hàng đồi
Cẩm Thủy - tr.566 - vờn
- lượn
184 Trâu đàn, bò mông trên đường nhởn
nhơ
Ngọc Lặc - tr.567 nhởn nhơ
185 Lại đây, Bến Mẩy, Bãi Trành đợi ai Như xuân - tr.568 đợi
186
187
Lúa đau làm dạ anh buồn Hoằng Hóa - tr.571 đau - làm
188
189
Xõa xanh mái tóc, hàng dừa đưa duyên Hậu Lộc - tr.573 xõa - đưa
190
191
192
Chuối tiêu đứng tựa bờ rào
Ngả tàu lá nõn xanh vào hồn ta
Giàn leo dây nhót xanh non
Đẻ ra chi chít trứng son, ngon là !
Vườn nhà - tr.575 - đứng tựa
- ngả
- đẻ
193
194
195
196
Diều hâu lượn với bồ câu vui vẻ
Cả rắn độc cũng hiền như giun dế
Và cá sấu thương ai mà khóc sụt sùi
Chào năm 2000 ! -
tr.598
lượn - vui vẻ -
hiền
thương
197 Có khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim tự xát muối coo đơn
Một tiếng đờn - tr.600 xát
198
199
Gió ru dừa nước, đước say bãi bồi Một thoáng Cà Mau -
tr.601
- ru
- say
200
201
Thuyền reo, xô sóng dập dềnh Đồng thọa Sơn -
tr.608
- reo
- xô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
215 Thuyền đưa bạn đến thăm nhau Đêm trăng Năm Căn -
tr.607
đưa
203 Lá dâu mơn mởn, dịu dàng Tằm tơ Bảo lộc -
tr.621
- dịu dàng
204 Xuân đang ở đâu, đang về đâu ? Xuân đang ở đâu…
tr.637
- ở
- về
205 Rừng mơ ríu rít. Bác về thăm Chù Hương - tr.646 ríu rít
206
207
208
- Hồn có nghe chăng những nỗi đời ?
- Huế đã cười vui đủ ấm no
Sương khói bâng khuâng trái chín hồng
Huế lại huy hoàng -
665
Thăm Bác, chiều đông
- tr.668
- nghe
- cười
- bâng khuâng
209 Huế ơi ! Khổ cực muôn vàn Cùng miền Trung và
quê hương - tr.723
ơi
210
211
212
213
Sóng vờn quanh đảo nhảy
- Đời vui đang đến
Biển mơ - tr.717 - vờn
- nhảy
- đến
214 Lòng ơi, sao khắc khoải mãi lo âu ? Cho xuân hạnh phúc
đến muôn người ! -
tr.675
ơi
7. Vật hóa
STT Câu thơ Bài thơ - trang Tập thơ
1 -Vẫn than ôi, một lũ chó đê hèn Tranh đấu - tr.98 lũ chó
2
3- 4
5- 6
7
- Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
- Một toán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
- Má hét lớn: Tụi bay đồ chó
Bà má Hậu Giang -
Tr.121 -123
- hùm sói
- toán quỷ
- mũi chó
- mắt mèo
- râu dê
8 - Chiều chiến thắng phá tan quân quỷ sứ Vui bất tuyệt - tr.173 quân quỷ sứ
9 Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng Sáng tháng năm - tr.222 loài dơi
10
11
Bay đâu lũ diều hâu ?
Quỷ sứ cười đêm ngày !
Lại về - tr.245 - lũ diều hâu
- quỷ sứ
12
13
Mỗi viên đạn một đời thằng quỷ
- Đàn tép mà ép biển khơi
Quạ đen mà chiếm một trời được chăng ?
Quang vinh tổ quốc
chúng ta Tr.- 261 - 262
- thằng quỷ
- đàn tép
- quạ đen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
14
15
16
17
18
- Thực dân phong kiến một bầy
Chúng là thú vật, ta đây là người
- Không cho lũ vật tanh hôi bám hoài
- Kinh hồn lũ quỷ thực dân
- Giáng một trận dập đầu quỷ dữ
- thú vật
- lũ vật
- lũ quỷ
- quỷ dữ
19
20
Những thằng dạ chó, tanh hôi mặt người
Những con thú, mĩ nuôi béo mã
Chị là người mẹ - tr.267 - thằng dạ chó
- con thú
21 Rát mặt loài lang nhưng ấm dạ loài người Đường sang nước bạn - tr.280 loài lang
22
23
Thuốc độc đó trong tay bầy chó Mĩ
Những con chó giữ vàng cho bạch ốc
Thù muôn đời muôn kiếp
không tan - tr.304
bầy chó Mĩ
24 Bầy chó dữ, những con người - thú Miền Nam - Tr.355 bầy chó dữ
25 Khi ta không biết sợ quỷ trên đời Trên đường thiên lí - tr.
361
quỷ
26 Cũng loài báo hổ ruồi xanh Kính gửi cụ Nguyễn Du -
tr.390
- hổ báo
- ruồi xanh
27
28
- Con quỷ vàng trên mặt đất
- Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ
Ê-Mi-Li, con...- tr.398 con quỷ
bầy ma quỷ
29
30
- Chiến tranh nổ. Gần xa hùm sói
- Thề diệt xâm lăng, lũ sói cầy
Theo chân Bác - tr.440
tr.447
- hùm sói
- lũ sói cầy
31 Lũ diều hâu phải rã cánh tan đầu Bài ca xuân 71 - Tr.470 lũ diều hâu
32 Đánh một con thú dữ mặt người Rôm, hoàng hôn- tr.479 con thú dữ
33 Cút sạch đi bầy sói tanh hôi Việt Nam máu và hoa -
Tr.491
bầy sói tanh
hôi
34 Có những sói lang và những anh hùng Đường của ta đi - tr. 510 sói lang
35 Mặc chúng nó, lũ sói beo bầm gan tím mật Một nhành xuân - Tr.544 lũ sói beo
36
37
Thiên đường máu từ tay bầy quỷ dữ ?
Cả đàn sói chồm lên, cắn vào lịch sử
Chân lí vẫn xanh tươi -
tr.634 - 635
- bầy quỷ dữ
- đàn sói
38 Quét sạch ngay bầy sâu bọ tanh hôi Cho xuân hạnh phúc đến
muôn người - Tr.676
bầy sâu bọ
39
40
41
Mặt nạ người che lòng dạ quỷ
Rồng muốn bay trừ ngay rắn độc
Chào xuân 99! - tr.704 quỷ
rắn độc
42 Rát mặt lũ diều hâu lầu năm góc ÊmiLi và mẹ An - tr.700 lũ diều hâu
43 Đang nhảy nhót với một bầy hùm sói Chào mừng năm 2000 ! - tr.724
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9168.pdf